Tác giả - Tác phẩm

Abraham, Cha chúng ta trong đức tin (3)

  • In trang này
  • Lượt xem: 6,763
  • Ngày đăng: 24/06/2021 14:38:02

ABRAHAM, CHA CHÚNG TA TRONG ĐỨC TIN[1]

Carlo Maria Martini

 

Dẫn nhập

Trong các bài suy niệm về Abraham, chúng ta học nơi tổ phụ một niềm tin vững chắc, sắt đá vào Thiên Chúa và chương trình của Ngài. Abraham đã trải qua cả cuộc đời trong thử thách đức tin, và tổ phụ vẫn phó thác, tin tưởng trọn vẹn vào Thiên Chúa. Những dấu chỉ Chúa tỏ lộ, dù rất nhỏ bé đã đủ cho tổ phụ đặt trọn niềm tin.

 

Hành trình đức tin của Abraham cũng là hành trình đức tin của mỗi người chúng ta. Ước gì trên hành trình đức tin đó, chúng ta luôn được soi sáng và củng cố bởi tấm gương đức tin của tổ phụ, và nhờ vậy, chúng ta sẽ luôn kiên vững trong đức tin dù phải trải qua thử thách, gian nan đến đâu đi nữa.

 

Trong những trang sách về Abraham, Đức Hồng Y Martini cũng cho chúng ta những hướng dẫn rất quí giá về linh thao. Hi vọng điều đó sẽ giúp chúng ta suy niệm hoặc sống tuần tĩnh tâm đạt kết quả tốt đẹp.

                                                            Linh mục Mỹ Sơn, Long Xuyên

 

 

BÀI BA

Abraham sợ hãi

 

Trên hành trình đức tin, không phải lúc nào Abraham cũng hoàn toàn tin tưởng, phó thác trọn vẹn cho Chúa. Ông cũng trải qua những thử thách làm đức tin mờ tối đi. Trong bài này, chúng ta sẽ tìm hiểu làm thế nào một hiểu biết Thiên Chúa không còn trong sáng, rõ ràng đã làm cho Abraham lâm vào cảnh tối tăm, hàm hồ. Hoàn cảnh của Abraham cũng là hoàn cảnh của chúng ta trên con đường đức tin.

 

Trong số 15 giai thoại về Abraham, có những giai thoại lớn[2], đáng nhớ; có những giai thoại nhỏ ít được lưu ý. Ở đây, chúng ta suy gẫm về 3 giai thoại nhỏ: 1. Abraham với người Ai Cập (St 12, 10-20); 2. Abraham, và vua Gơra (St 20, 1-18); 2 giai thoại này nói lên cùng một nỗi sợ: Abraham sợ hãi những gì xảy ra quanh ông, và giai thoại thứ 3. Nỗi sợ không có người nối dõi trong vấn đề gia đình giữa Abraham, Sara và Haga (St 16, 1-16).

 

Lời Chúa: Giai thoại ở Ai Cập

“Một nạn đói xảy ra trong xứ ấy, và ông Áp-ram xuống trú ngụ ở Ai-cập, vì nạn đói hoành hành trong xứ. Vậy khi gần vào Ai-cập, ông nói với vợ là bà Xa-rai: "Bà coi, tôi biết bà là một người phụ nữ có nhan sắc. Khi người Ai-cập thấy bà, họ sẽ nói: "Vợ hắn đấy!", họ sẽ giết tôi và để cho bà sống. Vậy xin bà cứ nói bà là em tôi, để vì bà, người ta xử tốt với tôi, và nhờ bà, tôi được sống." Khi ông Áp-ram đến Ai-cập, người Ai-cập thấy vợ ông rất xinh đẹp. Quan lại của Pha-ra-ô thấy bà thì ca tụng bà trước mặt Pha-ra-ô, và bà bị đưa vào đền Pha-ra-ô. Vì bà, người ta xử tốt với ông Áp-ram; ông được chiên, dê, bò, lừa, tôi trai tớ gái, lừa cái, lạc đà. Tại vì bà Xa-rai, vợ ông Áp-ram, ĐỨC CHÚA giáng những tai ương lớn xuống Pha-ra-ô và gia đình vua. Pha-ra-ô bèn cho gọi ông Áp-ram đến và nói: "Ngươi làm gì ta thế? Tại sao ngươi đã không khai với ta rằng: nàng là vợ ngươi? Tại sao ngươi lại nói với ta: 'Nàng là em tôi', khiến ta đã lấy nàng làm vợ? Bây giờ, vợ ngươi đấy, hãy nhận lấy và đi đi!" Pha-ra-ô ra lệnh cho người của vua tống ông Áp-ram đi, cùng với vợ ông và tất cả những gì ông có.” (St 12, 10-20)

 

Abraham yếu đuối

Tuy Abraham được Chúa kêu gọi. Ông đã can đảm rời bỏ quê hương, đến miền đất Chúa hứa. Ông cũng đã nghe lời Chúa phán và hứa với ông qua những lần Chúa mặc khải kế tiếp nhau trong đời ông. Tuy nhiên, ông chỉ đón nhận Lời Chúa phần nào thôi. Ông chỉ hiểu Chúa phần nào thôi. Đôi khi những gì Chúa dạy không có sức sống nơi ông, vì thế ông sợ hãi.

 

Sự mỏng dòn tiềm ẩn đi liền với sự mơ hồ, không rõ, thường khó nhận ra hơn là những yếu đuối đưa đến tội nặng như giết người, trộm cướp. Vì thế, điều quan trọng là xin ơn nhận biết những gì bất ổn trong các hoạt động của chúng ta; những gì làm chúng ta bất an do thuận theo những sức ép, những thoả hiệp, những giả tạo bên ngoài, theo thói thế gian. Tất cả những bất an đó do cuộc sống chúng ta không hoàn toàn đặt dưới ánh sáng Lời Chúa soi dẫn, không đặt trọn niềm tin vào Chúa, không hoàn toàn dấn thân theo lời hứa khi chịu chức linh mục.

 

Nô lệ cho sự mơ hồ, không rõ

Để suy gẫm về nỗi sợ của Abraham, chúng ta nhờ lời Chúa trong thư Do Thái soi dẫn: “Như thế, vì con cái thì đều chung một huyết nhục, nên Đức Giêsu đã cùng mang lấy huyết nhục đó. Như vậy, nhờ cái chết của Người, Người đã tiêu diệt tên lãnh chúa gây ra sự chết, tức là ma quỷ, và đã giải thoát những ai vì sợ chết mà suốt đời sống trong tình trạng nô lệ” (Dt 2,14-15).

 

Chúng ta là nô lệ của sự mơ hồ, là nạn nhân của những quyền lực thế gian, của môi trường, dư luận, của những gì người khác mong chờ nơi ta, của tất cả những gì chúng ta sợ bị chê cười, bị chối bỏ, không được tôn trọng, không được đánh giá cao; sợ bị khinh miệt, sợ bị chia cắt, sợ bị thua thiệt, sợ bị mất mặt, bị cho ra rìa, bị cho là lỗi thời.

 

Theo thánh Phaolô, tất cả những nỗi sợ đó đều bắt nguồn từ nỗi sợ tiềm ẩn, nền tảng là sợ chết; vì sợ chết và muốn giành giật lấy sự sống, nên con người luôn lo âu, xao xuyến trong cuộc đấu tranh hàng ngày. Sợ chết là nguồn gốc mọi xung đột nơi con người vì họ cố gắng thắng nó, chống lại nó. Họ không muốn bị cho ra rìa, nên tranh đấu, thống trị người khác. Họ không muốn bị bất cứ cái gì làm cho họ bất ngờ, làm cho đời sống họ mất yên ổn. Sợ chết còn là nguồn cội mọi thái độ theo thế gian: tham lam, ham muốn chiếm hữu, mua sắm, muốn có tất cả và có ngay lập tức … Thái độ tiêu thụ tối đa đó đem lại cho chúng ta ảo tưởng mình làm chủ cái chết, nắm nó trong tay. Nỗi sợ dưới mọi hình thức như thế được diễn tả trong thư gởi các tín hữu Do Thái. Đó cũng là nỗi sợ của Abraham.

 

1. Abraham sợ hãi những gì xảy ra quanh ông.

Câu chuyện xảy ra ở Ai Cập và ở Gơra giống nhau: Abraham che dấu không cho ai biết Sara là vợ ông, mà nói là em gái. Khi Kinh thánh nói đến cùng một sự kiện tới ba lần, thì phải có một tầm quan trọng nào đó, dù là sự kiện hình như chẳng có ý nghĩa gì. Ơn kêu gọi của thánh Phaolô cũng được nhắc tới ba lần trong Kinh thánh. Đức Giêsu cũng ba lần báo trước cuộc khổ nạn và cái chết. Có người giải thích hai giai thoại đó muốn nói đến sự đặc biệt của giòng giống được Thiên Chúa chọn: phụ nữ luôn xinh đẹp dù lớn tuổi, và luôn được người ngoại quốc ước muốn. Có người nói đó là một nét đặc biệt nơi dân du mục, không quyền lực, nên dùng thủ đoạn khéo léo để tránh hoàn cảnh tệ hại xảy ra. Thực ra, cách giải thích đúng nhất dường như câu chuyện trên mang một ý nghĩa luân lý. Giai thoại ở chương 12 tỏ lộ cho thấy Abraham chưa hoàn toàn hiểu hết ý nghĩa Lời Chúa hứa mà ông vừa đón nhận. Ông vẫn bị những nỗi sợ xa xưa ám ảnh, vẫn bị thế giới cũ chế ngự, một thế giới muốn tự cứu lấy mình, muốn tự mình xoay chuyển tình thế.

 

Giờ đây, chúng ta cùng phân tích bối cảnh và diễn tiến của bản văn Kinh thánh.

 

Abraham sợ hãi điều gì và mưu mô gian dối ra sao?

+ Giai thoại 1: ở Ai Cập (St 10, 10-20)

- Bối cảnh thế nào? Ngay trước đó, ở St 12,3, là lời hứa tuyệt vời về mọi sự: “Ta sẽ chúc phúc cho những ai chúc phúc cho ngươi; Ta sẽ lên án những ai nguyền rủa ngươi”. Abraham nghĩ có thể được yên ổn vì Thiên Chúa bênh vực ông. Ông vâng lệnh Chúa, lên đường với một viễn cảnh tương lai sán lạn, huy hoàng. Ông tin tưởng dựng một bàn thờ cầu khẩn và tế lễ Chúa. Mọi việc đều hoàn hảo. Nhưng rồi ngay sau đó, Abraham ở Ai Cập, một mình đơn độc, đối diện với những khó khăn, những vấn đề, nên ông tự tìm cách xoay xở. Đó là bối cảnh.

 

- Diễn tiến ra sao? Yếu tố thứ nhất: nạn đói kém, nguyên nhân bắt buộc Abraham sang Ai Cập. Đây cũng là nguyên nhân gia đình Giacóp sang Ai Cập thời ông Giuse. Đó là một trong những nguyên nhân thường xuyên của những cuộc di cư từ Palestine sang Ai Cập.

 

Yếu tố thứ hai (câu 11-13): sự sợ hãi. Abraham nói với Sara: “Khi người Ai Cập thấy em, họ sẽ nói: ‘đó là vợ hắn’ và họ sẽ giết anh”. Sợ chết nên ông nghĩ ra một mánh: “Anh xin em, em hãy nói em là em gái của anh, nhờ vậy, họ sẽ đối xử tốt với anh nhờ em, và họ để anh sống vì em”. Không những ông nghĩ mình được sống mà còn được lợi lộc vật chất nữa. Cũng cùng một nỗi sợ và cùng một mưu mô ở chương 20, 1-18. Abraham nói: “Tôi tự nhủ, chắc chắn ở đây không có ai kính sợ Thiên Chúa, người ta sẽ giết mình vì vợ mình”. Ở đây, nguyên do là tôn giáo, người ta sẽ giết ông vì họ không kính sợ Thiên Chúa. Phải tìm cách tự vệ thôi. Hơn nữa, ông còn không muốn bị mất mặt: “Mà đúng vậy, bà ấy thực sự là em mình, con của cha mình, nhưng không cùng một mẹ với mình, và bà ấy là vợ của mình”. Abraham tự biện hộ và cho rằng mình nói đúng sự thực: bà Sara là em gái của ông[3].

 

Yếu tố thứ ba: kết quả là gì? Sara được đưa vào đền Pharaô; còn Abraham thì được cơ man nào là bò chiên, lừa, lạc đà, nô lệ. Mưu mô của ông đã thành công. Chính Pharaô lại bị phạt dù vua không dính dáng gì tới mưu mô đó. Giai thoại kết thúc thế nào? Pharaô cho gọi Abraham và nói với ông: "Ngươi làm gì ta thế? Tại sao ngươi đã không khai với ta rằng: nàng là vợ ngươi? Tại sao ngươi lại nói với ta: 'Nàng là em tôi', khiến ta đã lấy nàng làm vợ? Bây giờ, vợ ngươi đấy, hãy nhận lấy và đi đi!" Pha-ra-ô ra lệnh cho người của vua tống ông Áp-ram đi, cùng với vợ ông và tất cả những gì ông có”. Pharaô đóng vai một người thành thật: tại sao anh lại hành động như vậy? Tại sao anh lại sợ hãi? Tại sao anh lại khiếp sợ, lo âu đến thế?

 

+ Giai thoại 2: ở Gơra (St 20, 1-18)

- Bối cảnh thế nào? Abraham và Sara đến trú ngụ ở Gơra. Ông sợ bị hại nên nói Sara là em gái. Abimelek, vua Gơra, sai người đến bắt Sara về làm vợ. Nhưng đêm hôm ấy, Thiên Chúa cảnh báo vua sẽ chết vì Sara là người đàn bà có chồng.

 

- Diễn tiến ra sao? Abimelek vua Gơra, chỗi dậy vào lúc sáng sớm sau khi đã nói chuyện với Thiên Chúa suốt đêm nhờ đó biết rõ mọi chuyện. Vua nói với Abraham: “Ông đã làm gì chúng tôi thế? Tôi mắc tội gì đối với ông, mà ông lại làm cho tôi và nước tôi phải vương vào một tội lớn như thế? Ông đã làm cho tôi những điều không nên làm!" Đây là một đánh giá tiêu cực về hành động của Abraham. Ông đã nói dối và vì đó phát sinh một tình thế sai lầm, gây cho người khác làm một điều họ không nên làm. Giai thoại có tính cách luân lý rõ ràng.

 

Bản năng sinh tồn mạnh mẽ

Abraham sợ gì? Ông làm gì? Bản văn cho biết rõ ràng: Abraham sợ người ta làm hại mình, vì ông bé nhỏ, không quyền lực, không bạn bè, sống xa quê hương, không có gì để tự vệ giữa một thế giới thù nghịch. Do đó, ông lo âu, sợ hãi là điều dễ hiểu. Ai sẽ bảo vệ ông đây? Abraham sợ chết, sợ lời Chúa hứa sẽ không được thực hiện. Phải tự bảo vệ lấy mình thôi. Đó là bản năng sinh tồn, tự bảo vệ mình. Mà để tự vệ, thì ông làm tất cả những gì có thể làm. Ông chọn lựa cách thế cho là tốt nhất vào lúc đó. Ông không còn cách nào khác. Ông đang tiến vào một thế giới tối tăm, mờ ám. Ông không tìm thấy lối thoát. Giữ được vợ thì mất mạng; mất vợ thì lâm vào cảnh tối tăm vì niềm tin vào Thiên Chúa mờ mịt. Bị bao vây, chèn ép mọi phía, ông tìm thấy lối thoát dễ nhất, và nhờ đó ông được lợi, nhưng lại nhắm mắt về phương diện luân lý, vì ông không biết làm cách nào khác.

 

Giavê thương xót con người khốn khổ đó

Giavê làm gì? Ngài bênh vực Abraham và phạt Pharaô. Ngài biết ông yếu đuối, sợ hãi, lo âu, nên không quở trách ông. Ngài phạt những người quyền thế để giải thoát cho Abraham, để ông lấy lại sự can đảm. Một bên, chúng ta thấy hành động gian dối do đức tin bị mờ tối của Abraham, bên kia là lòng khoan dung của Giavê. Ngài nhắm mắt không nhìn đến sự dối trá của ông. Ngài có những cách khác để chữa lành sự yếu đuối của Abraham hơn là trừng phạt nặng nề.

 

Bài học nào cho chúng ta? Con người chúng ta luôn sợ hãi tất cả những gì hạ thấp mình, làm mất địa vị chức tước, quyền lợi của mình, tổn hại đến sự sống, của cải, danh dự, an toàn của bản thân. Chúng ta lo sợ tất cả những gì có thể làm chúng ta gặp rắc rối, khó khăn. Do đó, chúng ta tìm mọi cách né tránh. Khi gặp những căng thẳng, những chống đối không ngừng gia tăng, bản năng sinh tồn tự nhiên thúc đẩy chúng ta tìm mọi cách để thoát ra, và thường là rơi vào sự giả dối: tôi chẳng giết chóc ai; tôi không làm hại đến ai, tôi không bất lương; tôi chỉ tìm một lối thoát thôi.

 

Phản ứng của con người và phản ứng của Thiên Chúa

Sự tăm tối của hoàn cảnh sống, sự lo âu, sợ bị hạ thấp giá trị, bị khinh miệt, bị tước đoạt, có thể liên quan đến biết bao nhiêu điều. Không chỉ liên quan đến của cải vật chất, sự giầu có; mà còn liên quan đến danh dự, địa vị của ta. Tôi phải giữ danh dự của một linh mục, một tu sĩ, nên tôi phải cấm đoán điều này điều nọ, dùng những cách thế, phương tiện tôi có. Chúng ta lo âu, sợ hãi và nói như viên quản lý bất lương trong Luca 16: tôi phải làm gì đây? Làm sao tôi thoát khỏi tình thế khó khăn này? Và rồi, hắn tìm ra những mưu mẹo khéo léo.

 

Còn Thiên Chúa, Ngài làm gì? Cũng giống như đối với Abraham, Thiên Chúa vô cùng cảm thương trước những dối trá và yếu đuối mà chúng ta làm theo bản năng. Chúng ta không muốn bị vấp ngã, nhưng hầu như thường vấp ngã. Những sức ép bên ngoài quá nặng, quá mạnh; ước muốn không phải chết, không bị khinh miệt, không bị hạ thấp, không làm người khác thất vọng quá lớn đển nỗi sự dối trá nặng nề lẻn vào cuộc sống. (Ví dụ: chúng ta gian dối khi không dám nhìn nhận sự thực về con người mình. Cũng có thể không phải vì chúng ta không dám, mà đúng ra, không còn nhận ra con người thực của mình, vì đã quá quen đeo một thứ mặt nạ vô hình của một con người hoàn hảo, đạo đức, không chỉ đeo mà còn hành xử như thật, đến nỗi chúng ta luôn coi mình là hoàn toàn đúng, hoàn toàn trong sạch, hoàn toàn tốt. Trong những trường hợp này, chỉ có Chúa mới có sức mạnh biến đổi chúng ta mà thôi.)

 

Một câu hỏi cuối cùng được đặt ra: Abraham có thể có một hiểu biết đích thực về Thiên Chúa trong hoàn cảnh khó khăn đó không?  Chắc chắn là không. Sự dối trá, sợ hãi, khiếp đảm luôn cản trở con người hiểu biết Thiên Chúa trọn vẹn vì Thiên Chúa chỉ mặc khải cho những ai tuyệt đối tin tưởng Ngài, gắn bó hoàn toàn với Ngài, từ bỏ mọi sợ hãi và âu lo. Abraham đã dừng bước, không tiến triển trên con đường nhận biết Thiên Chúa, trên con đường đức tin.

 

Rất có thể chúng ta cũng lâm vào hoàn cảnh như Abraham, khi những thử thách, những khiếp sợ, những gian dối làm mờ tối đức tin và sự hiểu biết Thiên Chúa, dù từ trước tới nay, chúng ta đã được biến đổi nhờ đức tin như thánh Phaolô nói trong thư gởi tín hữu Cô-lô-sê: “Nhưng giờ đây anh em đã được hoà giải với Người … Anh em chỉ cần giữ vững đức tin … đừng nao núng mà lìa bỏ niềm hi vọng Phúc Âm anh em đã nhận khi nghe loan báo Tin Mừng.” (Cô-lô-sê 1, 22). Bản văn muốn nói gì? Bản văn có ý nói rằng nếu Tin Mừng không ở trong chúng ta với tất cả sự trong sáng, chúng ta sẽ lại rơi vào hoàn cảnh tăm tối đưa đến tha hoá tôn giáo. Những khoảng tối trong hiểu biết Thiên Chúa luôn là một đe doạ. Mỗi khi chúng ta xa rời trung tâm, xa rời ngọn lửa toả sáng của ánh sáng Tin mừng, chúng ta lại rơi vào một thứ tôn giáo nệ luật, biệt phái, trọng hình thức, và tìm sự chính thống tôn giáo dựa trên những truyền thống và thái độ bên ngoài. Rất thường đó là tình trạng của chúng ta trong hoạt động mục vụ tại các giáo xứ! Dường như đó là luật bù trừ: trống vắng nội tâm, xa rời Chúa và ánh sáng Lời Chúa, chúng ta sẽ tìm cách bù lại bằng những hình thức bên ngoài như tổ chức hoành tráng, trật tự lớp lang, kỷ luật ngặt nghèo, gắt gao; giờ giấc chặt chẽ, cứng ngắc; v.v. và rồi chúng ta an tâm vì giáo xứ rất ổn định, có tổ chức, có kỷ luật, ai nấy răm rắp tuân theo. Nhưng nếu xét kỹ, lại thấy thiếu vắng lòng thương xót, sự quan tâm, đồng cảm, tinh thần phục vụ trong khiêm tốn, quên mình.

 

Từ kinh nghiệm về tình trạng tối tăm đó, chúng ta hiểu rằng mọi thái độ tôn giáo, kể cả kitô giáo, tự mình, đều chịu một lực trì trệ, một nguội lạnh nhiệt tâm, lôi kéo chúng ta đến sự thờ phượng nệ luật, hình thức và kết cục, một lúc nào đó, che phủ sự hiểu biết chân thực về Thiên Chúa, mà chỉ còn giữ danh xưng, lễ nghi, sự thờ phượng trống rỗng[4]. Chúng ta nên suy tư về chính thực trạng này hơn là để ý tới khía cạnh luân lý của nó là có tội hay không. Tự bản chất, đó là một tình trạng hết sức tiêu cực, dễ làm đức tin của chúng ta lu mờ, thui chột thậm chí chết đi. Đây cũng là tình trạng thực tế cho chúng ta thấy hiểu biết Thiên Chúa là điều không dễ dàng, rất dễ sai lạc và mờ tối. Đó cũng là hành trình tìm kiếm Thiên Chúa đầy thử thách, chông gai Abraham đã trải qua và chắc chán chúng ta cũng đã hoặc sẽ trải qua.

 

2. Abraham sợ hãi ngay trong gia đình ông.

+ Giai thoại 3: sợ không có con nối dõi (St 16, 1-16)

Bây giờ, chúng ta tìm hiểu giai thoại thứ ba: nỗi sợ của Abraham ngay trong gia đình ông, những mánh lới, mưu mẹo của ông. Chúng ta xem bối cảnh và diễn tiến của câu chuyện này ở chương 16 với việc Ismael được sinh ra.

 

- Bối cảnh thế nào?  Giống chương 12 vừa nói trên, ở đây chúng ta cũng gặp hai ý nghĩa tương phản: một sáng, một tối, vì chương 15 ngay trước chương 16, cho biết Giavê long trọng thề hứa và thiết lập giao ước với Abraham: “Và đây có lời ĐỨC CHÚA phán với ông rằng: "Kẻ đó (Êliede người Damas) sẽ không thừa kế ngươi, nhưng một kẻ do chính ngươi sinh ra mới thừa kế ngươi." Rồi Người đưa ông ra ngoài và phán: "Hãy ngước mắt lên trời, và thử đếm các vì sao, xem có đếm nổi không." Người lại phán: "Dòng dõi ngươi sẽ như thế đó!" Ông tin ĐỨC CHÚA, và vì thế, ĐỨC CHÚA kể ông là người công chính” (St 15,3-6). Abraham hoàn toàn phó thác tin tưởng vào Thiên Chúa của lời hứa.

 

Nhưng chương 16 cho ta biết Xarai vợ Abraham không có con. “Bà Xa-rai, vợ ông Áp-ram, đã không sinh được cho ông một người con nào. Bà có một người nữ tỳ Ai-cập, tên là Ha-ga. Bà Xa-rai nói với ông Áp-ram: "Ông coi: ĐỨC CHÚA đã không cho phép tôi sinh con. Vậy xin ông đi lại với nữ tỳ của tôi; may ra nhờ nó mà tôi sẽ có con." Ông Áp-ram nghe lời bà Xa-rai” (St 16,1-2). Lạ lùng thay! Abraham nghe lời Chúa ở chương 15, và ở chương 16, ông lại nghe lời vợ ông là bà Xarai. Đúng là sự sợ hãi, sự yếu đuối của “cha chúng ta trong đức tin”. Ông chẳng những nhận được lời Chúa hứa ở chương 12, chương 13, mà còn đón nhận giao ước long trọng ở chương 15 nữa. Thế mà, lập tức sau đó, ông sợ không có con nối giòng.

 

- Diễn tiến ra sao? Trước hết là sự sợ hãi của Xarai: "Ông coi: ĐỨC CHÚA đã không cho phép tôi sinh con. Vậy xin ông đi lại với nữ tỳ của tôi; may ra nhờ nó mà tôi sẽ có con." Kế đó sự sợ hãi của Xarai lan sang Abraham, nên ông ăn ở với Haga. Cuối cùng, ta thấy, Abraham cũng khinh khi người nữ tỳ. Ông trao cô ta cho vợ là Xarai vì bà than phiền người nữ tỳ Ai Cập đã khinh dể bà khi có thai: “Ông Áp-ram nói với bà Xa-rai: "Nữ tỳ của bà ở trong tay bà đấy; đối với nó, cái gì tốt cho bà thì bà cứ làm!" (St 16,6). Abraham người thừa hưởng lời hứa đã bị sự sợ hãi chi phối. Sự nhận biết Thiên Chúa nơi ông mờ nhạt đi, như bị xoá nhoà. Ông không đạt đến mức độ sống tin tưởng, phó thác trọn vẹn. Ông không thể sống theo một Thiên Chúa của lời hứa, mà chưa phải là Thiên Chúa của thực tại. (*ghi chú: phải có thực mới tin. Thiên Chúa của lời hứa là Thiên Chúa của đức tin. Đức tin là tin vào lời hứa của Thiên Chúa, chứ chưa xảy ra thực sự, chưa là một thực tại mà chúng ta đã trải nghiệm sâu xa.)

 

Chúng ta thì sao? Cội rễ của những hỗn độn, mất trật tự trong đời sống chúng ta là gì?

Chúng ta thấy Abraham là một người vừa tự do vừa bị giam hãm. Từ tình trạng của ông, chúng ta có thể suy nghĩ và khám phá về bản thân, về sự bất ổn, không có trật tự trong đời sống chúng ta, nghĩa là những gì không được sắp xếp cách trật tự, những gì không đi theo đường nó phải đi. Cội rễ của sự bất ổn, mất trật tự đó nằm trong những gì ràng buộc chúng ta. Đây không nhất định phải là những lầm lỗi trầm trọng, thiếu đạo đức, nhưng đúng hơn là lựa chọn không đúng, những cách sống không xứng đáng, những quan hệ đáng ngờ hoặc vô tình hoặc hữu ý nhiều hay ít; nhờ ánh sáng Lời Chúa, chúng ta nhận ra chúng. Giống như Abraham, chúng ta hãy tự hỏi: tôi phải làm gì đây? Tôi có đồng tình với cách hành xử của Abraham không? Có hành động như ông không? Có cầu nguyện không? Có trốn chạy không? Có dám đối đầu với cái chết không? Có can đảm không?

 

Đó là những âm vang vọng lên trong ta khi suy nghĩ về giai thoại của Abraham. Nó giúp chúng ta khám phá những gì trói buộc mình, những tình thế tối tăm vẫn còn nằm ẩn chờ đó, và dù không gây trở ngại, vẫn để chúng ta tự do, nhưng chúng luôn tiềm ẩn nguy cơ làm chúng ta bị mờ tối trong cách sống và hành động mà không biết. Chúng ta hãy suy xét về điều đó. Abraham đã không thể cắt đứt những ràng buộc tiềm ẩn, và không thể giải thoát mình khỏi tình thế tối tăm, mờ ám. Chúng ta cũng vậy, không hơn gì Abraham đâu. Nhưng có một điều chúng ta phải tin tưởng chắc chắn, đó là Thiên Chúa không quở trách hay trừng phạt chúng ta, ngài không chấp nhất sự yếu đuối của chúng ta; nhưng Ngài đòi hỏi chúng ta nhận biết sự yếu đuối đó, để chúng ta có thể phó thác vào sức mạnh của Lời Chúa, và cầu xin với Ngài: “Lạy Chúa, Chúa đã muốn Abraham làm gì? Chúa muốn chúng con làm gì?”

 

Hai ví dụ khác về sự hai mặt, sự chia rẽ nội tâm như Abraham

Xin gợi ý về hai bản văn Tân Ước có thể giúp chúng ta đào sâu đề tài suy gẫm. Bản văn thứ nhất là Mc 10, 17-22: chàng thanh niên giầu có. Anh có những hoài bão ước vọng lớn lao, nhưng anh cũng bị giam hãm, bị chia rẽ như Abraham. “Lạy Thầy, con phải làm gì, con muốn hiểu và sống theo lời Ngài đến cùng; nhưng con không thể”. Không thể bởi vì anh không thể thoát khỏi lối sống đã thành thói quen, không thể vượt ra khỏi địa vị và hoàn cảnh xã hội anh đang có. Anh rất thiện chí. Anh nghe lời Chúa, anh quì sụp dưới chân Chúa trước mặt mọi người, anh lớn tiếng nói lên niềm tin của anh, nhưng lập tức sau đó, anh nói: con không thể làm được. Giai thoại này giúp ta thấy rõ hơn sự chia rẽ nội tâm nơi Abraham và nơi chúng ta.

 

Bản văn thứ hai là Lc 19, 11-27: dụ ngôn những nén bạc. Điều chúng ta quan tâm đó là người đã đem nén bạc đi chôn dấu. Tại sao anh ta làm như vậy? Bởi vì anh ta sợ ông chủ. Vì không tìm biết Thiên Chúa đến nơi đến chốn, nên anh sợ hãi Ngài, không làm điều Ngài muốn là làm cho nén bạc sinh lợi khi đem nó đi chôn. Anh có cái nhìn hoàn toàn tiêu cực về Thiên Chúa là chủ của anh. Ở đây, chúng ta thấy người sợ hãi cũng có một nhận biết nào đó về Thiên Chúa, nhưng là một Thiên Chúa không rõ ràng. Người đó bị giam hãm trong sự sợ hãi Thiên Chúa như nô lệ sợ chủ. Lời Chúa không gây được tác động nào nơi người đó và không sinh hoa kết quả. Sự sợ hãi, không hoàn toàn tin tưởng vào Thiên Chúa làm Lời Chúa đóng băng nơi chúng ta.

 

Chúng ta có thể đọc và cầu nguyện với thánh vịnh 31, một thánh vịnh nói lên sự tin tưởng hoàn toàn vào Chúa giữa muôn vàn khó khăn, thử thách, đau khổ.

 

* Lưu ý cần thiết:

Khi suy niệm về các thử thách của Abraham, của Chúa Giêsu, có lẽ một số trong chúng ta tự hỏi, có cần thiết lúc nào cũng nghĩ tới những thử thách, những cám dỗ có vẻ bi quan, ảm đạm không? Tin Chúa, theo Chúa không phải là một niềm vui sao?

 

Trả lời:

- Thứ nhất, chúng ta tin vào Đức Giêsu Kitô và muốn kết hợp mật thiết với Ngài. Muốn được như vậy, chúng ta cần suy niệm những lời Ngài dạy, chiêm ngắm cuộc đời Ngài. Mọi giây phút, mọi hoạt động trong cuộc đời Chúa đều có giá trị cứu độ, nhưng biến cố khổ nạn và phục sinh là đình cao của công trình cứu độ đó. Vì thế, để tin Chúa, yêu mến Chúa và nên đồng hình đồng dạng với Chúa, không thể làm gì khác hơn là chiêm ngắm cuộc đời Ngài, nhất là chiêm ngắm cuộc khổ nạn và phục sinh của Ngài; cùng trải qua những lo âu, sợ hãi, đau đớn, cái chết tủi nhục cũng như phục sinh của Ngài.

 

- Thứ hai, nhờ chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu, nhất là cuộc khổ nạn, cái chết và sự phục sinh của Ngài, chúng ta cùng đồng hành, đồng cảm, và chia sẻ sâu xa với tất cả những ai đang lâm cảnh lo âu, sợ hãi, thất vọng, nhất là về đức tin; có nguy cơ đánh mất đức tin trong những thử thách nặng nề, nghiệt ngã. Những người như thế không phải là ít, lúc nào cũng có, ngay cả giờ phút này.

 

- Thứ ba, chính chúng ta cũng trải qua những thử thách, những lo âu, sợ hãi, buồn phiền, không nhiều thỉ ít, và có những lần chúng ta vượt qua được, nhưng cũng có khi gặp thất bại. Rất có thể chúng ta coi đó là chuyện thường tình có gì quan trọng đâu; cũng có thể chúng ta coi đó là những biến cố xui xẻo, buồn đau, thất bại nên quên đi thì tốt hơn. Tất cả những biến cố đó, những thử thách đó rất cần được nhìn lại để thấu hiểu thánh ý Thiên Chúa hơn, để trưởng thành trong đức tin và trong đời sống thiêng liêng hơn.

 

- Thứ tư, có qua đau khổ mới đạt tới niềm vui; có trải qua cuộc khổ nạn, cái chết đau thương mới tới phục sinh vinh quang. Niềm vui tin Chúa và theo Chúa cần phát xuất từ những kinh nghiệm, những cảm nghiệm sâu xa của khổ đau, lo âu, sợ hãi, thậm chí cả thất vọng nữa, mới là niềm vui đích thực và sâu xa. Vì thế, chiêm ngắm những thử thách, những lo âu, sợ hãi của Abraham, của Chúa Giêsu chính là để đạt được niềm vui vững bền, trong sáng và đích thực. Nếu không, chỉ sợ những niềm vui chúng ta đang tìm kiếm là những niềm vui mau qua, tạm bợ, có tính cách nhất thời.

 

Câu hỏi gợi ý:

1. Trong cuộc đời của người kitô hữu, đâu là những nỗi sợ của tôi? Tại sao tôi sợ? Nỗi sợ đó có cho thấy đức tin của tôi bị suy yếu và sự nhận biết Thiên Chúa của tôi mờ nhạt không?

2. Tôi đã hành động thế nào khi sợ hãi? Cố gắng che dấu? Tìm mọi cách để bảo vệ mình dù phải gian dối?

3. Tôi có được Lời Chúa soi sáng để nhận ra sai lầm khi gian dối tìm cách che đậy, tìm một lối thoát trong hoàn cảnh khó khăn, sợ hãi không? Tôi có được Chúa thương xót và giúp tôi hoán cải không?

4. Tôi có nhận ra mình đang bù trừ cho đời sống nội tâm trống vắng, đức tin non yếu của tôi bắng những hình thức bên ngoài không? Và đó là những hình thức nào? Và tôi cần phải làm gì để thoát khỏi tình trạng giả tạo này?

 


[1] Chuyển ý từ “Abraham, notre père dans la foi”, Carlo M. Martini, Éd. Saint Augustin-Saint Maurice, Suisse, 1994.

[2]5 giai thoại lớn: Lời kêu gọi, chương 12; Lời hứa và giao ước, chương 15; Giao ước mới và cắt bì của Abraham lúc 99 tuổi, chương 17; Câu chuyện thành Gômôra và lời cầu nguyện của Abraham, chương 18; Hi tế Isaac, chương 22

 

[3] Lưu ý: Theo văn hoá, phong tục, … của dân du mục thời đó, anh em trong dòng họ lấy nhau là bình thường. Họ cũng không đặt nặng vấn đề tiết tháo của người vợ như người Á Đông chúng ta.

[4] Có thể có một thái độ khác: sự trống vắng nội tâm, xa rời Chúa, không cầu nguyện khiến chúng ta lơ là với bổn phận phục vụ của linh mục, làm cho có lệ, làm tối thiểu. Đó là chưa nói tói một thái độ khác, thái độ mị dân, dễ dãi trong mọi sự để lấy lòng hầu che đậy đời sống bất xứng với chức linh mục. Còn rất nhiều hình thức bù trừ khác nữa như quyền hành, tiền bạc, v.v.

Bài cùng chuyên mục:

Kinh nghiệm về Thiên Chúa và ước muốn  (06/04/2024 10:09:20 - Xem: 369)

Hi vọng bài suy tư này giúp chúng ta hiểu rõ những ước muốn của chính mình, để từ đó, khám phá ra sự hiện diện của Thiên Chúa

Làm sao biết đó là Ý Chúa  (03/03/2024 08:37:22 - Xem: 627)

Bài sau đây rất hữu ích về đời sống thiêng liêng cho cá nhân mỗi người và nhất là cho những người có bổn phận hướng dẫn đời sống thiêng liêng cho người khác, như các vị linh hướng…

Linh mục, người của lòng thương xót(bài 4) (02/02/2024 09:04:08 - Xem: 506)

Tuy là những bài dành riêng cho các linh mục, nhưng tu sĩ, chủng sinh và giáo dân đều có thể đọc để suy niệm và cầu nguyện miễn là biết thích nghi với bậc sống và hoạt động tông đồ của mình.

Linh mục, người của lòng thương xót(bài 3) (10/01/2024 05:25:47 - Xem: 637)

Tuy là những bài dành riêng cho các linh mục, nhưng tu sĩ, chủng sinh và giáo dân đều có thể đọc để suy niệm và cầu nguyện miễn là biết thích nghi với bậc sống và hoạt động tông đồ của mình.

Linh mục, người của lòng thương xót(bài 2) (13/12/2023 05:58:01 - Xem: 741)

Tuy là những bài dành riêng cho các linh mục, nhưng tu sĩ, chủng sinh và giáo dân đều có thể đọc để suy niệm và cầu nguyện miễn là biết thích nghi với bậc sống và hoạt động tông đồ của mình.

Linh mục, người của lòng thương xót  (02/12/2023 09:29:04 - Xem: 996)

Tuy là những bài dành riêng cho các linh mục, nhưng tu sĩ, chủng sinh và giáo dân đều có thể đọc để suy niệm và cầu nguyện miễn là biết thích nghi với bậc sống và hoạt động tông đồ của mình.

Kinh nghiệm về Thiên Chúa hay chỉ là gặp gỡ chính mình? (30/08/2023 09:25:22 - Xem: 1,360)

Xin giới thiệu bài của cha Anselm Grun về sự phân định giữa kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và sự gặp gỡ chính mình được phản chiếu qua hình ảnh Thiên Chúa mà ta tưởng là đã gặp.

Những suy nghĩ tản mạn về đời sống và tác vụ linh mục(bài 6) (19/07/2023 07:38:57 - Xem: 1,041)

Trong bài 5, chúng ta đã nói tới sự khó nghèo của linh mục là một đời sống giản dị. Trong bài này, chúng ta sẽ đề cập tới một vài mẫu linh mục tiêu biểu về cách sử dụng tiền của.

Những suy nghĩ tản mạn về đời sống và tác vụ linh mục(bài 5) (30/06/2023 08:53:13 - Xem: 1,712)

Ước gì hết thảy anh em linh mục chúng ta trở thành những mẫu linh mục đạo đức, thánh thiện như thánh Gioan-Maria Vianey, thánh Phanxicô Assisi,...

Những suy nghĩ tản mạn về đời sống và tác vụ linh mục(bài 4) (09/06/2023 17:34:24 - Xem: 1,798)

Ước gì hết thảy anh em linh mục chúng ta trở thành những mẫu linh mục đạo đức, thánh thiện như thánh Gioan-Maria Vianey, thánh Phanxicô Assisi,...

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7