+ Chúa Nhật 13/10/2024 – CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN năm B. – Bỏ mọi sự mà theo Chúa.
- In trang này
- Lượt xem: 5,978
- Ngày đăng: 12/10/2024 10:00:00
Bỏ mọi sự mà theo Chúa.
13/10 – CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN năm B.
"Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài rồi đến theo Ta".
Lời Chúa: Mc 10, 17-30
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.
Khi ấy Chúa Giêsu vừa lên đường, thì một người chạy lại quỳ gối trước Người và hỏi: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Chúa Giêsu trả lời: "Sao ngươi gọi Ta là nhân lành? Chẳng có ai là nhân lành, trừ một mình Thiên Chúa. Ngươi đã biết các giới răn: đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ".
Người ấy thưa: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ".
Bấy giờ Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng thương mà bảo rằng: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta".
Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
Lúc đó Chúa Giêsu nhìn chung quanh và bảo các môn đệ rằng: "Những người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao!" Các môn đệ kinh ngạc vì những lời đó. Nhưng Chúa Giêsu lại nói tiếp và bảo các ông rằng: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa".
Các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?" Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự".
Phêrô thưa cùng Chúa Giêsu rằng: "Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy".
Chúa Giêsu trả lời rằng: "Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu. Nhưng có nhiều kẻ trước nhất sẽ nên rốt hết, và những kẻ rốt hết sẽ nên trước nhất".
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
Suy niệm CHÚA NHẬT 28 THƯỜNG NIÊN - B
Lời Chúa: Kn 7,1-7; Dt 4,12-13; Mc 10,17-30
MỤC LỤC
1. Được gấp trăm--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
2. Được gấp trăm--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
3. Khôn ngoan--TGM. Ngô Quang Kiệt
4. Hãy đi theo Chúa--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
5. Thanh niên giàu có--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Vũ Khắc Nghiêm--ViKiNi
6. Phải biết lựa chọn--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
7. Nguy hiểm của tiền bạc của cải--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
8. Ba cái nhìn nói lên ba thái độ của Chúa Giêsu--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
9. Điều đáng khao khát tìm kiếm--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
10. Người giầu khó vào Nước Trời--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
11. Tiền của - Chia sẻ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
12. Kho báu trên trời--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
13. Lựa chọn hai kho tàng--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
14. Sống siêu thoát để nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu--Lm. Đan Vinh
15. Lựa chọn giữa hai kho tàng--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
16. Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
17. BÁN những gì anh có. CHO kẻ nghèo. rồi THEO TÔI--Lm. Trầm Phúc
18. BÁN những gì anh có. CHO kẻ nghèo. rồi THEO TÔI--Lm. Trầm Phúc
19. Cái két sắt--PM. Cao Huy Hoàng
20. Sống ảo & sống thật--Alphonse Marie Trần Bình An
21. Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm. Anfonso
22. Sự sống đời đời là mục tiêu tối hậu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
23. Vĩnh cửu và tạm thời--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
24. Không làm nô lệ tiền của--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
25. Huyền nhiệm ơn gọi--Lm. Vũ Xuân Hạnh
26. Lấy của cải tạm thời đổi lấy kho tàng bền vững--Lm. Ignatiô Trần Ngà
27. Sự nghiệp chóng qua, cơ nghiệp đời đời--Anmai, CSsR
28. Cuộc đời cho đi mới đẹp--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
29. Hạnh phúc qua việc trao ban--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
30. Sự giầu có đích thực--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
31. Sở hữu của cải và khước từ của cải--Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng
32. Chúa Nhật 28 Thường Niên năm B--Lm. Inhaxio Hồ Thông
33. Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm. GB. Phạm Hồng Thái
34. Con sẽ được gì khi theo Chúa và phụng sự Ngài?--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
35. “Một điều còn thiếu!”--Lm. Xuân Hy Vọng
37. Người tự do--Lm. Hồng Phúc
38. Tiền bạc là phân bón của ma quỷ--Lm. G.B. Văn Hào SDB
40. Cuộc gặp gỡ giữa người thanh niên với Chúa Giêsu--Lm Giuse Nguyễn Thành Long
41. Lối nhỏ đường sống--Trầm Thiên Thu
42. Gia nghiệp--Trầm Thiên Thu
43. ãy theo Tôi--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
44. Không trọn lành không được rỗi…!--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
45. Tin và theo Chúa Giêsu--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
46. Bước theo Chúa Giêsu--Lm Nguyễn Hữu An
47. Người công chính tân ước--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
48. Người công chính Tân Ước--Lm Nguyễn Hữu An
49. Lỗ kim và lạc đà--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
50. Tốt lành và nhân lành--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
51. Đứt ruột--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
52. Điều cần phải bỏ trên đường theo Giêsu--Lm. Nguyễn Ngọc Thế
53. Đức Giêsu giáo huấn về của cải--Lm. FX. Vũ Phan Long
54. Sự chọn lựa khôn ngoan--Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
55. Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân
56. Phần thưởng--Lm. Vũ Đình Tường
57. Bán trời--Lm. Vũ Đình Tường
58. Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm Vincent Âu Quốc Thanh
59. Chúa Giê-Su, Đấng Khôn Ngoan Thiên Chúa ở giữa loài người--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
60. Đi tìm kho tàng--Lm. John Nguyễn
61. Nguy cơ làm nô lệ cho tiền của--Lm. Ngô Tôn Huấn
62. Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm. Stephen Rocker--JB. Đào Ngọc Điệp, chuyển ngữ
63. Khôn ngoan--Lm. Anphong Trần Đức Phương
64. Không thể vào Nước Trời ư?--Yvon Daigneault
65. Làm sao tiền của khỏi làm cản trở mối liên hệ với Chúa--Lm. Trần Bình Trọng
66. Lướt thắng nghịch cảnh--‘Mở Ra Những Kho Tàng’--Charles E. Miller
67. Ai là kẻ ‘giàu có’?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
68. Chúa Nhật 28 Thường Niên--Chiara Lubich
69. Vì tình yêu chúng ta phải làm nhiều hơn nữa--Lm Mark Link
70. Kêu gọi người đàn ông giàu có (10,17-22)--Jacques Hervieux
71. Giàu: tốt hay xấu--Gm. Arthur Tonne
72. Người giàu khó vào nước thiên Chúa--Noel Quesson
73. Chúa Nhật 28 Thường Niên--Noel Quesson
74. Đức Giêsu gặp người thanh niên giàu có, và nguy hiểm của sự giàu sang--Fiches Dominicales
75. Một tấm lòng vàng để bước theo Chúa Giêsu--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
76. Phải thánh thiện đến mức độ nào (10,17-22)--William Barclay
77. Cách kiếm tiền và cách sử dụng tiền--Lm. Anthony Trung Thành
78. Đi theo Chúa--Lm. Micae Võ Thành Nhân
85. Sử dụng tiền của cách khôn ngoan
99. Khôn ngoan đích thực--Huệ Minh
101. Bán tất cả để được nước trời--Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
1.Được gấp trăm--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Khi đọc bài Tin Mừng trên đây
ta nếm được nỗi buồn của Đức Giêsu và của anh nhà giàu.
Đức Giêsu buồn vì bị từ chối bởi người mà mình yêu mến.
Anh kia buồn vì có sự rạn nứt nơi bản thân.
Anh đã phấn khởi gặp Chúa, rồi ra đi đầy muộn phiền.
Thầy Giêsu đòi anh đúng điều anh muốn giữ lại,
vì của cải vốn là chỗ dựa của đời anh.
Anh sẵn sàng làm mọi điều Thầy đòi hỏi, trừ việc bỏ chỗ dựa này.
Bây giờ anh thấy rõ hơn mình nô lệ cho điều gì.
Tiếc thay anh không có can đảm ra khỏi sự nô lệ này
dù anh vẫn khát khao sự sống đời đời.
Bi kịch của anh cũng là của chúng ta.
Ai trong chúng ta cũng từng bị giằng co
giữa ước mơ bay cao và sự kéo ghì của vật chất.
Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt.
Tôi làm chủ nó, nhưng sau đó nó lại làm chủ tôi
và trở thành thịt xương mà tôi không thể dứt bỏ.
Không chắc người giàu này sẽ bị luận phạt,
nhưng chắc chắn anh ta khó hạnh phúc.
Hạnh phúc chỉ đến với người dám sống theo ý Chúa.
Người có của khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!
Vào thời Đức Giêsu, giàu có được coi là một phúc lành.
Vậy mà Ngài lại coi đây là một cản trở nguy hiểm.
Của cải dễ làm người ta khép kín trước Thiên Chúa
và nỡ tâm chà đạp lên quyền lợi anh em.
Tệ nạn tham nhũng, hối lộ ở Châu Á
là một thí dụ về nguy hiểm của tiền bạc.
Đức Giêsu và các môn đệ đã sống nghèo,
sống như những người lữ hành, không chỗ cậy dựa,
để tín thác vào Cha và dễ dàng đến với anh em.
Theo Đức Giêsu là chấp nhận tay trắng, bấp bênh.
Nhưng đừng quên theo Ngài cũng là trở nên giàu có.
Không phải sự giàu có do ích kỷ giữ lại,
nhưng là sự giàu có do mở ra trao hiến.
Không phải sự giàu có do tìm kiếm chiếm đoạt,
nhưng là sự giàu có đến như một quà tặng biếu không.
Theo Ngài không phải chỉ là bỏ nhà cửa, ruộng vườn,
bỏ những người thân yêu, bỏ đến cả mạng sống.
Theo Ngài còn là được gấp trăm ngay từ đời này,
và nhất là đời sống vĩnh cửu mai hậu.
Khi Phêrô ra khỏi hồ Galilê, với nghề đánh cá,
ông được biết những biển khơi mênh mông hơn nhiều.
Khi Phêrô bỏ lại cha mẹ, vợ con,
ông đứng đầu một cộng đoàn đông đảo là Hội Thánh.
Chắc Têrêxa Hài Đồng không ngờ mình trở nên Thánh Sư.
Chắc Têrêxa Calcutta không ngờ đám táng của mình
sẽ có cả triệu người tham dự.
Theo Đức Giêsu, ta sẽ được lại cả những điều đã mất.
Cái được quan trọng nhất là được Đức Giêsu (x. Pl 3,8).
Gợi Ý Chia Sẻ
Bạn nghĩ gì về giá trị của tiền bạc, của cải? Đâu là thái độ cần có trước những cạm bẫy của tiện nghi vật chất đang mời mọc chúng ta?
Theo Chúa trong tư cách là một Kitô hữu đòi hỏi ta phải từ bỏ nhiều. Bạn có thấy mình được lại điều gì không? Bạn có khi nào được gấp trăm so với điều đã mất không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, giàu sang, danh vọng, khoái lạc
là những điều hấp dẫn chúng con.
Chúng trói buộc chúng con và không cho chúng con
tự do ngước lên cao để sống cho những giá trị tốt đẹp hơn.
Xin giải phóng chúng con
khỏi sự mê hoặc của kho tàng dưới đất,
nhờ cảm nghiệm được phần nào sự phong phú của kho tàng trên trời.
Ước gì chúng con mau mắn và vui tươi
bán tất cả những gì chúng con có,
để mua được viên ngọc quý là Nước Trời.
Và ước gì chúng con không bao giờ quay lưng
trước những lời mời gọi của Chúa,
không bao giờ ngoảnh mặt để tránh cái nhìn yêu thương
Chúa dành cho từng người trong chúng con. Amen.
2.Được gấp trăm--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
Suy Niệm
Câu chuyện về người đàn ông đến với Đức Giêsu
là câu chuyện có một kết thúc buồn.
Chúng ta không rõ người ấy thực sự bao nhiêu tuổi,
chỉ biết anh không còn trẻ (Mc 10,20; x. 1 Tm 4,12),
và đang làm chủ một tài sản lớn (Mc 10,22).
Anh có cuộc sống tương đối tốt với tha nhân,
và có lẽ anh cũng giữ tương quan tốt với Thiên Chúa.
Cuộc sống của anh như thế chẳng có gì đáng phàn nàn.
Chỉ có điều là tâm hồn anh không bình an.
Anh vẫn thấy có cái gì không ổn, cái gì chưa tốt lắm.
Anh vẫn khắc khoải, thao thức với một câu hỏi trong tâm.
Và anh muốn tìm một bậc thầy mà anh kính phục để hỏi.
Thầy Giêsu chính là người mà anh tìm gặp.
Lúc Thầy lên đường thì anh chạy lại, quỳ xuống trước mặt.
Với tất cả sự kính trọng và tin tưởng vào uy tín của Thầy,
anh hỏi Thầy câu hỏi mà anh vẫn giữ bấy lâu:
“Thưa Thầy tốt lành, tôi phải làm gì
để có được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10,17).
Câu hỏi có vẻ đơn sơ nhưng nói lên một khao khát,
một mơ ước về một điều gì đó không thuộc đời này.
Anh mong Thầy trả lời một cách cụ thể,
chỉ rõ cho anh điều anh phải làm bây giờ.
Khi anh tập trung sự chờ mong vào con người Thầy,
thì Thầy lại hướng anh về Thiên Chúa tốt lành.
Thiên Chúa mới là nguồn sự sống đời đời,
và đường dẫn đến sự sống bước đầu là giữ các giới răn.
Thầy kể cho anh những điều cấm làm cho tha nhân,
và một điều phải làm cho cha mẹ (Mc 10,19).
Chắc anh không mãn nguyện lắm với câu trả lời trên,
vì người Do-thái nào cũng thuộc nằm lòng rồi.
Hơn nữa, chẳng những anh thuộc mà còn tuân giữ nữa:
“Thưa Thầy, tất cả những điều đó,
tôi đã tuân giữ từ hồi còn trẻ” (Mc 10,20).
Vậy mà anh vẫn không bình an.
Hẳn anh còn chờ một câu trả lời khác của Thầy Giêsu.
Thầy Giêsu bị hấp dẫn bởi lòng đạo đức của anh,
nhưng đồng thời Thầy nhận ra một điều anh còn thiếu.
Chính điều này làm anh thao thức không nguôi,
dù anh đã sống nghiêm chỉnh các điều răn của Chúa.
Thầy mời anh lên đường tìm lại tự do, bằng cách:
đi, bán của cải, cho người nghèo, rồi đến và theo Thầy.
Điều anh còn thiếu, đó là chưa buông bỏ cái thừa.
Để có sự sống đời đời, anh phải thôi gắn bó với của cải.
Chỉ khi tay trắng, không còn chỗ cậy dựa,
anh mới bắt đầu sở hữu kho tàng trên trời.
Anh hỏi Thầy xem mình phải làm gì,
và Thầy đã chỉ cho anh những điều phải làm.
Nhưng anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi,
vì không thể làm được điều Thầy mời gọi.
Lời mời của Thầy làm lộ ra lý do khiến anh khắc khoải.
Anh thật sự không có tự do, anh bị trói buộc.
Không phải anh sở hữu của cải, mà của cải sở hữu anh.
Anh muốn sống tốt hơn, nhưng không làm được.
Có thiện chí và ước muốn tốt lành, vẫn không đủ.
Còn phải can đảm chấp nhận những buông bỏ đau đớn.
Chuyện của anh cũng là chuyện của tôi.
Chúa vẫn nói với tôi về những điều tôi còn thiếu,
những điều tôi phải làm để được sống vĩnh cửu.
Tôi không dám làm vì không tin mình được gấp trăm.
Tôi chỉ thấy điều mình bị mất ngay trước mắt.
Xin cho tôi đừng vội quay lưng bỏ đi,
đánh mất cơ hội bằng vàng để trở nên môn đệ Chúa.
CẦU NGUYỆN
Lạy Cha,
sống là tìm kiếm.
Mỗi người chạy theo điều mình kiếm tìm.
Chúng con tự hỏi mình đang tìm gì, tìm ai,
đâu là hướng đi, đâu là lý tưởng đời mình.
Chúng con thấy rằng những giá trị của thế gian
chiếm chỗ lớn trong những ước mơ của chúng con.
Tiền bạc , danh vọng, khoái lạc, quyền lực
vẫn là những điều mê hoặc chúng con,
nên Cha không có chỗ cao nhất
trong cuộc đời chúng con.
Lạy Cha, xin ban cho chúng con ơn hoán cải.
Xin đánh thức chúng con khỏi cơn mê,
và làm chúng con tỉnh ngộ để nhận ra giá trị đích thực.
Xin dạy chúng con biết kiếm tìm Cha.
Vì chỉ có Cha mới thật sự đong đầy
những ước mơ sâu kín của chúng con,
và cho chúng con được hạnh phúc viên mãn.
3.Khôn ngoan--TGM. Ngô Quang Kiệt
Câu chuyện chàng thanh niên giàu có tốt lành có một khởi đầu tốt đẹp. Đẹp cho đến nỗi Chúa nhìn và đem lòng yêu thương anh. Nhưng lại có một kết thúc đáng buồn. Anh thanh niên bỏ đi buồn bã vì không thể theo Chúa. Chúa Giêsu cũng buồn vì anh gắn bó với tiền bạc hơn yêu mến Chúa.
Câu chuyện người thanh niên có thể là câu chuyện của mỗi người. Cũng như chàng thanh niên, bình thường ta giữ đạo rất dễ dàng. Sáng đi lễ, chiều đọc kinh, không làm điều gì gian ác, không bất công tham lam của người khác. Nhưng khi gặp mâu thuẫn giữa cuộc sống với việc đạo, phải chọn lựa giữa Thiên Chúa và những giá trị trần gian, nhiều khi ta nao núng và rất nhiều người đã vì những giá trị trần gian mà bỏ Chúa. Có những người khi còn nghèo túng thì giữ đạo rất tốt. Nhưng khi đứng trước những cám dỗ của tiền của thì vì ham mê tiền của mà sống gian dối, đánh mất lương tâm Công giáo. Có những người khi còn nhỏ thì rất ngoan ngoãn đạo đức, nhưng khi đến tuổi trưởng thành thì vì thú vui mà bỏ quên việc đạo. Nhưng nhất là có những người vốn con nhà đạo gốc rất sốt sắng, nhưng khi gặp cám dỗ về chức quyền thì vì một chút danh vọng, đành bỏ Chúa, bỏ đạo.
Theo suy nghĩ của người đời, những ai tìm được tiền của, đạt được danh vọng, nay lên chức mai lên quyền, là những người tài khéo khôn ngoan. Nhưng đó chỉ là khôn ngoan nhất thời kiểu trần gian. Vì cuộc sống trần gian có hạn. Con người ai cũng phải chết. Chết rồi có ai mang theo được của cải, danh vọng, chức quyền vào thế giới bên kia đâu. Thế mà cuộc sống sau cái chết mới là quan trọng, vì là cuộc sống vĩnh cửu không bao giờ phai tàn.
Chúa muốn ta đừng gắn bó với của cải nhưng phải gắn bó với Chúa, không phải vì Chúa muốn con cái phải khổ sở, hèn hạ. Nhưng vì Chúa muốn cho ta chọn con đường khôn ngoan, để đạt tới hạnh phúc đích thực, vĩnh cửu.
Ta đi đạo để chọn Chúa. Vì chọn Chúa ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản ta đến với Chúa. Những cản trở có thể là tiền bạc, danh vọng, chức quyền. Những cản trở cũng có thể là một người mà ta gắn bó, một nơi mà ta không thể dứt bỏ. Những cản trở đó cũng có thể là một lòng tự ái, một sự ghen ghét, bất mãn.
Nếu ta biết bỏ tất cả những gì cản trở để đến với Chúa ta sẽ đạt được chính Chúa. Được Chúa là được tất cả. Vì Chúa là hạnh phúc viên mãn. Được Chúa rồi ta sẽ không còn khao khát gì khác nữa.
Vì thế khi thánh Phêrô hỏi Chúa: Chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Chúa, chúng con sẽ được gì. Chúa đã trả lời: ai bỏ mọi sự mà theo Chúa, sẽ được gấp trăm và được sự sống vĩnh cửu.
Người khôn ngoan thì phải biết nhìn xa trông rộng. Biết bỏ những mối lợi trước mắt để tìm những giá trị vĩnh cửu.
Như thế yêu mến Chúa là chìa khóa của sự khôn ngoan. Chọn Chúa là chọn giá trị tuyệt đối, vĩnh cửu không gì có thể so sánh được.
Lạy Chúa, xin dạy con biết yêu mến Chúa trên hết mọi sự. Vì Chúa chính là hạnh phúc của con. Amen.
4.Hãy đi theo Chúa--GM Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Hằng tuần và có khi hằng ngày, chúng ta họp nhau lại đây cử hành thánh lễ để làm gì? Có lẽ cuối cùng chúng ta phải dựa vào các bài Thánh Kinh hôm nay để trả lời một cách thỏa đáng. Chúng ta muốn bắt chước vua Salomon đến đây cầu xin ơn khôn ngoan để biết sống ở đời. Và hơn nữa, chúng ta muốn như chàng thanh niên trong Phúc Âm xin Chúa chỉ đàng cho chúng ta như lời bài Thánh Thư hôm nay không? Do đó những bài Kinh Thánh chúng ta vừa nghe đọc, rất đáng suy nghĩ và phải được đem ra thực hành. Chúng ta hãy đọc lại.
1. Cầu Xin Ơn Khôn Ngoan
Bài sách Khôn ngoan cho chúng ta được nghe lại chính lời của Salomon. Ông nổi tiếng thông minh nhất đời, ít là theo ý kiến người Dothái. Không phải tự ông có sự khôn ngoan vượt bực ấy. Ông đã xin cùng Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông vì ông biết quý nó hơn hết mọi sự ở đời. Về điểm này ông đã nói đúng. Sách Các Vua quyển I còn kể (3,4-14): khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng có cả hàng nghìn tế vật lên Thiên Chúa. Người đã hiện ra với ông và hỏi ông xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân tộc "đông đúc"; nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi. Ðiều ông xin đã đẹp ý Chúa và Salomon đã nhận được ơn khôn ngoan.
Câu đầu của đoạn sách hôm nay nhắc lại câu truyện ấy. Và những câu sau làm chứng Salomon đã nhớ kỹ những lời Chúa phán hôm ở Gabaon. Người bảo: vì ngươi đã xin sự khôn ngoan chứ không xin được sống lâu giàu bền hay là chiến thắng trên quân thù nên Ta sẽ cho ngươi một lòng trí khôn ngoan đến nỗi trước và sau ngươi không có ai trong thiên hạ khôn ngoan bằng ngươi. Salomon đã nhớ lời này. Ông hằng suy niệm. Và hôm nay trong đoạn sách Khôn ngoan chúng ta vừa nghe, ông lặp đi nói lại rằng ông quý sự khôn ngoan hơn hết. Sức khỏe và sắc đẹp, vàng bạc và ánh sáng, tất cả đều như cát mạt sánh với sự khôn ngoan. Ðược nó là có mọi sự vì nó nắm giữ mọi sự trong tay.
Ðối với Salomon, khôn ngoan là một sự gì rõ rệt. Ðó là tài cai trị dân theo đúng ý Chúa. Nói đúng hơn đó là ơn trung thành biết lắng nghe lời Chúa và hiểu ý Người để lãnh đạo dân. Sự khôn ngoan đó chắc chắn không dành cho mọi người. Và không phải ai ai cũng cần cầu xin ơn ấy. Khôn ngoan khuyên bảo hết thảy chúng ta ao ước sự khôn ngoan, thì nó muốn nói đến sự khôn ngoan nào?
Không dễ trả lời câu hỏi này đâu. Ðọc sách Khôn ngoan từ đầu tới cuối, chúng ta thấy tác giả không bao giờ định nghĩa sự khôn ngoan bằng những công thức cụ thể. Dường như khôn ngoan là một huyền nhiệm. Người ta phải cố gắng mon men tới gần. Và tùy như mức cải tạo thực hiện được khi tiến lên với đức khôn ngoan, người ta mới hiểu thêm được và lãnh nhận dần được ơn cao cả này. Cuối cùng chúng ta có thể nói, khôn ngoan chính là Thiên Chúa, là thần trí của Người, là sự sống của Người, không phải như một thực tại ở xa chúng ta, nhưng đang muốn đến với chúng ta để làm cho chúng ta nên khôn ngoan hơn, tức là thánh thiện hơn và do đó hạnh phúc hơn.
Ðó mới thật là sự khôn ngoan mà phụng vụ hôm nay mượn lời Salomon khuyên nhủ chúng ta hãy ao ước và cầu xin. Ðừng quý gì hơn nó vì chỉ có nó là hạnh phúc đầy đủ cho chúng ta. Nếu muốn cụ thể hơn, chúng ta hãy nói rằng sự khôn ngoan mà chúng ta phải cầu xin chính là ơn cứu độ mà Ðức Kitô đã mang đến, là chính Ðức Yêsu là sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã giáng sinh làm người. Chúng ta hãy nhìn Người trong bài Tin Mừng hôm nay.
2. Hãy Ði Theo Chúa
Thánh Marcô kể hôm ấy Ðức Yêsu đang đi đường. Người lên Yêrusalem để thụ nạn cứu thế và ban hạnh phúc cho mọi người. Một chàng thanh niên chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và thưa với Người như một bậc "tôn sư": "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp". Anh chưa thấy Người khác mọi bậc thầy và khác với mọi sư phụ. Anh tưởng Người cũng giống như bao luật sĩ hoặc nhà truyền đạo đã thay lượt nhau đến dạy đường khôn ngoan cho loài người. Có lẽ anh chỉ coi Người hơn họ một chút xíu thôi.
Nhưng Người không phải như vậy. Người không đến dạy sự khôn ngoan, nhưng là chính sự khôn ngoan nhập thể. Người không chỉ dạy đàng dẫn đến sự sống đời đời, nhưng có chính sự sống ấy để ban cho những ai biết đón nhận... Thế nên Người đã nhắc nhở anh nghĩ tới điều đó và phải nhận ra Người không phải là một bậc Thầy thông thường. Người bảo anh: "Sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa". Nghĩa là nếu ngươi nói Ta là tốt lành, thì ngươi nên nhận ra thần tính ở nơi Ta; Ta là Thiên Chúa giáng trần. Thế nên lời Ta nói đây không phải là ý kiến của một luật sĩ hay của một nhà truyền đạo, nhưng là của chính Thiên Chúa. Và Người đã nhắc lại cho anh những giới răn trong Luật pháp. Chàng thanh niên vội thưa: "Lạy Thầy, mọi điều đó tôi đã giữ từ thuở bé". Lời anh nói làm chúng ta liên tưởng tới ý kiến của Phaolô phát biểu sau này: "Ðời tôi từ lúc thiếu thời... đã sống theo phái nhiệm nhặt trong tôn giáo chúng tôi...". Hoặc chúng ta cũng có thể nghĩ tới lời tự tín của người biệt phái nọ lên đền thờ cầu nguyện: "Lạy Thiên Chúa, tôi đội ơn Người, vì tôi không phải như những người khác... mỗi tuần tôi ăn chay 2 lần, tôi nộp thuế thập phân...".
Quả thật, chàng thanh niên đang đứng trước mặt Chúa Yêsu, là hình ảnh của biệt phái, của những con người tưởng rằng có thể chiếm được Nước Trời bằng cách giữ luật hoặc thi hàn các nguyên tắc khôn ngoan này, khôn ngoan khác. Ðức Yêsu nhìn chàng thanh niên ấy; Người muốn yêu những tâm hồn như vậy; Người muốn cứu độ họ thật sự. Người bảo anh ta: ngươi chỉ thiếu một điều: đi đi! Có gì thì đem bán hết mà chi kẻ khó, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời, đoạn hãy đến theo Ta.
Thánh Marcô kể tiếp: "Người ấy sầm mặt xuống vì lời đó mà bỏ đi buồn rầu, vì nó có nhiều của". Có thể thánh nhân đã viết như vậy để chuyển ý sang đoạn văn sau nói về nguy hiểm do của cải, đối với Nước Trời. Ðúng hơn người đã áp dụng ý của Chúa vào trường hợp cụ thể của độc giả tác phẩm của người. Những người này là các tín hữu đã tin vào Ðức Kitô chứ không phải là các biệt phái nữa. Họ cũng phải giữ Lời Chúa. Và cho được như vậy phải biết áp dụng Lời của Người vào trường hợp của mình. Vậy lời của Người khi xưa, tức là lúc Người đang ở trần gian, đã trực tiếp nói với chàng thanh niên đã giữ các giới răn từ thuở bé, tức là vẫn tưởng rằng có thể dùng sức mình và theo sự khôn ngoan của mình mà được sự sống đời đời. Không, người ta phải từ bỏ mọi ảo tưởng đó, phải khước từ hết, phải bắt chước Salomon trông cậy nguyên vào Chúa. Người ta phải đi bán tất cả, từ bỏ tất cả vì Nước Trời, rồi đến đi theo Chúa.
Lời Ðức Yêsu nói với chàng thanh niên có giá trị tổng quát và triệt để. Chúng ta phải ghi nhớ tính cách tuyệt đối này. Người ta không được cậy dựa gì ngoài Chúa. Của cải chỉ là một diện phải từ bỏ, tuy là diện khá quan trọng.
Nhưng vì sao thánh Marcô lại chú ý đến diện này? Phải chăng như lời Tin Mừng Luca viết: "Biệt phái vốn tham tiền"? (16,14). Hay là tại vì ở thời Marcô viết sách Tin Mừng, của cải đã trở thành vấn đề trong đời sống đạo? Tín hữu phải tự đồng hóa mình với hạng "nghèo khó được rao giảng Phúc Âm". Như vậy sẽ không được giàu có sao? Và như vậy sẽ được gì?
Chúng ta có thể coi lời Phêrô hỏi Chúa hôm nay như phản ảnh tâm lý và những thắc mắc này. Và chúng ta thấy câu trả lời thật khôn ngoan. Kẻ bỏ mọi sự mà theo Chúa vẫn có mọi sự ở đời này và cộng thêm sự bị bắt bớ. Ðàng rằng chỉ có Marcô thêm chữ "bị bắt bớ" này vào câu trả lời của Chúa. Có lẽ vì hoàn cảnh đặc biệt của Hội Thánh thời Marcô viết tác phẩm Tin Mừng. Nhưng ai cấm chúng ta suy nghĩ rằng: theo thánh nhân, môn đệ của Chúa ở đời này không tất nhiên phải biến mình trở thành khố rách áo ôm. Như mọi người, họ vẫn có nhà để ở, áo để mặc, cơm để ăn, họ hàng bè bạn để tương giao... và còn có hơn vì tình huynh đệ và tương trợ trong Hội Thánh; nhưng họ hãy có như không có, hưởng như không hưởng, vì họ phải sống mầu nhiệm thập giá Ðức Kitô mà viễn tượng "bị bắt bớ" luôn nhắc nhở người ta phải có tinh thần từ bỏ tuyệt đối vì Nước Trời. Và của cải là diện khó từ bỏ, đến nỗi con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Trời.
Các môn đệ của Ðức Yêsu đã ngạc nhiên trước những đòi hỏi như vậy. Họ sợ ít người có thể vào được Nước Thiên Chúa. Ðúng, với sức mình, với sự khôn ngoan của mình, loài người không làm gì được đâu. Nhưng, "mọi sự đều là có thể nơi Thiên Chúa"; tức là người ta phải trông cậy vào Chúa và chỉ trông cậy vào một mình Người mà thôi. Salomon đã có thái độ như vậy trong bài sách Khôn ngoan hôm nay... Còn chàng thanh niên kia, giống như các biệt phái, không muốn bỏ mọi sự và quan điểm của mình mà theo Chúa và thi hành Lời của Người. Tại sao vậy? Chúng ta hãy nghe lời thư Hipri.
3. Hãy Thi Hành Lời Chúa
Thư Hipri bàn rất nhiều và sâu sắc về chức tư tế trong đạo mới. Ðạo cũ tức là Dothái giáo có hàng tư tế đông đảo và lễ nghi sầm uất. Số lượng tế vật cùng khói hương và huyết chảy không thể tưởng tượng được. Nhưng tất cả để làm gì? Chỉ là một thất bại hoàn toàn; một bất lực không hơn không kém. Tội lỗi của dân chúng vẫn còn đó. Chính vì vậy mà Cựu Ước cứ phải dâng lễ không ngừng.
Trong Tân Ước trái lại, máu Ðức Yêsu đã rửa sạch mọi tội. Người chỉ dâng lễ một lần. Người đã đi vào cung thánh của chính bản tính Thiên Chúa qua mầu nhiệm tử nạn của Người. Người ta chỉ còn phải tham dự vào lễ tế vô giá ấy.
Nhưng đi vào lễ tế này sao được khi không để thân thể mình nát ra như chính của lễ hy sinh trên thập giá? Và phương tiện phân nát thân thể con người chính là Lời Chúa. Vì đây không phải là ý tưởng, mà là sự sống. Ðó là sự sống bởi trời xuống, đi vào thân xác con người, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi và đâm phập vào tận ranh giới hồn phách... cùng biện phân ra được tình và ý tưởng của lòng dạ. Người ta cứ xem Ngôi Lời đã thành nhục thể. Người đã sống một cuộc đời gian khổ như thế nào. Cuối cùng Người đã chết trên thập giá để trở thành của lễ cứu độ và trở nên vị Thượng tế của đạo mới. Người ta cũng phải để cho Lời Chúa thấm nhập tâm can... đóng đinh dục vọng và xác thịt vào thập giá. Có như vậy con người mới trở nên của lễ và mới tham dự vào chức tư tế của Ðức Kitô, mới được khỏi tội và ngang qua các tầng trời đi vào nơi yên nghĩ ở trong Thiên Chúa.
Cái lầm của đạo cũ là thái độ vụ hình thức, là não trạng tưởng rằng giữ được Luật pháp là có sự sống đời đời. Thật ra điều quan trọng là phải từ bỏ "sự sống của mình", của con người cũ ở nơi mình và nhận lấy sự sống mới đến từ Thiên Chúa. Salomon đã biết từ bỏ mọi sự để được sự khôn ngoan; Ðức Yêsu bảo người thanh niên phải đi bán tất cả để đến đi theo Người; tác giả thư Hipri khuyên chúng ta hãy để cho Lời Chúa thấm nhập biện phân tình và ý tưởng của lòng dạ. Ai sẵn sàng làm như vậy?
Chúng ta hãy chạy đến Thánh Thể, tham dự vào lễ tế của Ðức Kitô. Hãy hòa mình vào tâm tình xả kỷ cứu thế của Người. Hãy sống chân thật theo lương tâm và Lời Chúa dạy bảo và thôi lấy hình thức che đậy tâm can. Ai làm như vậy mà còn sợ sẽ không được sự sống đời đời? Ðó là người khôn ngoan hơn hết, hơn cả Salomon, vì ở đây nơi bàn thờ, còn có Ðấng trọng hơn Salomon và còn dạy đường khôn ngoan hơn Salomon. Chúng ta hãy đến và nhận lấy Người.
5.Thanh niên giàu có--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. Vũ Khắc Nghiêm--ViKiNi
Hình ảnh nổi bật nhất trong Tin mừng hôm nay là anh thanh niên giàu có. Anh rất thán phục Đức Giêsu, nên anh đã chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và thưa nhiều điều:
Điều thứ nhất anh thưa: Thầy là người nhân hậu. Chắc hẳn anh vừa thấy Chúa thương mến các trẻ em rất đặc biệt, và nhiều lần anh đã thấy Chúa cứu chữa bao nhiêu người tàn tật, đau ốm. Lòng nhân hậu của Người khiến anh xúc động cảm phục.
Điều thứ hai anh thưa với Đức Giêsu: Tôi phải làm gì để hưởng sự sống đời đời làm gia nghiệp? Đây là vấn đề làm anh quan tâm lo lắng rất nhiều. Nỗi khắc khoải này, không phải của riêng anh mà của chung cả nhân loại. Trước những cái chết của ông bà, cha mẹ, những người thân yêu, nhất là những cái chết của những bạn trẻ như anh, không ai có thể cầm được nước mắt. Con người đành chịu bó tay, và người ta lo sao cho mau chóng bó xác lại, đóng quan tài cho chặt, đào hố cho sâu, chôn dưới lòng đất cho chắc để khỏi phải ngửi những mùi hôi tanh thối tha. Cuộc đời con người chỉ có thế là hết ư? Thật vô lý bao nhiêu người đã kêu lên: Vô lý! Anh thanh niên đang tuổi thắc mắc, đã không chịu nổi cái vô lý đó, nên anh tìm đến với Đức Giêsu. Anh tin Người sẽ giúp anh thoát khỏi cơn khủng hoảng vô lý này. Người hỏi anh có giữ các điều răn không? Anh mau lẹ dứt khoát đáp: “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”. Anh nghĩ chắc ăn rồi: mình sẽ được sống đời đời và anh vui mừng nhìn cặp mắt đầy yêu thương của Đức Giêsu.
Không ngờ, Người lại bảo: “Anh chỉ còn thiếu một điều là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo Tôi”.
Nghe thế, niềm vui phựt tắt “Anh buồn rầu bỏ đi vì anh có nhiều của cải”.
Thật sững sờ: các môn đệ sững sờ, dân chúng sững sờ. Họ tiếc: Sao Người không chiêu mộ chàng thanh niên giàu đó làm môn đệ có phải sướng không? Còn Đức Giêsu, Người thương tiếc anh và những kẻ giàu có: “Người rảo mắt nhìn chung quanh và nói: Những người có của mà vào nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!… Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa”.
Đức Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu như ông phú hộ tích trữ thóc lúa để ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ rơi từ bàn ăn rơi xuống, vẫn không được (Lc. 12, 16-21. 16, 19-26).
Những hạng phú hộ như thế ngày nay xuất hiện khắp nơi: như Onessis nhà tỷ phú Hy lạp nổi tiếng nhất thế giới, chỉ lo ăn chơi, cưới hai bà vợ, có hai con, cả gia đình sống bất hòa, bất chính, ly dị nhau. Đứa con trai chết vì tai nạn máy bay, con gái ghen ghét bà mẹ ghẻ Jacqueline.
Ông Khasuri, nhà tỷ phú Nhật nổi tiếng thứ nhì thế giới, mỗi ngày tiêu xài 300.000 đôla. Ông mua một bức họa của Van Goh có 7 bông hoa hướng dương với giá 35 triệu đôla. Báo chí thế giới cho là một bỉ ổi đối với người nghèo. Còn bà vợ đã ly dị đòi bồi thường 2 tỷ 500 triệu đôla.
Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc. 12, 20). Khi các ông ấy ở dưới âm phủ, đã ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm” thì Abraham cũng chỉ đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc. 16, 23-25).
Tiếc thay, nếu các ông phú hộ và tỷ phú đó, khi còn sống đã biết chia sẻ cuộc sống giàu có của các ông cho những người nghèo, những người đau khổ, thì khi chết, chắc chắn các ông sẽ được những người hưởng hạnh phúc ngàn thu chia sẻ hạnh phúc của họ cho các ông rồi, đâu còn để các ông cực khổ rên xiết như vậy.
Đoạn Tin mừng Chúa nhật này chỉ cho chúng ta thấy rõ ba điều để được sống đời đời: một là giữ giới răn Chúa, hai là chia sẻ những gì ta có cho người nghèo khổ, ba là hãy đến theo Đức Giêsu.
Chàng thanh niên Phanxicô con nhà thương gia tơ lụa nổi tiếng thành Assisiô nước Ý, đã được Chúa soi sáng và cảm nghiệm sâu xa lời Chúa nói với chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng: “Anh chỉ còn thiếu một điều: Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo Tôi”. Phanxicô đã bán hết những gì mình có bố thí cho người nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa: Ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố vừa rung chuông vừa rao giảng Tin mừng tình thương của Chúa.
Phanxicô lìa trần ngày 04/10/1226, trên môi thì thầm: khó nghèo, hòa bình, tình thương và hát bài Thánh thi ca tụng Chúa: Xin chúc tụng Ngài, Chúa con ơi, với tất cả tạo vật của Ngài …” (Những người lữ hành trên đường hy vọng, số 23.3)
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời, xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ giới răn Chúa, thương yêu chia sẻ cho người nghèo khổ hơn con và nhiệt tâm loan báo Tin mừng.
6.Phải biết lựa chọn--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP
Theo tâm lý chung của con người, ai cũng thích được giầu sang phú quí, của cải dư dật, có kẻ hầu người hạ, nhưng Hội thánh muốn dùng những bài đọc hôm nay để cảnh giác chúng ta: của cải, sự giầu sang có thể là một trở ngại cho đời môn đệ. Cần phải biết cách làm chủ chúng, và chấp nhận sự hy sinh trong việc sử dụng. Tuy nhiên, so với những hy sinh mà đời môn đệ phải có thì phần thưởng được ban cho đời môn đệ thật vô cùng lớn lao.
Bài Tin mừng hôm nay thuật lại việc một chàng thanh niên giầu có đến xin Đức Giêsu chỉ bảo cho cách thức để chiếm được gia nghiệp đời đời và đi theo Ngài. Đức Giêsu liền đưa ra cho anh một điều kiện tiên quyết là phải bán hết của cải mà phân phát cho người nghèo khó, rồi đến làm môn đệ Ngài. Nhưng tiếc thay, anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta quá dính bén với của cải vật chất.
Nhân dịp này, Đức Giêsu khuyên các môn đệ phải có tinh thần siêu thoát đối với của cải vật chất. Hãy dùng nó như phương tiện chứ đừng tôn nó lên làm chúa tể vì Chúa nói: “Không ai có thể làm tôi hai chủ". Chúng ta hãy cầu xin Chúa ban cho chúng ta sự khôn ngoan như Salomon để biết quí trọng sự sống đời đời, biết dùng của cải vật chất cho xứng đáng và luôn có tinh thần chia sẻ với người khác.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA
+ Bài đọc 1: Kn 7,7-11
Đoạn văn trích sách Khôn ngoan hôm nay ca tụng Đức Khôn ngoan và coi Đức Khôn ngoan là cao trọng hơn hết. Trong khi người thường quí trọng tiền của và sự giầu sang thì người công chính lại coi Đức Khôn ngoan là cao trọng hơn cả. Tác giả cho biết lý do:
- Khôn ngoan quí trọng hơn vàng bạc châu báu.
- Khôn ngoan quí trọng hơn sức khỏe và sắc đẹp.
- Khôn ngoan sẽ đem đến cho người công chính nhiều sự may lành.
Nhưng muốn được Đức Khôn ngoan phải kêu cầu Chúa, Người sẽ ban cho kẻ kêu xin.
+ Bài đọc 2: Dt 4,12-13
Tác giả thư gửi tín hữu Do thái nói với chúng ta rằng: như lưỡi gươm sắc bén, Lời Chúa thâm nhập tâm can đến những chốn thẳm sâu để soi cho tâm hồn thấy được chính mình, không ảo tưởng. Lời Chúa lột tẩy những sai trái của con người, không phải là để kết án, nhưng là để soi sáng và mời mọi người điều chỉnh lại bước đường của họ.
+ Bài Tin mừng: Mc 10,17-30
Bài Tin mừng được chia thành hai phần:
a) Thiện chí nửa vời: Một thanh niên muốn tiến cao trên đường nhân đức đã đến xin Đức Giêsu chỉ bảo cách thức để có thể tiến tới đường trọn lành của Nước Trời. Đức Giêsu đã chỉ dẫn cho anh: "Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta". Nghe thế, anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều tiền của. Đức Giêsu tiếc rẻ cho anh ta, nhìn chung quanh và nói: "Những kẻ cậy dựa vào của cải khó vào Nước Thiên Chúa biết bao".
b) Bài học về sự từ bỏ: Đức Giêsu đưa ra điều kiện tiên quyết cho những người muốn làm môn đệ của Ngài là phải từ bỏ mọi sự. Ngài cũng lợi dụng hoàn cảnh này để cảnh giác các môn đệ cho khỏi quyền lực của trần gian chế ngự. Chúng kềm hãm và chặn đứng những nhiệt tình cao đẹp nhất. Chúng làm khô héo những hoài bão thanh cao nhất của những người thiện chí.
Tuy nhiên, Ngài cũng hứa phần thưởng cho những ai từ bỏ vì Nước Trời:
- Được lãi gấp trăm ở đời này.
- Cùng với sự bắt bớ: nghĩa là được chia sẻ số phận với Ngài.
- Được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Phải biết lựa chọn
I. KHÔN NGOAN TRONG VIỆC LỰA CHỌN.
1. Salomon khôn ngoan lựa chọn.
Bài đọc 1 cho chúng ta biết Salomon là một ông vua có sự khôn ngoan đặc biệt.. Ông đã xin Thiên Chúa và Người đã thương ban cho ông, ông cũng biết quí nó hơn hết mọi sự ở trên đời.
Về điểm này, Sách Các Vua quyển I (3,3-14) cho biết: khi mới lên ngôi, Salomon đã đến Gabaon, một thánh điện nổi tiếng thời bấy giờ. Ông dâng cả ngàn lễ vật lên Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hiện ra với ông và hỏi ông muốn xin gì? Ông khiêm tốn thú nhận mình còn trẻ trung mà phải cai trị một dân "đông đảo", nên ông không xin điều gì khác ngoài một lòng trí biết nghe Lời Chúa để trị dân và phân biệt phải trái mà thôi. Điều ông xin đã đẹp lòng Chúa và Chúa ban cho ông theo ý sở nguyện.
Đó mới thật là sự khôn ngoan mà phụng vụ hôm nay mượn lời Salomon khuyên nhủ chúng ta hãy ao ước và cầu xin. Đừng quí gì hơn nó vì chỉ có nó là hạnh phúc đầy đủ cho chúng ta.
2. Người thanh niên thiếu khôn ngoan.
a) Xin làm môn đệ Đức Giêsu.
Khi Đức Giêsu đi trên đường thì có một anh thanh niên chạy đến và sụp quì dưới chân Ngài. Có lẽ đây là một người giầu sang, có nhiều cuả cải, có địa vị trong xã hội, được nhiều người kính nể. Anh ta có đầy đủ mọi thứ để được hạnh phúc theo tiêu chuẩn thông thường của người đời.
Nhưng anh ta còn có một ước vọng cao quí hơn nữa, đó là phải làm gì để được sống đời đời làm gia nghiệp. Đức Giêsu rất ưng ý và vạch ra một số việc phải làm như "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ". Anh ta lanh lẹ trả lời: “Tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ từ thưở nhỏ"(Mc 10,20).
Đây quả là một người ngay thẳng, có lương tâm trong sáng. Anh đã tuân giữ lề lật. Anh ta sống có kỷ cương. Đức Giêsu không phủ nhận sự thành thực của những lời anh ta nói. Ngài có cái nhìn yêu thương trìu mến đối với anh, nhưng Đức Giêsu không ngừng ở đây, Ngài nói tiếp làm cho anh ngỡ ngàng: “Anh chỉ còn thiếu có một điều là: "Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho trên trời. Rồi hãy đến theo Ta"(Mc 10,21).
b) Từ chối lời mời gọi.
Khi Đức Giêsu nói những lời đó: “Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải"(Mc 10,22). Anh ta không ngờ Đức Giêsu đã đưa ra một điều kiện mà anh không thể vượt qua được.
Thái độ này diễn tả rằng lời mời gọi của Đức Giêsu đã khác hẳn với ý nghĩ của anh và vượt quá sức của anh vì anh chưa sẵn sàng từ bỏ của cải, đang khi anh là người giầu có, và vì anh đã không hiểu rằng điều kiện của một cuộc sống theo Chúa là phải có sự độc lập với của cải vật chất và với những trói buộc xã hội. Đàng khác anh cũng chưa nhận ra sự giầu có trói buộc và nô lệ hóa con người cách khắt khe đến như vậy, nên anh "buồn rầu bỏ đi".
3. Những khó khăn trong việc theo Chúa.
Sau khi người thanh niên bỏ đi, Đức Giêsu nhìn chung quanh nói với một giọng tiếc rẻ: “Những người giầu có vào Nước Thiên Chúa khó biết bao"(Mc 10,23).
Đây là cái nhìn tỏ lòng thương tiếc đối với những tâm hồn đang bị của cải vật chất chi phối đến nỗi không thể vươn mình lên để vào Nước Trời được; vì thế, Chúa mới nói với các môn đệ: “Những người giầu có ở đây là những người có tiền tài, có kho tàng bảo vật, của chìm chủa nổi, động sản hay bất động sản…". Tất cả những cái đó kìm hãm họ, không cho họ có thể vươn lên tới Nước Trời là thiên đàng.
Truyện: Đạo một mắt.
Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không, có nguy cơ bị mù. Ông hỏi:
- Nhưng giá bao nhiêu?
- Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù lòa. Rồi ông nói với bác sĩ:
- Tôi chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn!
Nhiều người vẫn cầu nguyện: “Xin mở mắt để con thấy kỳ công của Chúa…" Nhưng xem ra nhiều Kitô hữu chỉ muốn mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để trông coi gia sản!
II. LỰA CHỌN THIÊN CHÚA HAY TIỀN CỦA.
1. Người giầu có và con lạc đà.
Nghe Đức Giêsu cho biết kẻ giầu có khó vào Nước Thiên Chúa khiến các môn đệ kinh ngạc. Vì sao lại kinh ngạc? Vì tâm trạng người Do thái đinh ninh rằng sự giầu sang là ân huệ của Thiên Chúa. Ý định của Thiên Chúa sáng tạo không phải là để giao cho con người quyền sở hữu và thống trị thế giới này, nhằm xây dựng và làm cho thế giới thêm giá trị sao (St 1,27-31)?
J. Potin giải thích: “Các môn đệ càng cảm thấy sửng sốt hơn nữa vì theo cách giữ đạo thời đó, thì càng giầu càng có nhiều thuận lợi. Có tiền thì người giầu có thể dâng lễ vật cho Thiên Chúa theo Luật buộc để được xá tội, có thể dâng cúng một phần mười tài sản mà các tư tế đòi, hoặc có thể bố thí cho người nghèo… Dường như có một thỏa thuận ngầm giữa Thiên Chúa và những người giầu. Như vậy, giầu có của cải không phải là dấu chỉ của người đẹp lòng Thiên Chúa sao" (Fiches dominicales, tr 298)?
Đức Giêsu lại bồi thêm một câu nữa làm cho các ông càng kinh ngạc: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước Thiên Chúa"(Mc 10,25) Chúng ta phải hiểu câu nói của Đức Giêsu như thế nào?
Có những người nghĩ rằng: câu nói phóng đại thái quá, muốn làm dịu bớt. Thay vì chữ lạc đà, có người thay vào chữ "Giây cáp". Người khác giữ chữ lạc đà, nhưng cho rằng cái lỗ kim phải hiểu là tên một trong các cửa thành Giêrusalem. Thực ra phải giữ nguyên cả con lạc đà lẫn lỗ kim. Trong những sách các thầy rabbi viết, cũng đã có những phóng đại như vậy, thí dụ con voi chui qua lỗ kim (sách Talmud). Đức Giêsu cũng đã có lần nói đến, khi trách người biệt phái: “Quân dẫn đàng mù quáng! Các ngươi gạn lọc con muỗi, nhưng lại nuốt trửng con lạc đà"(Mt 23,24)? Thực ra so sánh người giầu vào nước Trời với con lạc đà chui qua lỗ kim, không phải Chúa có ý nói người giầu vào Nước Trời khó mà thôi, mà Chúa có ý nói là việc không thể có (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật, năm B, tr 324-325).
Đức Giêsu là một nhà giảng thuyết nổi tiếng, đã có nghệ thuật dùng những kiểu nói gây ấn tượng mạnh để dễ nhớ. Chúng ta không nên làm nhẹ những câu nói này, nại cớ là chúng nghịch lý.
Ngay trong văn chương Việt nam chúng ta, người dân quê cũng dùng những kiểu nói ví von phóng đại và nghịch lý tương tự như Đức Giêsu đã nói. Ví dụ:
Lỗ mũi em thì tám gánh lông,
Chồng yêu chồng bảo tơ rồng trời cho.
Hoặc câu khác nhẹ hơn:
Cổ tay em trắng như ngà,
Con mắt em sắc như là dao cau.
(Ca dao)
Nghe lời Đức Giêsu nói, các môn đệ kinh ngạc và tỏ ra thất vọng, vì sức con người yếu đuối trước sự trói buộc do tiền của vật chất gây ra, nên đã thốt lên: “Vậy thì ai có thể được cứu độ"?
Nhưng Đức Giêsu đã khích lệ và nâng đỡ các ông đang kinh ngạc trước sự nguy hiểm của vật chất và Ngài trấn an các ông bằng cách chỉ dẫn cho các ông một chân lý căn bản là sự cần thiết của ơn Chúa: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự"(Mc 10,27).
2. Chúa không lên án người giầu có.
Thực ra, Đức Giêsu không lên án người giầu co, cũng không chúc lành cho người nghèo. Những người "đàn bà thánh thiện"đi theo Chúa, họ là những người giầu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Marta và chị của Lazarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng). Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38; Mc 14,3-9), hay những người thu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy Chúa lên án những gì?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ cho tiền của. Thật khó cho người giầu có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
3. Tiền của cần thiết cho đời sống.
Ai cũng phải công nhận rằng: của cải cần thiết cho đời sống con người. Của cải sẽ đem lại cho con người nhiều hạnh phúc hơn. Cả Tây phươgn lẫn Đông phương đều có chung một quan niệm - "Manducare priusquam philosophare": ăn đã rồi hãy triết lý,
- "Dĩ thực vi tiên": cái ăn phải đứng hàng đầu,
- "Có thực mới vực được đạo".
Tiền của cần thiết như thế nên Đức Giêsu không bao giờ lên án tiền của hay người có tiền của, tức là người giầu. Ngài biết con người phải có tiền của để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Ngài biết "đồng tiền liền khúc ruột", cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa. Sự túng thiếu bần cùng là một sự dữ, loài người không ai muốn, thì Chúa cũng không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào.
4. Những nguy hại do tiền của.
Tiền của có thể gây nguy hại cho người giầu có vì tiền của có sức mạnh khống chế con người. Vì thế người ta mới nói:
Tiền là tiên là phật,
Là sức bật của lò xo,
Là thước đo của lòng người,
Là nụ cười của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của người già
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng để che thân.
Người xưa cũng thường nói: “Hoàng kim hắc thế tâm nhân":
Đồng tiền không phấn không hồ,
Đồng tiền khéo điểm khéo tô mặt người.
Tiền bạc của cải luôn là con dao hai lưỡi: nó có thể trở nên ông chủ khắc nghiệt hay trở nên một đứa đầy tớ trung tín, tùy theo cách người ta sử dụng nó: nếu nó được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với nhân phẩm của mình; trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như cứu cánh của cuộc đời mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, nhất là giá trị thiêng liêng, tinh thần thì nó sẽ làm cho chúng ta bị phá sản về vật chất cũng như tinh thần.
Nói khác đi, tiền của tự nó vẫn tốt và giúp ích cho con người. Nó chỉ xấu và có hại khi đem xử dụng vào những mục tiêu xấu. Đúng vậy, vì tiền của mà người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời, có thể làm những điều bất chính, tội lỗi, nhất là vì ham mê tiền của mà quên cả Chúa, quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là người khó vào Nước Trời.
III. QUYẾT TÂM CỦA CHÚNG TA.
1. Đừng "bắt cá hai tay".
Đây là một câu tục ngữ người Việt ta thường dùng. Dĩ nhiên, muốn bắt một con cá thì phải dùng cả hai tay thì mới bắt được, nhưng ở đây có ý nói: không phải là hai tay định bắt một con cá mà mỗi tay định bắt một con. Câu này thường dùng để chỉ người mưu một lúc cả hai việc, hy vọng rằng hễ hỏng việc nọ thì được việc kia.
Về vấn đề này, Đức Giêsu đã nhiều lần cảnh cáo trong suốt thời gian rao giảng Tin mừng: “Các ngươi không thể phục vụ Thiên Chúa và tiền của cùng một lúc"(x.Lc 16,13), hoặc: “Người giầu trở nên điên rồ và phi lý. Người ấy tưởng mình không cần đến Thiên Chúa nữa"(x. Lc 12,16-20). Người giầu từ từ đóng cửa con tim và không còn thấy anh em của mình đang đau khổ bên cạnh mình (Lc 16,19-31). Sự giầu sang bóp nghẹt Lời Chúa (x. Mt 13,22).
Truyện: Con lừa trước sự lựa chọn.
Ông viện trưởng đại học Paris ở thế kỷ 14 đã làm một thí nghiệm như sau: Ông để cho một con lừa nhịn đói, nhịn khát trong mấy ngày. Sau đó, ông đưa nó đến sân ăn, ông đặt nó giữa một thùng nước và một bó cỏ non. Lừa ta tuy đói lắm nhưng hết nhìn đống cỏ này lại ngó thùng nước kia, nó lưỡng lự giữa nước và cỏ, để rồi cuối cùng kiệt lả mà chết (Cử hành Phụng vụ CN, tr 174).
Cuộc sống không ngừng đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn và chọn lúc nào cũng đòi hỏi hy sinh. Kẻ bắt cá hai tay vẫn luôn luôn là người thua thiệt nhiều nhất. Hãy nhớ lại Lời Chúa đã phán: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được"(Mt 6,24).
2. Phải có tinh thần siêu thoát.
Ai muốn làm môn đệ Chúa phải có tinh thần siêu thoát đối với tiền của. Siêu thoát đây không có nghĩa là phải bỏ hết mọi sự để sống một đời sống nghèo nàn tuyệt đối như thánh Phanxicô Assisi. Phanxicô đã nghe bài giảng trong Thánh lễ có câu: “Anh chỉ còn thiếu một điều: hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta". Phanxicô lập tức thực hiện câu Tin mừng nên đã bán hết những gì mình có, bố thí cho người nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa: ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố vừa rung chuông vừa rao giảng Tin mừng tình thương của Chúa.
Chúa không đòi chúng ta phải sống nghèo khó tuyệt đối như thánh Phanxicô. Ngài chỉ đòi chúng ta phải có tinh thần siêu thoát đối với tiền của, không để cho của cải vật chất chi phối làm cản bước đường tiến tới sự trọn lành mà chỉ dùng của cải như bàn đạp để tiến lên, tiến tới đỉnh trọn lành và đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Truyện: Đứng trên của cải.
Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có: “Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không". Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: "Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải".
Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa.
Một phương thế Chúa dạy chúng ta là: hãy chia sẻ. Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia sẻ: chúng ta chia sẻ cho người khác một, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp nhiều lần.Theo kinh Hòa bình của thánh Phanxicô Assisi thì chính lúc cho đi là lúc được nhận lãnh và được lãnh nhận dồi dào, nhất là lãnh nhận ở đời sau.
7.Nguy hiểm của tiền bạc của cải--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
"Những người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa biết bao" (Mc 10,23)
I. Dẫn vào Thánh lễ
Anh chị em thân mến
Chúng ta thường nghe nói "Có tiền mua tiên cũng được". Và có lẽ bận tâm lớn nhất của chúng ta trong cuộc sống là kiếm tiền. Quả thực tiền bạc rất cần cho cuộc sống. Tuy nhiên Ðức Giêsu cũng khuyến cáo chúng ta rằng tiền bạc rất nguy hiểm, có thể làm cho chúng ta mất Nước thiên đường.
Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa dạy xem chúng ta phải có thái độ nào đối với tiền bạc.
II. Gợi ý sám hối
Lạy Chúa, lắm khi vì tiền mà chúng con phạm tội làm mất lòng Chúa.
Lạy Chúa, lắm khi cũng vì tiền mà chúng con làm hại anh em chúng con.
Lạy Chúa, lắm khi vì mãi lo kiếm tiền mà chúng con quên tìm kiếm Nước Chúa.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I (Kn 7,7-11)
Trong khi người thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu sang thì Người Công chính coi Ðức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả: (1) Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu; (2) Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp; (3) Cùng với Ðức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
2. Ðáp ca (Tv 89)
Thánh vịnh này thuộc loại Thánh vịnh minh triết. Mở đầu đoạn này, tác giả nhận định rằng cuộc sống của con người có giới hạn và lại đầy dẫy những ưu phiền. Từ nhận định đó, tác giả không xin Chúa cho mình sống lâu, cũng không xin cho được giàu có, mà chỉ xin cho được no say tình Chúa và vui hưởng lòng nhân hậu của Ngài.
3. Tin Mừng (Mc 10,17-30)
1. Nhân vật của câu chuyện này đã gây ra hai tình cảm của Ðức Giêsu đối với anh, biểu lộ qua hai ánh mắt Ngài nhìn:
Khi biết anh đã giữ trọn các điều răn, Ngài "Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương". Ngài còn mời gọi anh tiến cao thêm một bước nữa là đem hết tài sản bố thí cho người nghèo rồi đi theo làm môn đệ Ngài.
Khi anh tiếc của bỏ đi, Ngài cũng tiếc anh, Ngài "nhìn chung quanh" (một cái nhìn tiếc rẽ) và thốt lên một chân lý "Những kẻ cậy dựa vào của cải thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao"
2. Sau đó Ðức Giêsu dạy về sự từ bỏ:
Muốn làm môn đệ Ðức Giêsu thì phải từ bỏ mọi sự để đi theo Ngài. Phần thưởng cho kẻ từ bỏ là:
được lại gấp trăm ở đời này
cùng với sự bắt bớ: nghĩa là được chia xẻ số phận của Ðức Giêsu. và hạnh phúc vĩnh cửu đời sau.
* Cần chú ý trong bản văn
So sánh lời Ðức Giêsu kể ra những thứ phải từ bỏ (câu 29) với lời Ngài kể ra những thứ sẽ được lại gấp trăm (câu 30), ta thấy có hai điểm khác nhau:
- c 29 nói bỏ cha, mẹ; câu 30 nói được gấp trăm về mẹ mà không kể Cha ra. Chỉ có một Cha trên trời là đủ tất cả.
- c 30 có kể thêm "cùng với sự bắt bớ"... Cộng đoàn Marcô đang bị bách hại. Trong hoàn cảnh bị bách hại như thế, người môn đệ phải bỏ rất nhiều. Nhưng bù lại họ cảm nghiệm lời Chúa nói rất đúng: dù không có nhà nhưng họ đi đến đâu cũng được đón tiếp như là nhà của mình; họ xa cách anh chị em và con cái nhưng đi đến đâu cũng được đối xử như anh chị em
4. Bài đọc II (Dt 4,12-13) (Chủ đề phụ)
Tác giả giải thích giá trị soi sáng của Lời Chúa: "xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của loài người; phơi bày tất cả mọi sự.
IV. Gợi ý giảng
1. Thập giá và vinh quang
Hai người con ông Zêbêđê, tức là tông đồ Giacôbê và Gioan, đoán rằng CG sắp hoàn thành sự nghiệm của Ngài, nên đã nhờ mẹ mình dẫn đến CG để xin Chúa cho họ được 2 chỗ ưu tiên trong Chính Phủ mà họ tưởng CG sắp thành lập. Ðiểm đáng lưu ý là họ đến xin như thế ngay sau khi CG loan báo rằng Ngài sắp bước vào con đường Thập Giá, mà đây là lần loan báo thứ ba. Họ cũng nghe những lời loan báo ấy chứ, nhưng họ không thèm hiểu ý nghĩa của Thập Giá là gì. Ðầu óc họ cứ bị thôi thúc bởi ham muốn dành cho được những ghế ưu tiên trong Nước Chúa. Thành thử CG phải nhắc họ: "Các con chẳng hiểu điều các con xin. Các con có uống nổi chén đắng Thầy sắp uống và chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?" Họ đáp bừa: "Thưa được". Họ có nghĩ gì đến chén đắng và đến phép rửa gì đâu. Chỉ vì mong Thầy mau chấp thuận cho nên cứ đáp bừa là Thưa được. Tóm lại họ chỉ muốn Vinh Quang chứ không hiểu Thập Giá. Thái độ ấy của 3 mẹ con khiến cho các tông đồ khác phải bực bội.
Nhưng chúng ta chớ vội trách 3 mẹ con nhà Zêbêđê ấy, bởi vì nhiều khi chúng ta cũng giống như họ thôi:
Thí dụ như anh chàng trong câu chuyện ở trên đó, chẳng chịu khó học hành mà chỉ muốn có địa vị, có chức quyền trong xã hội, chẳng chịu khó làm việc mà chỉ muốn ăn lương như bộ trưởng.
Nhiều người trong chúng ta không thích cần cù lao động, không cố gắng tiết kiệm, mà chỉ mơ được trúng số độc đắc. Nhiều người thèm muốn và phân bì với cảnh giàu sang của người khác, nhưng không nhớ rằng trước khi được giàu sang như vậy người ta đã phải cần cù làm ăn biết bao nhiêu năm trời.
Ðó là về việc làm ăn. Còn trong chuyện gia đình cũng vậy. Nhiều người chỉ muốn con mình ngoan, con mình giỏi, con mình tốt nhưng chẳng chịu khó giáo dục con, nhất là chẳng bao giờ để ý làm gương tốt cho con. Thế rồi khi thấy con mình hư, không được như con người khác thì rầy, thì chửi, thì đánh đập. Hết chửi mắng đánh đập con cái rồi quay ra than thân trách phận, than rằng mình vô phước.
Và trong chuyện đạo cũng vậy. Nhiều người chỉ biết cầu xin Chúa cho mình khá giả nhưng lại không chịu khó làm ăn. Bởi vậy mà có những người ngoại đạo đã mỉa mai rằng mấy người có đạo cứ cắm đầu đọc kinh Lạy Cha xin cho chúng con lương thực hằng ngày mãi, nhưng chờ xem Chúa có cho họ hay không! Có người chỉ biết có khoanh tay cầu xin như vậy, rồi khi túng thiếu thì cằn nhằn trách móc Chúa sao mình xin mãi mà Chúa không nhậm lời.
Những ước muốn của chúng ta cũng giống như những ước muốn của 3 mẹ con Zêbêđê: những lời cầu nguyện của chúng ta cũng giống như những lời xin của họ. Ước muốn suông, cầu nguyện suông thì không bao giờ đạt được. CG đã từ chối với 3 mẹ con ấy, rằng "Việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì Thầy không có quyền cho". Nghĩa là CG không muốn ban ơn cho những kẻ làm biếng, những người không dám chịu gian khổ. Ơn Chúa và vinh quang Chúa chỉ ban cho những kẻ trước đó đã can đảm trải qua gian nan thử thách. Chính bản thân của CG, để có thể đến với vinh quang phục sinh thì trước phải trải qua con đường gian khổ của Thánh giá. Chúa mà còn như thế thì huống chi là loài người chúng ta: không bao giờ có con đường tắt để đến vinh quang, cũng như không bao giờ có phép lạ cho những kẻ không chịu khó vác Thánh Giá, nói cách bình dân hơn: không trồng cây thì đừng hòng ăn trái.
Bài Tin Mừng hôm nay gồm vào một bài học chính: Phải qua Thập Giá thì mới có thể đến Vinh Quang, không thể đốt giai đoạn, không có con đường tắt. Bài Tin Mừng này khiến chúng ta phải xét lại đôi điều trong cuộc sống chúng ta.
Thứ nhất về lời cầu nguyện của chúng ta: Là người có đạo, chắc chắn chúng ta đã cầu nguyện rất nhiều. Trong khi cầu nguyện chúng ta xin Chúa rất nhiều thứ: xin cho hằng ngày dùng đủ, xin cho gia đình hạnh phúc, xin cho con cái ngoan ngoãn, xin được khỏi cảnh túng thiếu, xin cho được qua một cơn tai nạn... Những lời cầu xin ấy chắc chắn là rất thành thực, rất tha thiết. Nhưng thành thật và tha thiết lắm thì cũng chỉ bằng lời cầu xin của 3 mẹ con nhà Zêbêđê là cùng. Nhưng Chúa đâu có nhận lời cầu xin của 3 mẹ con ấy. Tại sao vậy? Ðó cũng là thắc mắc mà một vài người đã đặt với tôi. Họ nói: Nhiều người không có đạo chẳng cầu xin gì hết mà vẫn giàu có, vẫn hạnh phúc, vẫn thành công; trong khi nhiều người có đạo cầu nguyện cầu xin hoài mà cũng chẳng được gì! Trước khi phàn nàn, trước khi bất mãn, chúng ta phải tự hỏi lại mình: phải chăng mình cũng giống như 3 mẹ con nhà Zêbêđê chỉ muốn vinh quang mà chẳng muốn gian khổ? Phải chăng mình đã không chịu cố gắng mà chỉ mong Chúa làm phép lạ? Phải chăng mình không trông cậy mà chỉ muốn ăn trái. Chúa không phải là một Ðấng chỉ biết ban ơn, chỉ làm phép lạ, mà Chúa là Ðấng vạch đường chỉ lối, đường lối đúng, đường lối tốt để ai biết đi theo thì sẽ đến được hạnh phúc vinh quang.
Và điểm thứ hai: đường lối ấy là gì? Ðó là con đường Thập giá dẫn đến vinh quang. Như vừa nói trên, chúng ta cầu nguyện nhiều, trước mỗi lần cầu nguyện chúng ta đều làm dấu Thánh Giá. Thì xin hãy nhớ trước tiên ý nghĩa của cây Thánh Giá. Trước khi mở miệng xin Chúa một điều gì thì chúng ta hãy xét mình xem chúng ta đã vách Thánh Giá chưa: thánh giá là những nỗ lực làm việc, thánh giá là trách nhiệm hằng ngày, thánh giá là phấn đấu, là mồ hôi, là gian lao cực khổ... Tay chúng ta làm dấu Thánh giá trước khi miệng chúng ta mở lời cầu xin. Nhưng nếu xét thấy chúng ta đã chưa chịu vác Thánh giá thì chúng ta cũng không nên mong những lời cầu xin của chúng ta được chấp nhận.
Hãy cố gắng vác Thánh giá trước đi, nghĩa là hãy cố gắng trước đi với những khả năng của mình - sau đó mới cầu xin, để Chúa thêm ơn bù cho những gì mà sức cố gắng của chúng ta không vươn tới được. Như vậy, mọi việc chúng ta làm đều là hợp tác giữa cố gắng của mình với ơn Chúa giúp. Và có như vậy thì mới có thể thành công.
2. Kho báu trên trời
Kagawa là một tín hữu Kitô Nhật Bản, khi nghe Lời Chúa phán: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", ông liền bán căn nhà tiện nghi sang trọng của mình, đến khu nhà ổ chuột tồi tàn vùng Tokyo. Nơi đây ông chia sẻ của cải cho bất cứ ai cần trợ giúp, ông đi thăm nuôi tù nhân, an ủi giúp đỡ người bệnh, cấp dưỡng cho kẻ nghèo đói... Có một lần, dù lâm bệnh, ông vẫn tiếp tục rao giảng dưới cơn mưa, miệng không ngừng thốt lên: "Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa".
Nhà thần học Wiliam Barclay đã trích dẫn những lời đầy sắc bén của Kagawa như sau: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Người hiện diện giữa những kẻ ăn xin. Người nằm chung với những ai bệnh hoạn. Người đứng về phía những kẻ thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa hãy đến thăm tù ngục trước khi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi dự lễ, hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh".
****
Người thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay là một con người đạo đức. Anh đã thưa với Ðức Giêsu: "Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ" (Mc.10,20). Người đã chăm chú nhìn anh và đem lòng thương mến. Người mời gọi anh tiến thêm một bước nữa: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta" (Mc.10,21) Trong khi người tín hữu Nhật Bản Kagawa mau mắn, vui tươi thực hiện ngay Lời Chúa thì người thanh niên lại sụ nét mặt, buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Quả thật: "Ðồng tiền đi liền khúc ruột". Có thể nói: "Tiền đã thắng tình". Lòng ham mê của cải đã thắng tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Lòng tham đã bóp nghẹt con tim. Tình yêu của anh chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh làm điều nên làm và phải làm. Thánh Phaolô cũng có cảm nghiệm ấy khi ngài viết: "Ðiều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm". (Rm.7,16). Ngài cho đó là tội lỗi trong ta đã hành động, và chỉ có tin tưởng vào Ðức Kitô mới giải thoát ta khỏi tình trạng ù lì đó.
Tình yêu phát sinh sức mạnh. Thánh Augustinô quả quyết: "Cứ yêu rồi làm điều gì mình muốn". Tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì đó cụ thể cho anh em, một cái gì đó anh em đang thực sự mong đợi. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại làm ngơ trước nhu cầu cấp bách của anh em.
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (Mc.10,25).
Ðây là một kiểu nói Á Ðông, diễn tả một việc làm rất khó. Ðức Giêsu đã từng tham dự những bữa tiệc sang trọng của người biệt phái giàu có, từng ăn uống tại nhà những người thu thuế lắm tiền, từng chịu ơn những phụ nữ nhân đức nhiều của. Vậy Người chỉ lên án những ai ham mê của cải, coi đồng tiền là chúa tể, làm nô lệ cho nó, để không dám mở tay ra với anh em và quảng đại với công việc của Thiên Chúa.
****
Lạy Chúa,
Có những lần lẽ ra phải cứu giúp người khác, nhưng vì ích kỷ, nên chúng con đã không làm.
Có những lần lẽ ra phải hy sinh cho anh em, nhưng vì sợ phiền hà, nên chúng con đã làm ngơ.
Có những lần lẽ ra phải bỏ tiền trợ giúp một ai đó, nhưng vì so đo tính toán, nên chúng con lại thôi.
Xin tha thứ cho chúng con, và xin đổ tràn tình yêu Chúa vào lòng chúng con, để chúng con có đủ can đảm bán tất cả những gì mình có mà mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Amen.
(Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
3. Chuyện minh họa
a/ Ðạo một mắt
Bác sĩ A.J. Gordon kể: ngày nọ, có một ông nhà giầu nhưng keo kiệt đến xin chữa mắt. Sau khi khám nghiệm, bác sĩ cho biết phải chữa cả hai mắt, nếu không có nguy cơ bị mù. Ông hỏi:
- Nhưng giá bao nhiêu?
- Chữa mỗi mắt là 100 đô.
Ông nhà giầu phân vân giữa tiền bạc và mù loà. Rồi ông nói với bác sĩ: "Tôi chỉ chữa một mắt thôi, vì một mắt cũng đủ thấy tiền và đếm tiền. Lại đỡ tốn!"
Nhiều người vẫn cầu nguyện: "Xin mở mắt con để thấy kì công của Chúa..." Nhưng xem ra nhiều Kitô-hữu chỉ muốn Chúa mở cho mình một mắt để thấy công trình của Chúa mà thôi, một mắt còn phải để mà trông coi gia sản!
b/ Những thứ tiền không mua được
George Horace Lorimer, chủ bút tờ Saturday Evening Post trong nhiều năm, có lần viết: "Có tiền và có những cái mua bằng tiền là tốt. Nhưng biết dùng tiền và đừng để mất những thứ tiền không mua được còn tốt hơn."
Có thể kể những thứ sau đây tiền không mua được:
Tiền không mua được tình bạn chân thực.
Tiền không mua được lương tâm trong sạch.
Tiền không mua được niềm vui mạnh khoẻ.
c/ Ðổi tiền
Ðến nước khác, việc đầu tiên mà du khách phải làm là đổi tiền của mình thành tiền đang lưu hành tại nước đó. Tiền của ta trên trái đất chẳng có giá trị gì trên trời, nếu nó không đổi thành việc lành. Ðó là ý nghĩa Lời Chúa nói với chàng thanh niên giầu có: cho đi gia sản của anh để mua Nước Trời.
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, Ðức Giêsu đã có nhận xét rằng: những người có của cải mà vào được nước Thiên Chúa, thật khó biết bao. Tin tưởng vào trợ giúp của Thiên Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:
1. Xin cho mọi thành phần trong Hội thánh đừng để mình bị tiền bạc và giàu sang lôi cuốn / mà bỏ quên nhiệm vụ Tin mừng hóa mọi người nhất là những người nghèo.
2. Xin cho các nhà cầm quyền trong xã hội / biết dùng tiền của do dân chúng đóng góp / để ưu tiên lo nâng cao đời sống cho phần đa số là dân nghèo.
3. Xin cho những người đang lo âu hằng ngày vì phải sống trong nghèo khó túng thiếu / biết làm ăn sinh sống lương thiện / và gặp được người an ủi giúp đỡ.
4. Xin cho mọi người trong họ đạo chúng ta, dù giàu có hay không được giàu có / cũng luôn sẵn sàng chia sẻ ít nhiều cho những người cần đến sự giúp đỡ của mình.
Chủ tế: Lạy Chúa, chúng con biết rằng sống đúng theo Lời Chúa dạy là rất khó, nhưng tin tưởng rằng nếu loài người không thể được, thì Chúa lại làm được mọi sự: xin Chúa giúp chúng con luôn sống theo tinh thần nghèo khó của Tin mừng. Chúng con cầu xin nhờ Ðức Giêsu Kitô...
VI. Trong Thánh lễ
- Trước kinh Lạy Cha: Khi Ðức Giêsu dạy chúng ta xin cho có lương thực hằng ngày, điều Ngài nhắm tới không phải là chữ "lương thực", mà là chữ "hằng ngày". Nghĩa là chúng ta không xin lương thực cho bằng xin có tâm tình phó thác để Chúa lo cho cuộc sống vật chất của chúng ta.
- Sau Kinh Lạy Cha: "Lạy Cha, xin cứu chúng con khỏi mọi sự dữ, xin giải thoát chúng con khỏi tính quá ham mê tiền bạc của cải đến nỗi sao lãng bổn phận với Chúa và với anh chị em..."
VII. Giải tán
Chúng ta sắp trở về với cuộc sống bình thường. Mặc dù chúng ta phải làm lụng vất vả để kiếm tiền lo cho gia đình, tuy nhiên chúng ta hãy nhớ Lời Chúa dạy hôm nay, đừng để đồng tiền làm mê muội lương tâm chúng ta khiến chúng ta bị mất hạnh phúc Nước Trời.
8.Ba cái nhìn nói lên ba thái độ của Chúa Giêsu--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Bài Phúc Âm chúng ta vừa nghe là một trong những bài gây nhiều ấn tượng nhất trong Tân Ước. Vì thời giờ có hạn cho nên tôi chỉ xin được gợi lên một vài hình ảnh để chúng ta cùng suy nghĩ. Với bài Phúc Âm hôm nay thánh Marcô ghi lại cho chúng ta 3 cái nhìn của Chúa Giêsu. Ba cái nhìn nói lên ba thái độ của Ngài.
1. Cái Nhìn Thứ Nhất Là Cái Nhìn Đầy Yêu Thương.
Chúa dành cái nhìn này cho người người thanh niên đến với Chúa. Nhưng anh ta là một con người như thế nào?- Là một con người có địa vị - có thế lực - và nhất là anh ta có nhiều của cải tiền bạc.
Một con người như thế đối với nhiều người thì có lẽ đã là quá đủ. Nhưng đối với người thanh niên này thì chưa đủ. Anh ta còn muốn một cái gì hơn thế nữa. Chính vì thế mà anh ta mới tìm đến với Chúa.
Đến với Chúa anh ta tỏ ra một thái độ rất khiêm nhường. Phúc Âm ghi rõ: anh "quì" xuống trước mặt Chúa. Cách anh xưng hô cũng nói lên điều đó: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời"
Chúa nhẹ nhàng kéo anh về với quá khứ, một quá khứ có lẽ chính Chúa cũng đã thấy là tốt đẹp rồi. Chúng ta thấy ở đây Chúa không đả động gì đến bổn phận của con người đối với Chúa. Chúa chỉ đề cập đến những gì mà giới răn Chúa đòi buộc trong mối tương quan giữa những con người với nhau.
Phải nhận rằng trong mối tương quan giữa người với người thì người thanh niên này đã sống thật tốt: "Lạy Thầy, những điều ấy tôi đã giữ từ thuở bé"
Phúc Âm ghi: Chúa Giêsu chăm chú nhìn người ấy và đem lòng yêu thương.
Vâng! Chúa chăm chú nhìn người ấy và đem lòng yêu thương. Một thái độ hết sức tốt đẹp.
2. Cái Nhìn Thứ Hai Là Cái Nhìn Cảnh Giác.
Sau khi người thanh niên giàu có bỏ đi, Chúa Giêsu nhìn chung quanh (circumspiciens = look around) và nói với các môn đệ: "Người giàu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao" và để tăng thêm sức mạnh cho ý nghĩa những lời vừa nói, Chúa nói thêm: "Thầy bảo thật các con, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên đàng" .
Chúng ta không có mặt lúc Chúa nói những lời như thế này. Chúng ta không thấy hết được sự ngỡ ngàng đến phát sợ của các môn đệ. Đây là những lời cảnh cáo hết sức nghiêm trọng Chúa đưa ra để dạy dỗ những môn đệ của Người. Câu truyện vừa mới xảy ra là một bằng chứng rất cụ thể về sự nguy hiểm của cuộc sống khi mà người ta đặt tiền bạc lên trên tất cả… cả sự sống đời đời.
Chúng ta hãy nhớ lại những lời Chúa kêu gọi người thanh niên: "Anh chỉ còn thiếu có một điều. Hãy về bán tất cả những gì anh có, phân phát cho người nghèo khó… anh sẽ có một kho báu ở trên trời… rồi đến mà theo ta."
Anh đã không chấp nhận điều kiện cho nên anh đã không đạt tới mục đích. Cơ hội để trở thành môn đệ của Chúa đã ở ngay tầm tay nhưng anh đã để cho nó vuột mất. Lý do rất rõ rệt là bởi vì anh có nhiều của cải quá.
Của cải đáng lý ra phải là một trợ lực để giúp con người thăng tiến thì ngược lại nó lại trở thành một trở lực cản bước tiến của con người. Đó là mối nguy hiểm mà Chúa muốn cảnh giác các môn đệ của Ngài. Người ta dễ biến tiền bạc thành mục đích hơn là biết dùng nó như một phương tiện. Hoàn cảnh ngày xưa đã là như thế… ngày nay sự thế lại càng đúng hơn.
3. Cuối Cùng Là Cái Nhìn Có Tính Cách Quyết Đáp.
Sau khi Chúa mạnh mẽ cảnh giác về mối nguy cơ do tiền bạc đem lại và cũng như những khó khăn trên con đường vào nước trời thì các môn đệ xem như không còn kiên nhẫn thêm được nữa. Họ đã phản ứng và phản ứng của họ thật rõ rệt: "Như vậy thì ai sẽ được cứu độ". Phúc Âm ghi tiếp: Chúa Giêsu nhìn thẳng, một cái nhìn hướng thẳng vào những đối tượng được chọn lựa (look at) Chúa nhìn thẳng vào các môn đệ, một cái nhìn trực diện vào những đối tượng Chúa muốn dạy cho một bài học nhưng đây cũng là một cái nhìn hoàn toàn thông cảm trước lòng tin tưởng còn yếu kém của các ông và rồi Chúa nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa". Qua lời những lời đó chẳng cần nói chúng ta cũng thừa biết Chúa muốn nói đến điều gì rồi: vấn đề ơn thánh… ơn của Chúa.
Lời quả quyết của Chúa hẳn phải làm cho các môn đệ và cả chúng ta phải suy nghĩ. Làm gì có truyện con lạc đà to lớn cồng kềnh lại có thể chui qua lỗ kim. Vậy thì việc một con người vào nước Thiên Chúa cũng tương tự như thế. Tự sức của con người thì họ chẳng có thể làm được việc gì… nhất nữa việc đó lại là việc có liên quan đến vận mạng đời đời của con người. Như vậy vấn đề còn lại là ơn của Chúa và việc con người có biết hợp tác với ơn Chúa hay không .
Người thanh niên giàu có đến với Chúa để xin Ngài chỉ cho anh một con đường để anh có thể có được sự sống đời đời. Chúa đã mở ra cho anh ta một con đường thế nhưng anh đã từ chối. Anh đã làm mất đi một cơ hội để anh có thể trở thành những con người được lưu danh muôn thuở.
Ngược lại với người thanh niên này là thái độ quảng đại của các tông đồ. Sau khi người thanh niên bỏ đi Phêrô đại diện cho anh em thưa với Chúa: "Lạy Thầy chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”
Thực ra cái mà Phêrô gọi là "mọi sự" đối với Chúa cũng chẳng là bao thế nhưng ở đây chúng ta thấy Chúa đã tỏ ra thật quảng đại. Charles Erdman khi chú giải về đoạn Phúc Âm này đã đưa ra một lời nhận định rất hay như sau: "Chính sự thỏa mãn tràn ứ trong tâm hồn của những người theo Chúa đã là phần thưởng gấp trăm gấp ngàn lần những cái mà họ từ bỏ" và sau đó Chúa còn hứa một phần thưởng rất to lớn hơn gấp bội lần những phần thưởng ở đời này đó là sự sống đời đời… điều mà mọi người ở mọi thời đều mong ước.
Để kết thúc tôi xin được kể một câu truyện vui.
Một Linh mục nọ qua đời và được đưa đến trước mặt thánh Phêrô để được Ngài thẩm vấn:
- Ở dưới thế cha làm được điều gì nào?
- Dạ thưa Thánh cả, con xây được một ngôi thánh đường rộng lớn.
Thánh nhân lấy bút cho một điểm rồi Ngài hỏi tiếp:
- Cha còn làm được gì nữa?
- Dạ con còn xây được một ngôi trường cho 1.000 học sinh.
Thánh Phêrô cho thêm được một điểm nữa.
- Và còn gì nữa?
Linh mục bắt đầu suy nghĩ rồi trả lời:
- Dạ con làm rất nhiều công tác xã hội và từ thiện.
Ngài nhìn rồi cho thêm một điểm.
- Còn gì nữa? Ngài hỏi tiếp.
- Dạ thưa Thánh cả… bao nhiêu điểm thì được vào Thiên đàng?
Thánh nhân vui vẻ trả lời: 1000 điểm.
Nghe nói thế linh mục cảm thấy chột dạ… tự nghĩ trong lòng: Không biết làm sao cho đủ được 1000 điểm bây giờ… Rồi linh mục bắt đầu cảm thấy lo lắng không còn tự tin như trước nữa. Đang lúc đó thì Thánh Phêrô lại muốn được biết kết quả ngay nên Ngài hối:
- Cha còn làm được điều gì nữa… cứ kể hết đi!
Với một giọng đầy lòng khiêm tốn cộng một chút lo sợ, linh mục thưa:
- Thưa thánh cả, NHỜ ƠN CHÚA con còn làm thêm được ít việc nho nhỏ nữa.
Vừa nghe xong thánh Phêrô lấy bút ghi ngay: 1000 điểm. Rồi Ngài vui vẻ nói với linh mục:
- Thế là cha đã được 1003 điểm. Cha dư điểm vào Thiên đàng rồi đấy… mời cha vào.
Vâng tất cả là nhờ ơn của Chúa.
9.Điều đáng khao khát tìm kiếm--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?
Anh nhà giầu này rất tốt. Tuy có nhiều tiền nhưng anh ta còn muốn cái gì hơn nữa: sự sống đời đời. Anh ta không chỉ muốn “được” ở đời này, nhưng còn muốn “được” cả ở đời sau. Có lẽ anh ta đã thao thức về “sự sống đời đời” lâu rồi, nhưng không biết hỏi ai, không biết làm gì để chắc chắn được sống đời đời.
Đức Yêsu là người đáng tin để anh ta có thể hỏi điều này: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Đức Yêsu trả lời: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ kính cha mẹ”. Có lẽ anh ta thầm nghĩ: tưởng Thày dạy điều gì cao siêu và mới lạ, chứ những điều này qúa cũ và ai cũng biết, chỉ là mười giới răn của Thiên Chúa truyền qua Môsê lâu rồi. Anh ta đáp lại: “Thưa Thầy tất cả những điều đó tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”.
Tại sao buồn?
“Anh chỉ thiếu một điều, hãy đi bán tất cả những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi hãy đến mà theo tôi”. Nếu đi theo Đức Yêsu, sẽ trở thành kẻ không cửa không nhà: “chồn cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ tựa đầu” (Lc.9, 58). Đi theo Đức Yêsu, sẽ phải bữa đói bữa no, có thể sẽ bị đói như các tông đồ đã từng bị đói và phải bứt gié lúa ăn khi đang trên đường (Mt.12, 1).
Nghe lời nói của Đức Yêsu, anh ta buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của. Anh ta không thể bỏ của cải, dù nếu làm như vậy chắc chắn anh sẽ được sự sống đời đời.
Câu trả lời của Đức Yêsu, cho anh ta biết anh ta là ai, anh ta tốt đến mức độ nào? Lời của Đức Yêsu giúp con người nhận biết chính mình. “Lời của Thiên Chúa sống động sắc bén hơn gươm hai lưỡi, phê phán tâm tình cũng như tư tưởng, phơi bày trần trụi lòng dạ con người” (Dt.4, 12-13).
Biết ý Chúa mà không làm, sẽ làm con người ủ dột, buồn phiền, không triển nở. Không phải vì Thiên Chúa phạt, nhưng vì làm theo điều Chúa muốn, làm theo tiếng Chúa gọi, là điều tốt nhất cho mình, nên sẽ làm mình triển nở và hạnh phúc. Còn với những người không làm theo tiếng Chúa, không đáp lại tiếng Chúa gọi, thì Chúa vẫn thương yêu tha thứ; Thiên Chúa vẫn luôn tìm làm những điều tốt nhất cho họ ngay trong hoàn cảnh hiện tại của họ. Tình thương của Thiên Chúa đối với con người vượt trên sức hiểu biết của con người.
Bỏ mọi sự để theo Chúa mới là giá trị
Các tông đồ không thể hiểu, không thể tin rằng “những người giầu có khó vào nước Trời”. Như thể Đức Yêsu nói điều đó để chữa mình, để biện minh cho sự thất bại của mình: “gọi mà người ta không theo”. Đức Yêsu lập lại và còn nói rõ hơn: “lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào nước Thiên Chúa”. Ấy thế mà Thiên Chúa vẫn luôn làm những điều con người không thể làm được: người giầu vẫn được vào nước Thiên Chúa. Sở dĩ vậy vì Chúa vẫn thương người giầu như Ngài thương người nghèo.
Những ai dám bỏ tất cả mà theo Chúa, sẽ được cả đời sau lẫn đời này: “sẽ được gấp trăm về nhà cửa, anh em chị em....cùng với bắt bớ”. Bạn có dám tin điều này không? Bị bắt bớ cũng là điều “được” đối với Đức Yêsu!
Xin cho những ai được Chúa mời gọi, can đảm và quảng đại đáp trả tiếng Ngài. Lời mời gọi này thế gian không thể nào hiểu nổi. Những người “đáp trả tiếng Chúa gọi” vẫn là những người điên theo tiêu chuẩn thế gian.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Đâu là những điều lợi và hại của người có nhiều tiền của?
2. Đâu là những điều lợi và bất lợi của người nghèo? (nghèo không đồng nghĩa với bần cùng)
3. Một người luôn bận tâm tìm kiếm tiền bạc, liệu có thể dễ dàng cưỡng lại những cám dỗ của tiền bạc không? Xin kể kinh nghiệm hoặc những điều được nghe?
4. Bạn ao ước tìm kiếm gì trên đời nhất?
5. Điều bạn ao ước có thể đạt được không? Xin bạn chia sẻ tiến trình bạn sẽ theo để đạt được điều đó?
(Chỉ cần chia sẻ câu 1, 3 và 4 cũng đủ).
10.Người giầu khó vào Nước Trời--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.
Hơn gì nhau giữa một người có 30 tỷ dollars và một người có 1 tỷ dollars, khi mỗi người đều chỉ có một bụng để ăn, chỉ có 24 giờ để ăn chơi, cũng không thể ngủ quá 24 giờ một ngày, cũng chẳng thể sống quá 100 năm! “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Người hỏi Đức Giêsu câu này quả là người có đầu óc, và cũng có thể được coi là người khôn ngoan.
I. Khôn ngoan qúy hơn vàng bạc
Đã có thời người Do Thái tự hào với lề luật của mình: thập giới là 10 lời Thiên Chúa ban cho dân, là những lời giúp dân thấy được điều hay lẽ phải để theo, điều dữ phải tránh. Thập giới đã mang lại cho dân bình an. Quả vậy, ba giới răn đầu tiên về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp con người không tin vào bất cứ thần linh nào khác; và điều này giúp con người được tự do không phải sợ hãi bất cứ uy quyền nào, vì Thiên Chúa là Đấng tối cao trổi vượt tất cả thần thánh. Thờ phượng Ngài, được Ngài yêu thương và bảo vệ, thì còn sợ ai nữa?
Tuân giữ ba giới răn về bổn phận đối với Thiên Chúa, giúp người ta sống an bình. Những giới răn tiếp sau, từ giới răn thứ tư đến thứ mười, giúp người ta đối xử công bình với tha nhân: bảo vệ quyền lợi của tha nhân, cũng là bảo vệ quyền lợi của chính mình, cũng là bảo vệ quyền lợi của tất cả mọi người. Con người có một số quyền căn bản mà người khác không được phép tước đoạt, cho dù nhân danh bất cứ điều gì chăng nữa, vì nó gắn liền với phẩm giá con người. Tôn trọng quyền lợi của người khác, và người khác tôn trọng quyền lợi của mình, làm cho xã hội an ninh, và con người sống an bình. Khôn ngoan là tuân giữ luật Thiên Chúa.
Đức Giêsu xuất hiện như một giá trị. Tin Mừng cho thấy người giầu có này truy tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp; anh ta mong muốn điều trường tồn tuy dù anh ta giầu sang nhiều của. Anh ta có mong ước tốt lành; điều này đã làm Đức Giêsu rung động. Ngài nhìn anh đem lòng yêu mến! Ngài nói: anh chỉ thiếu một điều. Đi và bán tất cả những gì anh có mà cho kẻ nghèo, rồi đến theo tôi. Đi theo Đức Giêsu, là điều khôn ngoan và giá trị hơn cả giầu sang.
II. Bán hết của cải mà cho người nghèo
Để có thể đi theo Đức Giêsu, phải bán những gì mình có mà cho kẻ nghèo. Nếu không dứt khoát đi theo Chúa bằng bán tất cả, thì e rằng sẽ quay đầu trở lại. Nếu không bán tất cả, khi gặp cảnh túng nghèo không có gì để ăn, phải tuốt lúa dọc đường mà ăn cho đỡ đói, anh ta sẽ quay về. Đức Giêsu cũng có lúc đói lúc khát, cũng mong cây vả bên đường cho một trái để ăn mà cũng không có. Bao nhiêu lần trong đời, Đức Giêsu đã ngủ ngoài trời. Đã bao nhiêu lần Đức Giêsu và các tông đồ đã qua đêm ở trên vườn dầu! Nếu không từ bỏ tất cả, nếu không từ bỏ tiền của, làm sao có thể theo Đức Giêsu cho được! Đức Giêsu đã sống nghèo, vì Ngài thấy giá trị của cái nghèo. Ngài cũng muốn người khác chọn lựa như Ngài. Hãy bán hết những gì anh có mà cho kẻ khó, anh sẽ có một kho tàng trên trời, rồi đến theo tôi.
Theo Đức Giêsu là một điều gì quý hơn cả vàng bạc, mà anh thanh niên giầu có và nhiều người không hiểu được. Người ta thích tiền, nghĩ rằng tiền của có thể mang lại cho người ta nhiều điều nếu không muốn nói là tất cả: “đồng tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, sức khỏe của tuổi già, cái đà của danh vọng, cái lọng để che thân, cán cân của công lý”. Đức Giêsu không nghĩ như vậy, Ngài lại cho rằng tiền của làm người ta khó vào Nước Trời.
Với Đức Giêsu, điều gì quý hơn tiền của? Tiền của, là điều người ta sở hữu, điều người ta có; còn nghèo là tình trạng một người không có tiền của, không coi tiền của là quan trọng. Không có gì, cũng có thể là tình trạng của một người tự do. Một người đeo đầy vàng trên tay, và một người không có gì trên tay, bàn tay nào thanh thoát và nhanh nhẹn hơn, bàn tay nào tự do hơn? Một người có của, coi trọng tiền của, phải lo giữ tiền, bất quá cũng “thủ tài chi lỗ”. Một người nghèo có cái thú và tự do của người nghèo mà người giầu không thể có được. Nếu người giầu luôn có những người ham tiền mà nghèo đeo bám để xin xỏ, cách này hay cách khác, thì người nghèo quả thật là người có cái thú tự do mà người giầu không có được.
III. Hãy đến theo tôi
Theo Đức Giêsu, là điều quý: không chỉ là không có gì như một lối sống thanh thoát, mà chính yếu là trở thành một thực tại cao quý hơn. Sống theo Đức Giêsu là một giá trị. Các tông đồ khi theo Chúa vẫn còn ham danh lợi, còn tranh nhau ngồi bên phải bên trái, tranh nhau “làm lớn” ngay khi thầy mới báo tin Ngài sẽ bị bắt bị giết; nhưng các tông đồ đã ra khác vì các ngài được diễm phúc sống với Đức Giêsu, sống bên một người thanh thoát với tất cả, tự do với tất cả, và phó thác tất cả cho Thiên Chúa.
Các tông đồ nhận ra thầy mình thực sự là ai, một khi các ông biết Đức Giêsu đã thực sự sống lại. Ngài là Đấng rất đặc biệt của Thiên Chúa, người thuộc hoàn toàn về Thiên Chúa, người được siêu tôn ngự bên hữu Thiên Chúa. Ngôn từ diễn tả về chân tướng của Đức Giêsu thời các tông đồ chưa rõ ràng; từ ngữ thông dụng để chỉ một người rất đặc biệt là tiên tri, Đấng Kitô (Đấng được xức dầu); cũng có một vài từ ngữ đặc biệt khác như con người, con người ngự bên hữu Thiên Chúa, người tôi tớ của Thiên Chúa, con chí ái của Thiên Chúa; và mãi trễ sau, công đồng chung Nicea (325) dùng từ ngữ triết học diễn tả chân tướng của Đức Giêsu: đồng bản tính với Thiên Chúa: “Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, ánh sáng thật bởi ánh sáng thật, được sinh ra mà không phải tạo thành, đồng bản tính với Đức Chúa Cha, nhờ Người mà muôn vật được tạo thành”.
Thời Đức Giêsu đang tại thế, người ta khó hiểu tại sao Đức Giêsu lại đòi người nhà giầu này bỏ tất cả để theo Ngài, mặc dù thực tế các tông đồ cũng là những người đã bỏ tất cả mà theo Đức Giêsu. Với các tín hữu ngày nay, điều này dễ hiểu hơn khi người ta biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, Thiên Chúa làm người. Nếu Đức Giêsu thực là Người từ cõi trên, có nguồn gốc thần linh, thì việc đòi người ta bỏ tất cả để đi theo Ngài là điều có thể hiểu được. Các tông đồ cũng chỉ hiểu về chân tướng của Đức Giêsu khi Ngài đã từ cõi chết sống lại, khi các ngài đã được ơn Thánh Thần, và được dẫn vào sự thật trọn vẹn.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Tại sao con người của mọi thời đại ham thích có nhiều tiền của?
2. Tiền của quan trọng đến mức nào để giúp con người hạnh phúc?
3. Tại sao theo Đức Giêsu lại có thể giúp con người sống hạnh phúc?
11.Tiền của - Chia sẻ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Có một người giàu có kia thường đến xưng tội với thánh Phi-líp-phê Nê-ri. Ông có nhiều tiển của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng. Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò chuyện, ngài nhìn lên cây Thánh giá treo trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh giá rồi đề nghị với người đàn ông giàu có: "Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh giá không?". Ông đứng dậy giơ cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh giá. Bấy giờ thánh Phi-lip-phê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giàu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và sờ được Chúa Giêsu trên Thánh giá. Sau đó ngài nói với ông: "Để có thể nắm lấy được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải".
Câu truyện trên phần nào tương tự như câu truyện trong bài Tin Mừng. Một thanh niên giàu có đến hỏi Chúa Giêsu: làm sao vừa có được đời sống giàu sang sung sướng lại vừa được sống đời đời? Chúa thông cảm, nhìn anh một cách trìu mến, vì thấy anh là một thanh niên mà đã biết nghĩ đến đời sống trọn lành, đã biết lo lắng cho cuộc đời mai sau.
Sở dĩ anh hỏi Chúa Giêsu như vậy là vì anh muốn làm môn đệ của Chúa. Anh nghĩ anh đã giữ được sáu điều răn của Chúa rồi: không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Vậy anh còn thiếu điều gì nữa? Chúa bảo anh hãy về bán hết của cải, không phải để cất giấu dành dụm, nhưng là đem chia sẻ cho người nghèo. Đối với Chúa, đó là điều kiện cho riêng anh để được trọn lành và làm môn đệ của Ngài. Nhưng điều kiện này anh lại không chấp nhận được vì anh có nhiều của cải, nên anh buồn bã rút lui. Đại bàng muốn cất cánh lên mây xanh, nhưng đã bị xiềng xích. Của cải vật chất đã xiềng anh ta lại mất rồi. Rõ ràng giữa Chúa và của cải, giữa đời sống trọn lành và tiền của, anh đã chọn của cải, chọn tiền của.
Qua trường hợp anh thanh niên này, Chúa Giêsu nghĩ tới tất cả những người bị xiềng xích như anh, nên Chúa nói với các môn đệ: "Các con ơi, vào được nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa". Chúa nói đến nỗi khó chung của mọi người để vào nước Thiên Chúa rồi mới nói đến nỗi khó đặc biệt của người giàu. Đây chỉ là một kiểu nói sánh ví thôi, để chỉ một việc rất khó thực hiện, như những câu nói của Việt nam: "Lấy đá vá trời", "Tát bể đông cũng cạn". Đây là kiểu nói nhấn mạnh để in sâu vào tâm trí người nghe và làm nổi bật nỗi khó của người giàu. Tại sao có nhiều của cải, có nhiều tiền của lại khó vào nước trời?
Ai ai cũng công nhận rằng: của cải cần thiết cho đời sống con người. Của cải sẽ đem lại cho con người nhiều hạnh phúc hơn. Cả tây phương lẫn đông phương đều có chung quan niệm: bao tử đi trước, đầu óc theo sau; có thực mới vực được đạo; hoặc cần phải ăn trước đã, kế đến mới suy tư, triết lý. Tiền của cần thiết như thế nên Chúa Giêsu không bao giờ lên án tiền của hay người có tiền của, tức là người giàu. Ngài biết con người cần phải có tiền của để sống xứng đáng với cuộc sống của mình. Ngài biết "đồng liền liền khúc ruột", cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa. Sự túng thiều, bần cùng là một sự dữ, loài người không ai muốn, thì Chúa cũng không muốn con cái Ngài phải vướng mắc vào. Tuy nhiên, tiền bạc của cải vẫn luôn là con dao hai lưỡi: được sử dụng như một phương tiện, tiền của sẽ giúp cho chúng ta sống đúng với phẩm giá của mình hơn. Trái lại, khi chúng ta chạy theo tiền của như cứu cánh cho cuộc đời mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, nhất là những giá trị thiêng liêng, tinh thần thì nó sẽ làm cho chúng ta bị phá sản về vật chất cũng như tinh thần. Sự ham mê tiền của dễ làm cho người ta ra đen bạc, khó vào nước trời.
Nói rõ hơn, tiền của tự nó tốt và giúp ích cho con người. Nó chỉ xấu và có hại khi đem sử dụng vào những mục tiêu xấu. Đúng vậy, vì tiền của, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời. Vì tiền của, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác. Vì tiền của, người ta có thể chối bỏ niềm tin. Vì tiền của, người ta có thể phớt lờ luôn cả tiếng lương tâm. Vì tiền của, người ta có thể làm những điều bất chính, tội lỗi... Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào. Và người nào ham mê tiền của đến quên cả Chúa và quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là người khó vào nước trời.
Anh thanh niên giàu có đã từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Anh không dám từ bỏ mọi sự để đi theo làm môn đệ Chúa. Tin Mừng lại cho biết: các tông đồ chính là những người đã đáp lại lời mời gọi ấy. Ông Phêrô đã nói lên điều đó như một niềm hãnh diện: "Còn chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Theo bản văn Tin Mừng Mác-cô thì ông Phêrô chỉ nêu lên thực trạng đó thôi, ông không đòi hỏi gì và cũng không xin xỏ gì. Nhưng trong Tin Mừng Mát-thêu thì lại cho biết ý của ông Phêrô muốn hỏi: "Vậy chúng con sẽ được cái gì?". Vì thế, nhân dịp này Chúa đã giải đáp một thắc mắc ngấm ngầm trong lòng các môn đệ. Việc các ông tranh giành ngôi thứ với nhau chứng tỏ các ông vẫn băn khoăn về chuyện các ông sẽ được cái gì. Không riêng gì ông Phêrô hay các môn đệ mà người tín hữu nào cũng có lúc thắc mắc như thế: chúng ta đi đạo, chúng ta tin Chúa, chúng ta sẽ được cái gì?
Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cữu mai sau nữa. Một phương thế Chúa dạy là: hãy chia sẻ. Chúa không đòi chúng ta phải từ bỏ tất cả để theo Chúa, nhưng Chúa đòi chúng ta phải biết chia sẻ: chúng ta chia sẻ cho người khác một, Chúa sẽ trả lại cho chúng ta gấp nhiều lần hơn. Bởi vì một đồng tiền kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi. Một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa tỏa lan. Một vết dầu thả lỏng là một vết dầu loang. Đôi môi có hé mở mới thu nhận được nhiều nụ cười. Bàn tay có mở rộng trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng. Về mặt thiêng liêng cũng thế, chúng ta cho đi chúng ta sẽ được nhận lại. Chúng ta càng chia sẻ, chúng ta càng nhận lãnh trở lại nhiều hơn, nhất là Chúa sẻ trả lại nhiều hơn cho chúng ta ở đời sau.
12.Kho báu trên trời--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc
Kagawa là một tín hữu Kitô Nhật Bản, khi nghe Lời Chúa phán: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", ông liền bán căn nhà tiện nghi sang trọng của mình, đến khu nhà ổ chuột tồi tàn vùng Tokyo. Nơi đây ông chia sẻ của cải cho bất cứ ai cần trợ giúp, ông đi thăm nuôi tù nhân, an ủi giúp đỡ người bệnh, cấp dưỡng cho kẻ nghèo đói... Có một lần, dù lâm bệnh, ông vẫn tiếp tục rao giảng dưới cơn mưa, miệng không ngừng thốt lên: "Thiên Chúa là tình yêu. Ở đâu có tình yêu ở đấy có Thiên Chúa".
Nhà thần học Wiliam Barclay đã trích dẫn những lời đầy sắc bén của Kagawa như sau: "Chúa ở trong tâm hồn những người hèn mọn nhất. Người hiện diện giữa những kẻ ăn xin. Người nằm chung với những ai bệnh hoạn. Người đứng về phía những kẻ thất nghiệp. Vì thế, ai muốn gặp Thiên Chúa hãy đến thăm tù ngục trước khi tới đền thờ, hãy đến thăm bệnh viện trước khi dự lễ, hãy giúp đỡ người nghèo khổ trước khi đọc Kinh Thánh".
****
Người thanh niên trong bài Tin mừng hôm nay là một con người đạo đức. Anh đã thưa với Ðức Giêsu: "Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ" (Mc.10,20). Người đã chăm chú nhìn anh và đem lòng thương mến. Người mời gọi anh tiến thêm một bước nữa: "Hãy đem bán hết gia tài, bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta" (Mc.10,21) Trong khi người tín hữu Nhật Bản Kagawa mau mắn, vui tươi thực hiện ngay Lời Chúa thì người thanh niên lại sụ nét mặt, buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều của cải.
Quả thật: "Ðồng tiền đi liền khúc ruột". Có thể nói: "Tiền đã thắng tình". Lòng ham mê của cải đã thắng tình yêu dành cho Thiên Chúa và tha nhân. Lòng tham đã bóp nghẹt con tim. Tình yêu của anh chưa đủ mạnh để thúc đẩy anh làm điều nên làm và phải làm. Thánh Phaolô cũng có cảm nghiệm ấy khi ngài viết: "Ðiều tôi muốn, thì tôi không làm, nhưng điều tôi ghét thì tôi lại cứ làm". (Rm.7,16). Ngài cho đó là tội lỗi trong ta đã hành động, và chỉ có tin tưởng vào Ðức Kitô mới giải thoát ta khỏi tình trạng ù lì đó.
Tình yêu phát sinh sức mạnh. Thánh Augustinô quả quyết: "Cứ yêu rồi làm điều gì mình muốn". Tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì đó cụ thể cho anh em, một cái gì đó anh em đang thực sự mong đợi. Chúng ta không thể nói yêu mến Chúa mà lại làm ngơ trước nhu cầu cấp bách của anh em.
"Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (Mc.10,25).
Ðây là một kiểu nói Á Ðông, diễn tả một việc làm rất khó. Ðức Giêsu đã từng tham dự những bữa tiệc sang trọng của người biệt phái giàu có, từng ăn uống tại nhà những người thu thuế lắm tiền, từng chịu ơn những phụ nữ nhân đức nhiều của. Vậy Người chỉ lên án những ai ham mê của cải, coi đồng tiền là chúa tể, làm nô lệ cho nó, để không dám mở tay ra với anh em và quảng đại với công việc của Thiên Chúa.
****
Lạy Chúa
Có những lần lẽ ra phải cứu giúp người khác, nhưng vì ích kỷ, nên chúng con đã không làm.
Có những lần lẽ ra phải hy sinh cho anh em, nhưng vì sợ phiền hà, nên chúng con đã làm ngơ.
Có những lần lẽ ra phải bỏ tiền trợ giúp một ai đó, nhưng vì so đo tính toán, nên chúng con lại thôi.
Xin tha thứ cho chúng con, và xin đổ tràn tình yêu Chúa vào lòng chúng con, để chúng con có đủ can đảm bán tất cả những gì mình có mà mua được viên ngọc quý là Nước Trời. Amen.
13.Lựa chọn hai kho tàng--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe John Wesley giảng thuyết. John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: hôm ấy ông giảng về việc sử dụng tiền của. Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng; Phải ra công tích luỹ tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Đúng lắm! Rồi wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí tiêu xài quá đáng. Bác nông dân xuýt xoa: bài giảng tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm. Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra…
Anh chị em thân mến
Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay cũng thế. Anh muốn theo Chúa Giêsu để được sống đời đời. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu bảo: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi”. “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng thương tiếc, vì anh ta vốn là một người rất tốt. Anh đã tuân giữ các điều răn của Chúa từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta, nhưng đồng thời Ngài lại cho anh ta thấy rõ: Kitô Giáo không phải chỉ là việc tuân giữ các điều răn một cách tiêu cực: “Không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai…”. Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều. Chúa Giêsu nói thẳng với anh chàng giàu có: anh chưa bao giờ làm gì gây thiệt hại cho ai, vì anh có nhiều tiền của, có vợ đẹp con khôn, đâu cần phải đi ăn trộm, ăn cướp hay ngoại tình… nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai chưa? Anh đã dùng tiền của để cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người trần trụi ăn mặc, cho kẻ vô gia cư có nơi trú ngụ chưa? Chính khi nghe điều này, anh chàng giàu có kia đã nhận ra mình vẫn còn nhiều khiếm khuyết biết bao. Vì vậy, Chúa Giêsu mới thách thức anh: Nếu muốn theo Tôi, anh hãy thay đổi cách nhìn đi. Đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, chẳng hạn như không gây thiệt hại cho ai. Anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ những người nghèo đói. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau. Thách đố Chúa Giêsu đặt ra cho chàng thanh niên giàu có có thể tóm lược như sau: Anh có dám chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh có quan niệm bước theo Tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy sinh của cải của anh để được sống đời đời không? Anh chàng giàu có trả lời: Thưa Thầy, tôi cũng muốn theo Thầy lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi kia! Thế là chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc sử dụng của cải ngoài mục đích lo riêng cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.
Nhiều người trong chúng ta có lẽ cũng giống như chàng thanh niên giàu có kia. Chúng ta biết rõ mình có thể trở thành một Kitô hữu tốt hơn, nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để sống tích cực Tin Mừng của Chúa. Chúng ta đã tuân giữ các điều răn, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại đối với những người túng thiếu, trần trụi, đói khát. Vì việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy sinh đó là cần thiết để đem lại bình an và niềm vui trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của các điều răn: không hại người, không gian dối, không trộm cắp… Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại nàng, không nói dối, không xúc phạm đến nàng. Tình yêu khiến anh phải làm tích cực hơn như thế rất nhiều, vì nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những điều răn Chúa dạy, chúng ta chỉ là người “quen biết” Chúa chứ chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình yêu. Chúng ta chưa yêu Chúa và chưa yêu tha nhân.
Rất nhiều người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì đã được biết Chúa, tự mãn vì mình đã giữ các điều răn của Ngài từ thuở nhỏ, giống như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Đó là một điều rất đáng khen, vì Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì chúng ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước nữa, đó là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Chúa và cho anh em. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, cần đến sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta. Chúng ta không thể nói mình yêu Chúa mà lại làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì cụ thể để thoả mãn phần nào những nhu cầu thiết yếu của anh em. Và chúng ta cũng cần có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất.
Chàng thanh niên nghe Chúa Giêsu nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã buồn rầu bỏ đi, vì anh quá thiết tha với tiền của. Từ đó Chúa Giêsu đưa ra nhận định: “Người giàu có khó vào được Nước Trời”. “Khó vào” chứ không phải là không vào được, nếu không biết chia sẻ, giúp đỡ những người túng thiếu, nghèo đói, để được một kho tàng trên trời. Dĩ nhiên, tiền của cần cho cuộc sống, nhưng tiền của dễ làm cho con người trở nên mù quáng và ích kỷ. “Tiền của là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu”. Tiền của là đầy tớ đắc lực cho mọi người, nhưng khi chúng ta coi tiền của như một ông chủ, thì lúc đó nó sẽ trở thành ông vua thống trị với những luật lệ ác nghiệt của nó, nó hành hạ, sai khiến chúng ta như tên nô lệ. Vì thế, Chúa đã nói: “Không ai vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của” (Lc 16,13). Phải lựa chọn một.
Chúa Giêsu đã tỏ ra tuyệt đối trong đòi hỏi của Ngài: “Ai trong anh em không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Thầy” (Lc 14,33). Từ bỏ của cải không nhất thiết là từ bỏ quyền sở hữu. Từ bỏ đây, đối với đa số Kitô hữu là có của mà lòng không tham lam, không nô lệ cho tiền của. Có của mà biết dùng của để mua sắm kho tàng không bao giờ hư nát trên trời. Có của mà biết quan tâm đến nhu cầu của người khác, coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thộc trách nhiệm của mình. Đó phải là cách sống của tất cả những ai muốn thực sự là môn đệ của Chúa Kitô.
14.Sống siêu thoát để nên môn đệ thực sự của Đức Giêsu--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay tuy muốn nên hoàn thiện, và đã có thiện chí tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa từ nhỏ. Nhưng anh lại không đủ dũng cảm và lòng tín thác vào Chúa quan phòng để làm theo lời khuyên của Đức Giêsu là: Chia sẻ của cải cho người nghèo để biến nó thành kho báu ân sủng trên trời, rồi đi theo làm môn đệ của Người. Sau đó, trả lời cho Phê-rô về phần thưởng của môn đệ, Đức Giêsu hứa sẽ ban gấp trăm những điều họ đã tự nguyện từ bỏ. Người cũng tiên báo những khó khăn họ sẽ gặp phải trên đường truyền giáo và sau này sẽ được sự sống muôn đời!”.
CHÚ THÍCH:
- C 17-18: + Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến: Mác-cô chỉ nói trống là “có một người”, đang khi Tin Mừng Lu-ca nói rõ hơn là: “Có một thủ lãnh” (x. Lc 18,18), và Tin Mừng Mát-thêu nói là “một thanh niên” (x. Mt 19,20). + quì xuống trước mặt Người: Đây là thái độ biểu lộ lòng tôn kính đối với Đức Giêsu, mà người Do Thái quen làm đối với một Rab-bi họ kính trọng. + Thưa Thầy nhân lành: Khi gọi Đức Giêsu là “nhân lành”, anh thanh niên tỏ ý ngưỡng mộ tác phong của Người, thể hiện qua lời nói, thái độ và hành động của Người đối với các bệnh nhân và trẻ thơ... + tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?: sự sống đời đời (x. Đn 12,2) có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Cũng có thể coi đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47). Anh ta xin Đức Giêsu tư vấn giúp anh biết phải làm gì để được vào Nước Thiên Chúa mà Người rao giảng và thiết lập. + Sao anh nói tôi là nhân lành?: Về bản tính lòai người, Đức Giêsu khiêm tốn từ chối không nhận hai từ “nhân lành” mà chàng thanh niên khen tặng. + Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa: Người cho chàng thanh niên biết rằng: Sự nhân lành tuyệt đối chỉ có nơi một mình Thiên Chúa. Thiên Chúa vừa là mẫu mực, vừa là nguồn gốc của mọi điều thiện hảo. Thực ra, với tư cách là “Con Thiên Chúa”, Đức Giêsu cũng xứng đáng được gọi là “Đấng Nhân Lành” ngang bằng Thiên Chúa.
- C 19-20: + Hẳn anh biết các điều răn: “chớ giết người...”: Các điều này phần lớn được rút từ phần hai của Thập Giới (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), về những quan hệ giữa người với người. Nêu ra những giới răn này, Đức Giêsu muốn chàng thanh niên kiểm điểm đời sống về những điều cấm chứ chưa đề cập đến những bổn phận cần làm. + “Tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”: Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy anh có lòng thành thật, không phô trương tự mãn như người Pha-ri-sêu trong Đền Thờ (x. Lc 18,11-12). Qua câu n2y, anh thanh niên chỉ muốn hỏi rằng: Từ trước đến nay, tôi chưa làm thiệt hại cho ai điều gì. Vậy tôi cần làm gì thêm nữa để nên hoàn thiện? (x. Mt 19,20-21).
- C 21-22: + Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến: Người biểu lộ tình cảm đối với anh thanh niên đầy thiện chí này, + Anh chỉ thiếu có một điều: Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi:.Để nên trọn lành, ngoài việc giữ các giới răn như anh đã làm, Đức Giêsu khuyên anh làm ba việc này: Một là về bán gia sản để không còn bị lòng tham của cải ràng buộc; Hai là đem số tiền ấy chia sẻ cho người nghèo để biến nó trở thành kho báu thiêng liêng trên trời; Ba là quyết tâm đi theo làm môn đệ Đức Giêsu. + Anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải: Chàng thanh niên thất vọng chán nản bỏ đi, vì anh không thể từ bỏ lòng tham của cải thế gian như đòi hỏi của Đức Giêsu. Anh muốn nên trọn lành nhưng không muốn từ bỏ của cải vật chất. Nói cách khác: Anh ta yêu tiền bạc hơn quyết tâm muốn nên hoàn thiện.
- C 23-25: + Những người có của thì khó vào nước Thiên Chúa biết bao!”: Câu nói tỏ ý thương tiếc một tâm hồn tuy thiện chí, nhưng lại bị lòng ham mê tiền bạc trói buộc, đến nỗi không thể vươn cao lên đỉnh trọn lành! + Các môn đệ sững sờ: Các ông sững sờ kinh ngạc, vì lời dạy của Đức Giêsu khác hẳn suy nghĩ của các ông và người Do thái thời đó: Giàu có là một hồng ân do Thiên Chúa thưởng ban cho người công chính, như tác giả Thánh Vịnh 37 đã viết: “Từ nhỏ dại tới nay tôi già cả, chưa thấy người công chính bị bỏ rơi, hoặc dòng giống phải ăn mày thiên hạ. Ngày ngày họ thông cảm và cho mượn cho vay. Dòng giống mai sau hưởng phúc lành. Hãy làm lành lánh dữ, bạn sẽ được một nơi ở muôn đời. Bởi vì Chúa yêu thích điều chính trực, chẳng bỏ rơi những bậc hiếu trung...” (Tv 37,25-28). + “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”: Trước đây các nhà giảng thuyết và chú giải đã tìm ra một cái cửa nhỏ bên cạnh cổng lớn ở tường thành Giê-ru-sa-lem, mà một con lạc đà không thể đi qua, và một vài thủ bản Kinh Thánh đọc là “sợi dây thừng” (kamilos) thay vì “con lạc đà” (kamêlos), chúng ta phải công nhận đây là một kiểu nói ngoa ngữ (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42): Đức Giêsu dùng hình ảnh con lạc đà to lớn không thể chui lọt qua lỗ kim khâu nhỏ để dạy rằng: Người giàu có hay những kẻ tham lam dựa vào thế lực của đồng tiền sẽ không thể vào được Nước Thiên Chúa!
- C 26-27: + Thế thì ai có thể được cứu?: Nghe lời giải thích của Đức Giêsu, các môn đệ càng kinh ngạc và thất vọng hơn khi nghĩ đến bản thân các ông cũng tham lam tiền bạc, nên cũng khó vào Nước Thiên Chúa, nên đã thốt lên: “Thế thì ai có thể được cứu!?”. + “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa: “mọi sự đều có thể được”: Đức Giêsu cho thấy hiệu lực của ơn chúa: Những gì lòai người không thể vượt qua, thì lại chẳng là gì trước quyền năng của Thiên Chúa. Vì đối với Thiên Chúa “mọi sự đều có thể được” (x Lc 1,37).
- C 28-30: + Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!: Phê-rô kể ra những gian lao vất vả trên bước đường theo Thầy, để yêu cầu Thầy bù đắp phần thiệt thòi ấy. + Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng: Đức Giêsu hứa chắc rằng: những ai đã quảng đại từ bỏ của cải, tình cảm ruột thịt vì lòng mến Người và dấn thân đi loan báo Tin Mừng, thì sẽ được lại gấp trăm những gì đã dâng hiến. Họ sẽ có thêm một gia đình mới là Cộng Đoàn Giáo Hội, sẽ được quản lý các công trình lớn lao của Hội Thánh... và cuối cùng còn được hạnh phúc vui hưởng sự sống đời đời. + cùng với sự ngược đãi: Tin Mừng Mác-cô cũng tiên báo những đau khổ sỉ nhục mà các môn đệ phải chịu do các đầu mục Do Thái gây ra để cùng với Thầy đi con đường “Qua đau khổ vào vinh quang” (x. Mc 8,31).
CÂU HỎI: 1) Thái độ quì gối xuống trước mặt Đức Giêsu của chàng thanh niên trong Tin Mừng nói lên điều gì? 2) Tại sao anh ta gọi Đức Giêsu là “Thầy nhân lành”? 3) Đức Giêsu kể ra một số điều cấm làm nhằm mục đích gì? 4) Câu trả lời của chàng thanh niên cho thấy tình trạng tâm hồn anh thế nào? 5) Đức Giêsu biểu lộ cảm tình đối với anh ta ra sao? 6) Ba điều Đức Giêsu dạy chàng thanh niên làm để nên trọn lành là những việc gì? 7) Tại sao anh không làm theo lời Đức Giêsu dạy mà buồn rầu bỏ đi? 8) Câu Đức Giêsu nói: “Những người có của thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” cho thấy Người lấy làm tiếc cho chàng thanh niên này về điều gì? 9) Tại sao các môn đệ lại kinh ngạc sững sờ khi nghe Đức Giêsu cho biết người giàu có khó vào Nước Thiên Chúa? 10) Đức Giêsu còn dùng hình ảnh nào cho thấy người giàu thật khó có thể vào được Nước Thiên Chúa? 11) Các môn đệ đã thốt lên câu nào ho thấy sự hoang mang của các ông? 12) Lời trấn an các môn đệ cho thấy sức mạnh của ơn Thiên Chúa thế nào? Câu này tương tự câu nào trong biến cố Truyền Tin? 13) Đức Giêsu hứa sẽ làm gì để bù đắp sự mất mát của các môn đệ khi phụng sự Người? 14) Qua câu “kèm theo sự ngược đãi” Đức Giêsu muốn ám chỉ điều gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi (Mc 10,21).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Coi thường của cải là bước đầu để trở nên hoàn thiện:
Một người nhà giàu đã nhận thánh PHILIPPHÊ NÊRI làm linh hướng và đến xưng tội với ngài hằng tháng. Ông này là người giàu có và có thiện chí muốn nên thánh thiện giống như Chúa Giêsu. Nhưng sau một thời gian học tập mà cứ dậm chân tại chỗ, ông đâm ra thất vọng không còn đến bàn hỏi thánh nhân nữa. Mấy tháng liền không thấy ông đến, thánh Philipphê liền tìm đến nhà để thăm. Ngài thấy ngôi nhà của ông bài trí rất sang trọng và tại góc phòng có kê một chiếc tủ nhỏ bằng gỗ, bên trong đựng các vật quý giá của chủ nhân. Rồi khi thấy trên tường phòng khách có treo một cây thánh giá có tầm cao quá tầm tay với, ngài liền nói với ông: “Tôi thấy ông cao lớn. Vậy ông thử đứng với tay xem có chạm tới cây thánh giá kia không?”. Nhưng dù đã cố gắng hết sức, ông nhà giàu vẫn không sao với tay tới được cây thánh giá. Bấy giờ thánh nhân liền cùng ông kéo chiếc tủ gỗ ở góc phòng kia đến làm bệ kê và lần này ông đã có thể dễ dàng chạm được tới cây thánh giá. Khi trở lại chỗ ngồi, thánh nhân mới nói với ông nhà giàu rằng: “Để có thể nên trọn lành giống như Chúa Giêsu, điều quan trọng nhất là ông phải coi thường của cải và sẵn sàng dùng tiền Chúa ban để quảng đại chia sẻ cho những người nghèo khổ bất hạnh, rồi ông mới có thể đi theo con đường hẹp và leo dốc trở thành môn đệ của Chúa Giêsu như Người đã nói với chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo. anh sẽ được một kho tàng trên trời. rồi hãy đến theo Tôi” (Mc 10,21).
2) Cần nhiệt tình và quyết tâm cao mới làm được những việc lớn lao:
Có một người kia làm nghề bán sách rong. Anh ta đi từ nhà này sang nhà khác, mang theo một túi to chứa nhiều loại sách quí. Một hôm anh ta bước vào nhà một bác nông dân. Ông này đang ngồi đu đưa trên chiếc ghế xích đu ở sân trước nhà, với dáng điệu của người ung dung nhàn hạ. Người bán sách tiến đến gần ngỏ lời: “Thưa ông, tôi xin giới thiệu với ông một cuốn sách dạy về một phương pháp canh tác mới, sẽ làm phát sinh hoa trái gấp 10 lần phương pháp canh tác hiện nay”. Nhưng bác nông dân cứ tiếp tục đu đưa chiếc xích đu mà không quan tâm đến lời của người bán sách dạo. Sau một lúc im lặng, cuối cùng bác nông dân mới liếc mắt nhìn người bán sách và nói rằng: “Này anh bạn trẻ, nói thật với anh: Chẳng cần đến sách của anh, tôi cũng biết cách làm cho cây cối ra hoa trái gấp mười lần hiện nay đấy. Nhưng hiện giờ tôi chỉ muốn được hưởng những giờ phút yên tĩnh nhàn hạ”.
3. THẢO LUẬN:
1) Mỗi buổi tối trước khi nghỉ đêm, bạn hãy dành vài ba phút để tự vấn lương tâm như sau: Hôm nay tôi đã làm được việc nào hữu ích cho cha mẹ, chồng vợ hay một ai đó cần được trợ giúp hay không?
2) Để thực hành câu “mỗi ngày làm vui lòng ít là một người”, ngòai sự dốc quyết, chúng ta cần phải làm gì?
4. SUY NIỆM:
1) Thái độ của các tín hữu đối với tiền của:
- Trong cuộc sống hằng ngày, tiền bạc luôn có giá trị và sức mạnh như người ta thường nói: “Có tiền mua tiên cũng được” và ”Đồng tiền là Tiên là Phật”… vì nó có khả năng mang lại cho con người một cuộc sống ấm no hạnh phúc hơn. Do đó, ngòai các tu sĩ được ơn kêu gọi dấn thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân trong đời dâng hiến, nên cần sống siêu thoát thể hiện qua việc từ bỏ của cải vật chất như Đức Giêsu đề nghị chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21). Còn đối với những người bình thường chúng ta đều không cần bán đi tài sản để phân phát đi tất cả. Vì như bao người khác, mọi người chúng ta đều cần tiền để thỏa mãn những nhu cầu về thể xác như: đi lại, ăn ở, may mặc, học hành, giải trí… và để khỏi trở thành gánh nặng cho xã hội (x 2 Tx 3,8), để không bị vong thân bán rẻ phẩm hạnh của mình nếu rơi vào hoàn cảnh “khố rách áo ôm”, “chạy ăn từng bữa”… là nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hôi như người ta thường nói: “Đói ăn vụng, túng làm liều”, “Bần cùng sinh đạo tặc!” … * “vừa làm tôi tiền của” (x. Lc 16,13) và đừng coi tiền bạc là ông chủ, nhưng hãy coi nó như đầy tớ. Vì: “Đồng tiền sẽ là một ông chủ xấu, nhưng lại là một người đầy tớ tốt”. Một khi coi đồng tiền chỉ là phương tiện, nó sẽ giúp chúng ta làm được những việc lớn lao, giúp chúng ta chu toàn nhiệm vụ “Làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi các linh hồn” (thánh Inhaxiô Loyôla).
2) Lòng tham của cải vật chất là một trở ngại lớn rất khó để vào Nước Trời:
Ai trong chúng ta cũng cảm nghiệm được sự giằng co giữa một bên là ước muốn nên thánh thiện và bên kia là sức quyến rũ lôi kéo của tiền bạc và hưởng thụ tiện nghi vật chất. Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay đã tuân giữ các giứoi răn, nhưng lại không vượt qua được lòng ham mê của cải và sự hưởng thụ không muốn chia tiền của cho người nghèo khó, vì anh coi giàu có là phúc lành do Thiên Chúa ban, đang khi Đức Giêsu lại coi sự siêu thoát khỏi lòng tham lam của cải vật chất là trở ngại để theo làm môn đệ của Người: “Chồn cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có chỗ tựa đầu" (Mt 8.20). Người đòi các môn đệ phải có nếp sống đơn giản nghèo khó khi thi hành sứ vụ tông đồ như chỉ thị của Đức Giêsu: “Anh em đừng mang gì đi đường, đừng mang gậy, bao bị, lương thực, tiền bạc, cũng đừng có hai áo (Lc 9,3). Sự từ bỏ của cải và người thân của các môn đệ sẽ được Thiên Chúa bù đắp gấp bội như lời hứa của Đức Giêsu: “Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà bây giờ ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống đời đời ở đời sau” (Mc 10,30).
Như vậy, tiền của tuy tốt và mang lại nhiều ích lợi cho con người nếu biết sử dụng. Nó chỉ xấu và có hại cho con người khi bị sử dụng để làm điều xấu. Thực vậy, có nhiều người đã vì đồng tiền thúc đẩy nên đã đánh mất lý tưởng cuộc đời, chà đạp lên phẩm giá của mình và người khác. Vì đồng tiền mà nhiều người đã chối bỏ đức tin, phớt lờ tiếng lương tâm cáo trách để thực hành những điều bất chính, tội lỗi… Đây là nguy cơ mà bất cứ ai cũng đều có thể nắc phải. Đối với những người có lòng ham mê tiền của người đó đã trở thành con lạc đà to lớn không thể chui qua lỗ kim nhỏ bé để vào được Nước Trời như lời Chúa phán.
3) Người môn đệ Đức Giêsu phải có thái độ nào đối với tiền bạc của cải:
- Trong cuộc sống đời thường, tiền bạc cũng như mọi thứ khác đều có thể phát sinh lợi ích nếu người ta biết sử dung chúng như sau:
Một đồng tiền mang ra kinh doanh là một đồng tiền sinh lợi.
Một ánh lửa được chia sẻ là một ánh lửa tỏa lan.
Một vết dầu được thả vào chất lỏng là một vết dầu loang xa.
Đôi môi có sẵn sàng mở ra thì mới có được nụ cười.
Bàn tay có mở ra chia sẻ thì tâm hồn mới cảm thấy niềm vui hạnh phúc.
- Về phạm vi thiêng liêng, Tin Mừng hôm nay cũng ghi lại Lời Chúa dạy: hãy biết sử dụng tiền của để mang lại ích lợi thực sự cho mình bây giờ và mai sau. Chúa Giêsu không bảo chàng thanh niên giàu có hãy vứt bỏ gia sản tiền của đang chiếm hữu, nhưng Người muốn anh đổi nó thành tiền và biến tiền của vật chất thành đồng tiền thiêng liêng bằng cách quảng đại chia cho những người nghèo khổ bất hạnh. Thái độ dứt khoát đó chính là điều kiện để anh có thể theo làm môn đệ của Người: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10,21).
4) Chúng tôi phải làm gì?
- Đức Giêsu luôn mời gọi các môn đệ hãy sống khiêm hạ nghèo khó thể hiện qua thái độ coi thường tiền bạc vật chất để có lối sống siêu thoát. Vì “Được lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì nào có ích gì” (Mt 16,26). Những ai quyết tâm sống yêu thương thể hiện qua việc sẵn sàng nhường cơm sẻ áo với những người nghèo khổ bất hạnh… cũng được kể như đã làm cho chính Đức Giêsu như Người đã nói: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
- Vì đối với Chúa Giêsu: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Đàng khác, khi chúng ta chấp nhận từ bỏ của cải vật chất ở đời này, thì cũng sẽ có được mối lợi là Đức Giêsu, như thánh Phao-lô đã dạy: “Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời là được biết Đức Ki-tô Giêsu, Chúa của tôi, vì Người, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Ki-tô và được kết hợp với Người” (Pl 3,8). Khi chúng ta biết quảng đại chia sẻ của cải cho người khác, thì Thiên Chúa cũng sẽ quảng đại ban lại cho chúng ta muôn vàn ân sủng nhiều hơn gấp bội, như lời Chúa Giêsu: “Anh em hãy cho, thì sẽ được Thiên Chúa cho lại. Người sẽ đong cho anh em đấu đủ lượng đã dằn đã lắc và đầy tràn mà đổ vào vạt áo anh em. Vì anh em đong bằng đấu nào, thì Thiên Chúa sẽ đong lại cho anh em bằng đấu ấy” (Lc 6,38).
- Bước theo Đức Giêsu hôm nay đòi chúng ta phải từ bỏ mình không phải một lần trong đời, nhưng là mọi ngày trong suốt cuộc sống ở trần gian như lời Chúa dạy: “ Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hàng ngày mà theo tôi”. Mỗi người chúng ta đều được Chúa mời gọi hãy từ bỏ những gì mình đang có, nhất là từ bỏ những thói hư như tham lam của cải tiền bạc bất chính, thói ham thích hưởng thụ các khoái lạc xác thịt… để có thể thuộc về Chúa Giêsu cách trọn vẹn.
Cụ thể, mỗi người chúng ta hãy loại trừ lối sống đạo vụ hình thức bề ngoài theo thói quen mà thiếu sự xác tín, thiếu lòng mến Chúa yêu người, nhất là thiếu tính dấn thân trong cuộc sồng và làm chứng cho Chúa, để loan báo Người cho tha nhân đang sống chung quanh ta.
5. NGUYỆN CẦU:
Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay con hiểu rằng: Vào Nước Trời thật khó biết bao! Cái khó ấy phát sinh từ lòng tham không đáy của con: Là người giàu có, con sẽ coi của cải là tài sản riêng mình. Còn nếu nghèo khó, con lại ước mơ giàu sang vượt quá khả năng của con. Xin Chúa giúp con ý thức rằng: Của cải vật chất tuy có giá trị nuôi sống con người, nhưng lại không mấy bền vững. Chúa muốn con trước tiên phải “lo tìm kiếm Nước Thiên Chúa và sự công chính của Người. Còn việc ăn gì, mặc gì, làm gì thì có Chúa sẽ lo giúp con sau”. Xin dạy con luôn biết quảng đại dấn thân phục vụ Chúa trong mọi người để đáp lại lời mời gọi của Chúa trong Tin Mừng hôm nay, vì biết rằng: “Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh; Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân; Chính khi thứ tha là khi được tha thứ; Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình).
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
15.Lựa chọn giữa hai kho tàng--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc
Tin mừng Mc 10: 17-27: Tin Mừng hôm nay cũng thế. Anh muốn theo Chúa Giêsu để được sống đời đời. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu bảo: ”Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời....
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe John Wesley giảng thuyết. John Wesley là một nhà giảng thuyết nổi tiếng: Hôm ấy ông giảng về việc sử dụng tiền của. Wesley bắt đầu bài giảng bằng tư tưởng: Phải ra công tích lũy tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: Đúng lắm! Rồi Wesley triển khai điểm thứ hai: Phải tiết kiệm tối đa. Ông lên án thói phung phí xa xỉ, tiêu xài quá đáng. Bác nông dân xuýt xoa: Bài giảng tuyệt vời! Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm. Cuối cùng, nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: Phải chia sẻ tối đa. Hãy coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe đến đây, bác nông dân lắc đầu rồi bỏ nhà thờ đi ra…
Anh chị em thân mến,
Chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng hôm nay cũng thế. Anh muốn theo Chúa Giêsu để được sống đời đời. Nhưng khi nghe Chúa Giêsu bảo: ”Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi".”Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải". Chúa Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng thương tiếc, vì anh ta vốn là một người rất tốt. Anh đã tuân giữ các điều răn của Chúa từ thuở nhỏ. Chúa Giêsu tỏ ra thán phục anh ta, nhưng đồng thời Ngài lại cho anh ta thấy rõ: Kitô giáo không phải chỉ là việc tuân giữ các điều răn một cách tiêu cực: ”Không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai…" Kitô giáo mang tính tích cực hơn nhiều. Chúa Giêsu nói thẳng với anh chàng giàu có: Anh chưa bao giờ làm gì gây thiệt hại cho ai, vì anh có nhiều tiền của, có vợ đẹp con khôn, đâu cần phải đi ăn trộm, ăn cướp hay ngoại tình… Nhưng anh đã làm gì để giúp đỡ ai chưa? Anh đã dùng tiền của để cho kẻ đói ăn, cho kẻ khát uống, cho người trần trụi ăn mặc, cho kẻ vô gia cư có nơi trú ngụ chưa? Chính khi nghe điều này, anh chàng giàu có kia đã nhận ra mình vẫn còn nhiều khiếm khuyết biết bao. Vì vậy, Chúa Giêsu mới thách thức anh: Nếu muốn theo Tôi, anh hãy thay đổi cách nhìn đi. Đừng chỉ nhắm đến sự tốt lành một cách tiêu cực, chẳng hạn như không gây thiệt hại cho ai. Anh hãy nhắm sống tốt lành một cách tích cực hơn, chẳng hạn như giúp đỡ những người nghèo đói. Cứ thực hành điều này, anh sẽ tìm thấy hạnh phúc ngay trong cuộc sống này và cả trong cuộc sống mai sau. Thách đố Chúa Giêsu đặt ra cho chàng thanh niên giàu có có thể tóm lược như sau: Anh có dám chấp nhận mọi thiệt thòi để đạt được cuộc sống vĩnh cửu mà anh mong muốn không? Anh có quan niệm bước theo Tôi là bị thiệt thòi không? Nghĩa là anh có sẵn sàng hy sinh của cải của anh để được sống đời đời không? Anh chàng giàu có trả lời: Thưa Thầy, tôi cũng muốn theo Thầy lắm, nhưng tôi không muốn chấp nhận sự thiệt thòi kia! Thế là chàng thanh niên giàu có đành từ chối lời mời gọi của Chúa Giêsu. Việc sử dụng của cải ngoài mục đích lo riêng cho bản thân và gia đình xem ra là một hy sinh quá lớn đối với anh.
Thưa anh chị em,
Nhiều người trong chúng ta có lẽ cũng giống như chàng thanh niên giàu có kia. Chúng ta biết rõ mình có thể trở thành một kitô hữu tốt hơn, nhưng chúng ta vẫn thiếu nhiệt tình để sống tích cực Tin Mừng của Chúa. Chúng ta đã tuân giữ các điều răn, nhưng chúng ta vẫn chưa đủ quảng đại đối với những người túng thiếu, trần trụi, đói khát. Vì việc đó đòi hỏi chúng ta phải hy sinh, phải chấp nhận thiệt thòi, đau khổ, phải can đảm và phải khôn ngoan sáng suốt để nhận ra rằng sự hy sinh đó là cần thiết để đem lại bình an và niềm vui trong tâm hồn. Và để có thể hy sinh và chấp nhận những thiệt thòi đau khổ đó, điều hết sức quan trọng là phải có một động lực mạnh để thúc đẩy ta, và động lực đó chính là tình yêu: yêu Chúa và yêu người. Tình yêu đó sẽ thúc đẩy chúng ta làm nhiều hơn những đòi hỏi tiêu cực của các điều răn: không hại người, không gian dối, không trộm cắp… Một thanh niên yêu một thiếu nữ sẽ không chỉ hài lòng với việc không làm hại nàng, không nói dối, không xúc phạm đến nàng. Tình yêu khiến anh phải làm tích cực hơn như thế rất nhiều, vì nếu không làm hơn được như thế, chắc chắn đó không phải là tình yêu. Cũng vậy, nếu chúng ta chỉ hài lòng với những điều răn Chúa dạy, chúng ta chỉ là người”quen biết" Chúa chứ chưa phải là người yêu Chúa. Nếu chúng ta không muốn làm điều gì tích cực hơn nữa, chính là vì chúng ta thiếu tình yêu. Chúng ta chưa yêu Chúa và chưa yêu tha nhân.
Thưa anh chị em,
Rất nhiều người trong chúng ta có tâm trạng hài lòng vì đã được biết Chúa, tự mãn vì mình đã giữ các điều răn của Ngài từ thuở nhỏ, giống như chàng thanh niên giàu có trong Tin Mừng. Đó là một điều rất đáng khen, vì Thiên Chúa cũng rất hài lòng vì chúng ta đã sống được như vậy. Chính Chúa Giêsu cũng đã nhìn chàng thanh niên đó một cách thiện cảm và đem lòng yêu thương. Nhưng qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu còn kêu mời chúng ta đi xa hơn một bước nữa, đó là sẵn sàng hy sinh nhiều hơn nữa cho Chúa và cho anh em. Đang khi bên cạnh chúng ta còn biết bao nhiêu người nghèo khổ túng thiếu, cần đến sự giúp đỡ cụ thể của chúng ta. Chúng ta không thể nói mình yêu Chúa lại làm ngơ hay phớt lờ những nhu cầu của họ. Tình yêu thúc đẩy chúng ta phải làm một cái gì cụ thể để thỏa mãn phần nào những nhu cầu thiết yếu của anh em. Và chúng ta cũng cần có con mắt nhận xét và tâm hồn nhạy bén để nhận ra những nhu cầu ấy nơi những người sống gần mình nhất.
Chàng thanh niên nghe Chúa Giêsu nói phải phân phát tiền của cho người nghèo, anh đã buồn rầu bỏ đi, vì anh quá thiết tha với tiền của. Từ đó Chúa Giêsu đưa ra nhận định: ”Người giàu có khó vào được Nước Trời". ”Khó vào" chứ không phải là không vào được, nếu không biết chia sẻ, giúp đỡ những người túng thiếu, nghèo đói, để được một kho tàng trên trời. Dĩ nhiên, tiền của cần cho cuộc sống, nhưng tiền của dễ làm cho con người trở nên mù quáng và ích kỷ. ”Tiền của là đầy tớ tốt nhưng là ông chủ xấu". Tiền của là đầy tớ đắc lực cho mọi người, nhưng khi chúng ta coi tiền của như một ông chủ, thì lúc đó nó sẽ trở thành ông vua thống trị với những luật lệ ác nghiệt của nó, nó hành hạ, sai khiến chúng ta như tên nô lệ. Vì thế, Chúa đã nói: ”Không ai vừa làm tôi Thiên Chúa lại vừa làm tôi tiền của" (Lc 16,13). Phải lựa chọn một.
Chúa Giêsu đã tỏ ra tuyệt đối trong đòi hỏi của Ngài: ”Ai trong anh em không từ bỏ tất cả của cải mình có, thì không thể làm môn đệ Thầy" (Lc 14,33). Từ bỏ của cải không nhất thiết là từ bỏ quyền sở hữu. Từ bỏ đây, đối với đa số kitô hữu là có của mà lòng không tham lam, không nô lệ cho tiền của. Có của mà biết dùng của để mua sắm kho tàng không bao giờ hư nát trên trời. Có của mà biết quan tâm đến nhu cầu của người khác, coi hoàn cảnh thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Đó phải là cách sống của tất cả những ai muốn thực sự là môn đệ của Chúa Kitô.
16.Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
“ĐỐI VỚI THIÊN CHÚA MỌI SỰ ĐỀU CÓ THỂ ĐƯỢC”
Phần đầu của bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay có cấu trúc song song đối xứng như sau:
(A) Người thanh niên đến với Đức Giê-su và nêu câu hỏi (c.17)
(B) Lời của Đức Giê-su về Thiên Chúa nhân lành (c. 18)
(C) Các giới răn (c. 19-20)
(B’) Lời mời gọi đi theo Ngài (c. 21)
(A’) Nghe câu trả lời, anh bỏ đi, buồn rầu (c. 22)
Phần trung tâm (C): biết và giữ các giới răn vẫn chưa đủ, nhất là khi biết và giữ mà không có Thần Khí, không có kinh nghiệm sâu đậm về tình yêu Thiên Chúa, nghĩa là không biết vì ai, nhờ ai và cho ai?
Các phần bao quanh (A tương ứng với A’ và B tương ứng với B’): Đức Giê-su là Đường, Sự Thật và Sự Sống giúp chúng ta hoàn tất Lề Luật theo Thần Khí (x. Mt 5, 17-48).
1 – Sự sống đời đời
a. Người thanh niên đạo hạnh
Chúng ta hãy nhìn ngắm một người, có lẽ còn trẻ (x. Mt 19, 20), đến với Đức Giê-su và tỏ bày lòng thao thức sự sống đời đời. Chúng ta có thể trách cứ, xếp loại, thậm chí lên án anh quá gắn bó với tiền của đến độ từ chối lời mời gọi đi theo Đức Giêsu, nhưng trước hết, chúng ta cần thán phục anh và nhất là, cùng với Đức Giê-su, nhìn anh với lòng thương cảm: “Đức Giê-su đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.
Anh là người có nhiều của cải (nếu anh còn trẻ, thì đó có thể là gia tài cha mẹ để lại cho anh), và vì thế, có thể yên tâm hưởng thụ. Nhưng không, anh giầu có, nhưng lại thao thức về sự sống đời đời. Và anh không chỉ thao thức trong lòng, nhưng còn diễn tả ra bên ngoài ngang qua việc đích thân đi tìm gặp Đức Giê-su. Cuộc gặp gỡ này giả thiết anh đã có cả một thời gian tìm kiếm và tìm hiểu trước đó. Ngoài ra, anh sống rất đạo hạnh, phù hợp với thao thức về sự sống đời đời của mình: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó (nghĩa là những điều răn) tôi đã tuân giữ từ thủa nhỏ”.
Đức Giê-su sẽ giúp anh làm rõ và cụ thể hóa khát khao “sự sống đời đời” của anh, đồng thời làm bật ra sự quyến luyến của con tim với những phương tiện chóng qua, làm cản trở anh sống lòng khao khát của mình.
b. Thiên Chúa nhân lành
Thật vậy, Đức Giê-su dùng chính danh xưng mà người thanh niên gọi Ngài: “Thầy nhân lành” để hướng anh tới chính Thiên Chúa nhân lành: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa”. Với câu nói này, Đức Giê-su vừa cho thấy sự khiêm tốn của Ngài, không tự nhận mình là nhân lành, nhưng qui về Thiên Chúa nhân lành, là Cha của Người, vừa thông truyền cho anh con đường để đạt tới sống đời đời. Câu trả lời của Đức Giê-su cho thấy vấn đề thiêng liêng của người thanh niên:
(1) Từ nhỏ, anh đã chu toàn mọi lề luật trong tương quan với người khác: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ” Nhưng đâu là sự thật về tương quan của anh với Thiên Chúa?
(2) Sự sống đời đời, không phải là lương bổng Thiên Chúa phải trả cho những người giữ luật hay tự ý giữ nhiều hơn cả những gì luật đòi hỏi, như anh đã nghĩ: “tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Sự sống đời đời là chính sự sống của Thiên Chúa, được trao ban một cách nhưng không, nhờ Đức Ki-tô, với Đức Ki-tô và trong Đức Ki-tô, cho những ai có lòng khao khát và sống theo khao khát này, trong đó có việc giữ luật.
(3) Chính tương quan ân huệ và tình yêu với Thiên Chúa mới làm cho anh “hoàn tất” lề luật một cách đích thực, khởi đi từ con tim yêu mến và biết ơn Thiên Chúa, đồng thời giúp cho anh có tương quan đúng với những điều mà luật không nói tới hay không thể đụng tới, đó là những quyến luyến của con tim với những gì không phải là Thiên Chúa, hay với những gì không hướng tới Thiên Chúa.
2 – Lời mời gọi của Đức Giê-su
Đức Giê-su thấu suốt cõi lòng anh, thương mến anh, nên mời gọi một cách triệt để, nhằm làm bật ra vấn đề có nơi con tim của anh và chữa lành: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Người thanh niên từ chối lời mời gọi của Đức Giê-su, điều này chứng tỏ rằng, dù anh giữ hết các giới răn và khao khát sự sống đời đời, sự gắn bó của lòng anh với của cải vẫn mạnh hơn nỗ lực thực hiện lòng khao khát này.
Lời mời gọi của Đức Giê-su đích thân dành cho riêng anh, chứ không phải là lời mời gọi phổ quát dành cho hết mọi người, để giúp anh làm rõ tương quan của anh với Thiên Chúa và với của cải. Nhưng những vấn đề mà lời này làm bật ra đụng chạm đến hết mọi người chúng ta: chúng ta có thực sự nhận Thiên Chúa làm cứu cánh cuộc đời không, hay là điều gì khác?
Qua lời mời gọi đi theo Ngài với lòng yêu mến, Đức Giê-su không chỉ thông truyền cho anh con đường để đi vào (thay vì sở hữu) sự sống đời đời, nhưng còn mặc khải cho anh rằng, chính Ngài là đường đi. Nói theo ngôn ngữ Linh Thao của thánh I-nhã, “ca tụng, tôn kính và phụng sự Thiên Chúa, Chúa chúng ta, nhờ đó cứu rỗi linh hồn mình” (LT 23), đó là hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô.
Đi theo Đức Ki-tô, chúng ta sẽ nhận ra tình yêu và lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa đích thân dành cho từng người chúng ta như thế nào nơi ngôi vị và mầu nhiệm Thập Giá của Người; bởi vì Ngài chính là hiện thân của sự sống đời đời, là hình ảnh của Thiên Chúa nhân lành, điều mà người thanh niên khao khát.
Với kinh nghiệm tình yêu đến cùng của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Giê-su Ki-tô và chỉ với kinh nghiệm này, chúng ta mới có thể yêu mến Thiên Chúa hết sức và trên hết mọi sự, và có thể thân thưa với Người, trong tâm tình cảm mến và tín thác: “Lạy Chúa, Chúa đã ban cho con tất cả, con xin dâng lại cho Chúa tất cả” (LT 234).
* * *
Như người thanh niên trong bài Tin Mừng, chúng ta cũng có mối lo về “của cải”, tượng trưng cho tất cả những gì không phải là Thiên Chúa, không thuộc về Thiên Chúa, không hướng chúng ta về Thiên Chúa, không giúp chúng ta yêu mến Chúa hơn. Nhưng khi sống như thế, chúng ta có loại trừ Người ra khỏi cuộc sống của chúng ta được không?
Khi mà mọi sự sẽ qua đi, và chỉ có Ngài là cùng đích và là điểm tới, là vĩnh hằng.
Khi mà Ngài bao bọc chúng ta cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài đặt trên chúng ta, bằng ân huệ sự sống mỗi ngày (x. Tv 139).
Khi mà chúng ta sống không nguyên bởi cái thú thỏa mãn mọi nhu cầu, cho dù cần thiết đến mức nào, nhưng nhất là còn sống bằng tương quan nhưng không, yêu thương, tha thứ, đón nhận, bao dung, cảm thông, biết ơn… được tác tạo và duy trì bởi và chỉ bởi Lời và Ngôi vị của Chúa mà thôi.
Khi mà, những thử thách của cuộc đời, là điều không thể tránh được, sẽ buộc chúng ta phải đặt ra những câu hỏi tận căn: Tôi đang tìm gì hay đang tìm ai? Tôi sống cho bản thân, cho cái gì hay cho ai đó? Tôi sẽ phải chết, vậy đâu là lối đi và ý nghĩa đời tôi? Tôi sống theo ơn gọi hay theo thị hiếu, trào lưu?
Khi mà sẽ đến lúc, lúc này có thể xẩy ra bất cứ lúc nào, phải buông xuôi tất cả, như thánh Phao-lô nói: “thời gian chẳng còn bao lâu nữa… bộ mặt thế giới này đang qua đi” (1Cr 7, 29.31)
Vậy, đâu là những mối lo của chúng ta trong thời điểm này? Chúng ta có sắp xếp thứ tự ưu tiên cho các mối lo không? Chúng ta có những mối lo về những điều nhân bản hơn, cao quí hơn và “thiêng liêng” hơn không? “Thiêng liêng” có nghĩa là trọn vẹn con người của tôi sống hay ước ao sống tương quan với Chúa trong mọi sự và ở mọi nơi mọi lúc? Và nhất là, ngang qua những mối lo không thể tránh được của chúng ta, chúng ta tìm gì? Đức Ki-tô hỏi từng người trong chúng ta vào thời điểm quan trọng này của thời gian: « Con tìm gì?»
3 – “Đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”
Sau khi người thanh niên giàu có khước từ lời mời gọi đem bán tài sản mình có, phân phát cho người nghèo và đi theo Đức Giê-su, Người nói:
Đức Giê-su rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!… Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim[1] còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.”
Câu nói này của Đức Giê-su dường như chỉ liên quan đến “những người giàu có”, chứ không liên quan đến các môn đệ, và cũng không liên quan đến nhiều người trong chúng ta, vốn không phải là “những người giàu có”. Thế nhưng tại sao các môn đệ lại vô cùng sửng sốt và kêu lên: “Thế thì ai có thể được cứu?”
Bởi vì, lời của Đức Giê-su không xét đoán của cải, vì của cải tự nó không phải là điều xấu hay sự dữ, nhưng liên quan đến tương quan gắn bó của con tim đối với của cải, mà “những người giàu có” rất dễ mắc phải. Nhưng vì vấn đề là tương quan với của cải, chứ không phải của cải, nên lời của Đức Giê-su liên quan tất cả mọi người: người có của, người có ít của, và kể cả người không có của. Người thanh niên, tuy đã giữ tất cả Lề Luật từ nhỏ và giữ một cách hoàn hảo, nhưng lòng anh lại gắn bó mật thiết với điều anh có, vốn là đối tượng mà Lề Luật không thể đụng chạm tới được. Bằng lời mời gọi thật triệt để dành cho anh cách đích danh, Đức Giê-su cảm thương anh (x. Mc 10, 21) và muốn giải thoát anh khỏi sự quyến luyến lệch lạc làm cho anh không bình an, mặc dầu đã tuân giữ các giới răn, và hướng lòng anh tới “kho tảng trên trời”.
Các môn đệ, dường như hiểu ra được vấn đề là sự gắn bó của con tim đối với của cải, vốn liên quan đến mọi người, nên đã thốt lên: “Thế thì ai có thể được cứu?” Và Đức Giê-su đã xác chuẩn cách hiểu này và hướng lòng các môn đệ tới sức lôi cuốn mạnh mẽ của chính Thiên Chúa, được thể hiện nơi ngôi vị của Đức Ki-tô (x. Pl 3, 7-6), khiến chúng ta có khả năng tự do với những điều chúng ta có, và thậm chí với chính sự sống của chúng ta. Thật vậy, Người nói:
Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.
Điều này có nghĩa là, Thiên Chúa có khả năng làm cho “con lạc đà chui qua lỗ kim” được! Đó là điều Thiên Chúa đã làm trong lịch sử cứu độ, đã và đang thực hiện cho các môn đệ của Đức Giê-su thuộc mọi thời, trong đó có chúng ta hôm nay.
----------
[1] “Lỗ kim” có lẽ là một cái lỗ nhỏ ở cổng thành mà người ta có thể chui qua.
17.BÁN những gì anh có. CHO kẻ nghèo. rồi THEO TÔI--Lm. Trầm Phúc
Câu chuyện của chàng thanh niên mà chúng ta vừa nghe kể lại dưới ngòi bút và cái nhìn của Thánh Máccô, đã đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề, nhiều nghi vấn và nhiều suy nghĩ.
Chàng thanh niên ấy phải chăng là hình ảnh của nhiều người trong chúng ta?
“Anh chỉ thiếu một điều thôi…”
Phải, chúng ta luôn thiếu, không bao giờ đủ. Còn cái gì đó không trọn vẹn trong niềm tin, trong lòng mến, trong cuộc sống của chúng ta. Vậy bao giờ mới đủ?
Khi chúng ta về “bán đi những gì chúng ta có, phân phát cho người nghèo và đến đây theo Tôi”.
Có lẽ nhiều người đã tưởng rằng lời mời gọi này chỉ thích hợp với những tu sĩ, linh mục mà thôi. Tiếng gọi “Hãy theo Ta” của Chúa Giêsu không chỉ nói với một số ít người, nhưng cho tất cả những ai đã chịu phép Rửa Tội. Tất cả những ai đã được ghi dấu không phai mờ trong Bí tích Rửa Tội đều phải theo Đấng đã thương đưa chúng ta vào gia đình của Ngài. Phải theo Ngài thôi.
Ngài chính là “con đường” duy nhất dẫn chúng ta đến hạnh phúc cuối cùng. Không có Ngài, chúng ta sẽ theo ai? Chỉ có Ngài mới có những lời hằng sống, những lời ban sự sống đời đời”.
Khởi đầu câu chuyện, chàng thanh niên tốt lành ấy đã có một cử chỉ hết sức tốt lành, anh “quỳ gối xuống trước mặt Chúa Giêsu”. Anh nhìn nhận Ngài là một vị tôn sư đáng kính và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Câu hỏi này phát ra từ một tâm hồn tìm kiếm những điều cao đẹp và hướng về chóp đỉnh của sự tốt lành. Đây quả là một tâm hồn đầy thiện chí.
Biết tìm kiếm là một thái độ sống động. Nhiều người không còn biết tìm kiếm nữa, họ bằng lòng với những gì đã có, thỏa mãn với những thành công nhỏ bé của mình, và lắm lúc lại tự mãn về những gì đã đạt được, ngủ yên trên những vòng hoa chiến thắng của mình. Họ đang đi vào giấc ngủ êm đềm của một lương tâm yên lành không vấn đề, không cần lo lắng gì. Quên rằng chúng ta không bao giờ đủ cả, vẫn có một cái gì đó không hoàn hảo trong cuộc sống và trong tâm hồn chúng ta.
“Thưa Thầy nhân lành…”
Chàng thanh niên nhìn nhận nơi Chúa Giêsu một nét gì đó nhân lành, nhưng Chúa Giêsu cho biết “Chỉ có Thiên Chúa mới nhân lành”.
“Tôi phải làm gì?”
Một câu hỏi rất chí lý. Đức tin đã có sẵn, và đức tin là “làm”, là “bước tới”. Đức tin không nằm trong một nhà kho, mà là một sự sống và sự sống là hành động: “Tôi phải làm gì?”
Một thắc mắc, một đòi hỏi: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Thánh Giacôbê).
Đức tin là “lên đường”. Các thánh Tông Đồ đã lên đường. Thánh Phaolô đã tin và đã lên đường. Thế giới này vẫn chưa đủ cho các ngài.
“Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
Chúa Giêsu đáp bằng một câu làm chúng ta choáng váng: “Hãy về bán những gì anh có, cho đi tất cả rồi đến đây, bàn tay trắng, theo tôi”.
Muốn có được sự sống đời đời làm gia nghiệp, hãy buông bỏ gia nghiệp trần gian. Không thể bắt cá hai tay. Chúng ta luôn được đặt trước một chọn lựa quyết liệt: gia nghiệp thiên quốc hay gia nghiệp trần gian. Chúng ta chọn cả hai chăng?
Chắc chắn đa số chúng ta tìm cách làm sao có cả trần thế và có cả thiên đàng. Nhưng điều này không thể được. Chúng ta chỉ có quyền chọn một trong hai vì: “Không ai có thể làm tôi hai chủ”. Chúa Giêsu đã từng khẳng định như thế.
Đòi buộc của Chúa Giêsu rõ rệt không thể hiểu khác được. Chúng ta nhớ những dụ ngôn về thửa ruộng có kho tàng, viên ngọc quý. Phải bán đi tất cả gia sản để mua thửa đất và viên ngọc.
Chúa Giêsu không nhượng bộ: Ngài hay thế gian. Chúng ta không thể ỡm ờ mãi: “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác thập giá theo Ta”.
Đó là định luật của Tin Mừng. Chúa Giêsu chính là kho tàng, là viên ngọc quý. Phải bỏ hết mọi thứ phù phiếm để đạt vĩnh cửu.
Đa số chúng ta không đủ can đảm để chọn lựa dứt khoát. Tính cách triệt để của Tin Mừng làm cho chúng ta sợ hãi. Con người chúng ta luôn tìm sự an toàn, Chúa bảo chúng ta đi trên mặt biển, nghĩa là hoàn toàn tín thác nơi Ngài không do dự.
Chúng ta đứng núi này trông núi nọ, không dám từ bỏ, muốn gom lấy tất cả. Trong con người chúng ta luôn có sự giằng co giữa ước muốn vươn cao và và cuộc sống nhàn hạ. Chàng thanh niên kia cũng thế. Anh muốn tìm Nước Thiên Chúa nhưng khi được mời gọi vươn cao, anh đã chùn chân rút lui. Giấc mộng đạo đức của anh tan thành mây khói. Anh buồn rầu bỏ đi. Thánh Maccô bổ túc: “vì anh có nhiều của cải”.
Anh không dám tin vào người đã kêu gọi anh. Anh đã nhìn nhận: “Thầy là người nhân lành”, nhưng theo Thầy, không có gì bảo đảm. Chúa Giêsu đã bảo chàng thanh niên: “Hãy đi bán tất cả…” Nhưng đối với chàng, của cải dưới đất bảo đảm hơn, kho tàng trên trời còn mơ hồ quá!
Chúng ta dám làm như Chúa đòi hỏi không?
Nhiều người đã dám làm và làm được. Đó là các thánh mà chúng ta vẫn biết đến, nhưng cũng có những người lưng chừng, cũng bỏ mọi sự, nhưng mang theo hành trang khác cũng không kém nặng nề đó là tự ái, kiêu căng, ích kỷ, tìm hư danh, sống cho cái tôi…
Chúa Giêsu không chỉ nói đến vật chất mà thôi, Ngài đòi buộc chúng ta đi xa hơn, đó là “bỏ mình vác thập giá…”
Bán cả cái tôi khổng lồ đang cản bước tiến của chúng ta đi vào tình yêu: “Những người có của cải khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Chúng ta không thể mang cái tôi nặng nề mà vào Nước Thiên Chúa.
Chúa Giêsu muốn vào trần gian, Ngài buông bỏ tất cả vinh quang của Ngài để tự thâu hẹp vào thân phận con người, thì chúng ta cũng phải buông bỏ mọi sự mới có thể nhẹ nhàng tiến đến gặp Ngài trong tình yêu.
Chúa Giêsu đã tự thâu hẹp mình đến mức độ chỉ còn là tấm bánh nhỏ, không ai thèm để ý, để đến với chúng ta, dạy chúng ta sống con đường tình yêu của Ngài. Ngài là “cho không” và “cho hết”. Chúng ta hãy ăn lấy Ngài để trở nên nhỏ bé như Ngài để lớn lên trong Ngài.
18.BÁN những gì anh có. CHO kẻ nghèo. rồi THEO TÔI--Lm. Trầm Phúc
Đây là một câu chuyện bất ngờ, nhưng nhờ dịp nầy, Chúa Giêsu cho chúng ta một bài học hết sức quí báu. Ngài cho chúng ta biết những điều kiện để vào được Nước Thiên Chúa và có được một kho tàng ở trên trời.
Một người thiện chí, một thanh niên, nghe Chúa giảng đã muốn tìm sự sống đời đời, muốn hỏi xem còn điều gì cần thiết nữa. Anh đến với Chúa trong một cử chỉ hết sức khiêm nhường, anh quỳ gối xuống trước mặt Chúa và thưa: “Thưa Thầy nhân lành…” Chúa Giêsu trả lời: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai là nhân lành cả, chỉ có Thiên Chúa mà thôi”. Nhiều người không hiểu tại sao Chúa lại nói như thế.
Chàng thanh niên kia xem Chúa như một vị tôn sư trong dân Do Thái và mong được chỉ giáo. Chúa Giêsu hướng anh đến một vị tôn sư khác, đó là Thiên Chúa. Phải học với Thiên Chúa chứ không thể học với một tôn sư nào. Vì thế, Ngài nhắc lại những giới răn Chúa mà anh đã giữ từ thuở nhỏ.
Anh nầy là một người ngoan đạo, một giáo dân tốt. Thánh Maccô đã ghi lại: “Chúa Giêsu nhìn anh và đem lòng yêu mến”. Có lẽ nhiều người trong chúng ta cũng làm như thế, là những giáo dân tốt, nhưng Chúa muốn chúng ta không chỉ bằng lòng với nếp sống tốt đó mà thôi, Ngài kêu gọi chúng ta bước lên một bậc sống tốt hơn, là theo Chúa trọn vẹn. Mỗi người một hoàn cảnh, nhưng mọi người đều phải nhắm thẳng một con đường duy nhất mà thôi là Chúa Giêsu: “Thầy là đường…”
Chúa Giêsu nhìn chàng thanh niên đầy thiện chí đó và tỏ dấu thương anh, Ngài kêu gọi anh bước vào một con đường tốt hơn để đạt mục tiêu anh đang mơ ước: “Hãy về, bán tất cả những gì anh có, cho kẻ nghèo rồi đến đây theo Ta”.
Thực ra tiếng gọi nầy chỉ dành riêng cho một số người, nhưng mọi người đều phải theo Ngài với những điều kiện đó. Những người như các môn đệ đã bỏ mọi sự theo Thầy, nhưng nhiều người khác phải sống trong gia đình, giữa xã hội vẫn có thể theo Thầy, vì như thánh Phaolô nói: “Họ có như không có, hưởng dùng của cải đời nầy như chẳng hưởng”. Họ không lệ thuộc vào tiền bạc của cải.
Chúa hứa với chàng thanh niên: “Anh sẽ được một kho tàng ở trên trời”. Anh hiểu, nhưng “Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi”. Chúa cũng hứa với chúng ta như thế đấy, chúng ta có buồn rầu bỏ đi không?
Chúng ta chọn kho tàng dưới đất hay kho tàng trên trời? Nhiều người trong chúng ta cũng như chàng thanh niên đó, giữ đạo từ thuở nhỏ, cũng siêng năng đọc kinh dự lễ, nhưng khi Chúa bảo chúng ta quảng đại hơn, chúng ta rút lui… Thiện chí vẫn có nhưng can đảm không nhiều. Chúng ta không tiến mà lùi. Chúa Giêsu không cần những con người chỉ theo Chúa nửa vời: chỉ bao nhiêu đó thôi. Không, Ngài muốn chúng ta dám liều như Phêrô ngày nào, dám nhảy xuống biển để đến với Thầy. Và chúng ta cũng nhớ điều kiện của Chúa: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thập giá…”
Chúng ta nghĩ sao? Những lời đó chỉ là những tiếng nói vu vơ sao? Chàng thanh niên thiện chí kia đã từ chối và thánh Maccô ghi chú: “Vì anh có quá nhiều của cải”.
Chàng thanh niên đi rồi, Chúa Giêsu dạy cho chúng ta một bài học: “Những người có của thì khó vào Nước Trời biết bao!” Của cải vật chất chính là chướng ngại ngăn cản chúng ta vào Nước Trời.
Của cải là phương tiện để sống, nhưng nó chỉ là một phương tiện nguy hiểm. Chúng ta đang sống trong một thế giới mà đồng tiền trở thành bá chủ, thay vì là phương tiện, nó trở thành cứu cánh và Chúa Giêsu cũng đồng hóa nó với Mammôn, nghĩa là ma quỉ.
Vấn đề nầy gần như ai trong chúng ta cũng thừa biết, nhưng chúng ta vẫn lao đầu chạy theo tiền bạc vật chất. Chúa cảnh báo rõ ràng, nhưng có mấy người nghe? Chúa cảnh báo ai đây? “Bán đi tất cả, cho người nghèo rồi đến đây theo tôi”. Chúa Giêsu kêu gọi ai?
Đa số chúng ta muốn theo Chúa mà vẫn mang theo tiền bạc kềnh càng. Bắt cá hai tay. “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Con lạc đà nào có thể chui qua lỗ kim? Đó là một cách nói tượng hình rất mạnh, nhưng chúng ta có hiểu không?
Nơi khác Chúa cũng nói: ”Không ai có thể làm tôi hai chủ, thờ Thiên Chúa và tiền bạc”. “Ai cầm cày còn ngó lại sau lưng là không xứng đáng với Ta”. Chúa Giêsu dứt khoát rõ ràng. Đó là tính cách quyết liệt của Chúa.
Khi Chúa nói đến sự giàu có, chúng ta chỉ nghĩ đến tiền bạc của cải, nhưng có những của cải khác cũng là chướng ngại cho chúng ta trên con đường đi về hạnh phúc, đó là kiêu căng, tham vọng, tự ái v.v… Chúa hứa một kho tàng trên trời. Kho tàng đó chính là Ngài. Ngoài Chúa, mọi sự chỉ là phù du tạm bợ. Chàng thanh niên kia buồn rầu bỏ đi vì anh không biết kho tàng đó là gì. Đối với anh cũng như đối với nhiều người trong chúng ta, tiền bạc của cải quan trọng hơn.
Mấy người trong chúng ta biết rằng Chúa là kho tàng vô giá, phải bán tất cả để mua cho bằng được? Giữ đạo là gì? Phải chăng là chọn Chúa trên hết mọi sự?
Thánh Phanxicô Assisi, con một đại gia giàu nhất thành Assisi, đã bỏ tất cả để trở thành “người nghèo của Thiên Chúa”. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu cũng là con một đại gia, đã buông tất cả để chôn mình vào bốn bức tường tu viện, chỉ yêu một mình Chúa thôi. Các thánh tử đạo đã bỏ cả mạng sống vì Chúa… Các ngài đã tìm được kho tàng ở trên trời. Biết bao nhiêu người hiện nay vẫn tiếp tục sống cho Chúa và phục vụ mọi người, bước theo Chúa hằng ngày, chỉ vì biết rằng Chúa mới là gia nghiệp thực sự. Còn chúng ta?
Có lẽ chúng ta cũng nói như các môn đệ: “Vậy thì ai có thể được cứu thoát?” Những điều kiện của Chúa khó quá ! Chúa nhìn thẳng vào các môn đệ và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được”. Ngài muốn ám chỉ rằng, con người tự sức mình không thể bước theo Ngài mà phải cần đến Ngài thôi. Vì thế, Ngài đã đến trong trần gian, sống kiếp người như chúng ta, sống nghèo hơn chúng ta, chết trần trụi trên thập giá để cho chúng ta thấy, chúng ta cũng có thể đi theo Ngài. Ngài là bài học sống động nhất, thực tế nhất. Ngài đã từng tuyên bố: “Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ”.
Nơi bàn thờ, Chúa Giêsu đến với chúng ta dưới một hình thức nghèo nàn nhất: một tấm bánh. Sự nghèo nàn bên ngoài đó chứa đựng một sự giàu sang khôn tả đó là tình yêu. Ngài đến trần gian không phải để xây dựng một vương quốc giàu có phồn thịnh, không phải để thống trị hay hưởng thụ, Ngài đến để cho không và cho hết. “Ngài đến để ban mạng sống, để cứu vớt những gì đã hư mất”. Ngài đến để kêu gọi chúng ta sống nếp sống yêu thương như Ngài là yêu thương đến tận cùng. Chúng ta có nghe tiếng kêu trên đỉnh đồi Canvê thống khổ kia không? Đó là tiếng kêu của Con Một Thiên Chúa Tình Yêu.
Hôm nay, Ngài vẫn tiếp tục kêu gọi chúng ta “bỏ mình, vác thập giá theo Ngài” bằng cách bỏ mình, đem thịt máu Ngài nuôi sống chúng ta, giúp chúng ta can đảm bước theo Ngài vào hạnh phúc mà trần gian không thể có.
Hãy đến với Chúa, ăn lấy Ngài, yêu mến Ngài với bàn tay trong sạch, với tâm hồn không vương vấn tiền bạc của cải, chúng ta sẽ có một kho tàng ở trên trời, nơi mối mọt không đục khoét và không ai có thể cướp được.
19.Cái két sắt--PM. Cao Huy Hoàng
Tác giả Ba Chuông, có truyện rất ngắn mang tên: “Cái két sắt” như sau:
“Ông H. mới giàu lên vài năm nay, nhờ vợ ông có cả trăm mối lái Hàn, Trung, Việt buôn bán thịnh đạt. Ông xây nhà lớn vào bậc nhất ở một thị trấn kể là nhỏ nhất. Thiết kế trong nhà mới xây có một chỗ để két sắt. Ông nghe nói có cả ngàn mặt hàng két sắt đựng tiền trên thị trường. Có những két sắt hiện đại đề phòng kẻ trộm từ xa; két sắt có con mắt phân biệt người thân, người lạ; có két sắt sử dụng bằng dấu vân tay...
Cuối cùng, ông chọn mua một két sắt sử dụng bằng dấu vân tay đắt tiền và cho xây âm trong tường luôn. Ông nói với mọi người rằng: “Như thế mới bảo đảm. Chẳng có thằng nào dám rớ tới ông”.
Sau đó chỉ một tuần, trong khi uống rượu, lên giọng giàu có dạy đời, ông H. bị mấy tay anh chị đập cho giập nát hai bàn tay. Đi bệnh viện hai tuần. Mất dấu vân tay. Vợ ở nhà đập két sắt lấy hết tiền đi rồi.
Hình như bà H. đứng tên nhà, đất. Và nghe nói tất cả đã sang tên cho thằng tình nhân Trung Quốc rồi.
Cái két sắt thật là an toàn! Thật là bảo đảm muôn năm!”
Ở đời, có quá nhiều người cho mình là khôn ngoan, đến nỗi có thể nói: ai cũng cho mình là khôn ngoan, nhưng thử hỏi: được mấy người tìm cho ra Đức Khôn Ngoan đích thực? Hay chỉ là loại khôn ranh ma mãnh kiếm chác vơ vét về cho mình tất cả uy tín, danh dự, quyền lực, công sản, tư sản, bất chấp công lý, công bằng, bất chấp nhân quyền, nhân đạo, nhân ái, rồi khư khư ôm chặt lấy những thứ phù du ấy mà ước, mà tưởng sống muôn năm để tận hưởng cho thỏa lòng tham lam vô tận.
Vâng, người trần gian là thế: quí chuộng những gì thuộc về trần gian như là mình sẽ mãi mãi ở lại trong trần gian này. Sự giàu có, uy tín, danh dự, quyền lực, sắc đẹp, tiền của… đều là những thứ phù du và được cất giữ trong cái tôi phù du mỏng mảnh, cái tôi tội lỗi, tối tăm, tồi tàn, tồi tệ, mà người ta cứ tưởng là cái két sắt bền vững muôn năm. Như thế là khôn ngoan sao?
Lời Chúa trong sách Khôn Ngoan hôm nay dạy: “Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không”.
Sự giàu sang mà gọi là hư không thì thật là uổng công cho bao người cắm cúi cất công cả đời đi tìm cái hư không ấy.
Người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay một đàng là muốn sống đời đời, nhưng không muốn buông bỏ, chia sẻ những gì không thuộc về cõi sống đời đời.
Chúa Giêsu nhìn anh ta mà thương. Thương vì anh ta lành, nhưng chưa khôn. Bởi anh có khát vọng sống đời đời nhưng không dám buông bỏ cái phù vân. Hóa ra, anh đi xin thuốc trường sinh bất tử để trường sinh bất tử ở đời này mà tận hưởng của đời này, chứ không xin trường sinh bất tử ở đời sau! Thế thì nếu Chúa Giêsu bảo: "Ngươi chỉ thiếu một điều, là ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta", thì trường sinh bất tử còn ý nghĩa gì đối với anh ta nữa?
Thật đáng tiếc! Cả bạn, và tôi, cả chúng ta cũng không khác gì anh ấy bao nhiêu đâu. Muốn sống đời đời để mà tận hưởng của cải trần gian này, vì ta đang có cái để tận hưởng đấy sao? Chúa Giêsu cũng đang to nhỏ với chúng ta bao lần về cách nhìn nhận chân giá trị của những sự đời này, và dặn dò hãy dùng tiền của đời này mà mua lấy Nước Thiên Đàng mai sau.
Thế mà, có những chuyện đời thường gặp:
“Không có tiền góp cho các em vui Trung Thu đâu nhé. Ông không thấy sao. Mới đó mà em xuống sắc lắm rồi. Cần phải đi thẩm mỹ viện gấp gấp”.
“Mình còn phải xây tường rào mất cả trăm triệu, ông bày đặt hứa với Cha Sở cúng kiếng, đóng góp làm chi. Ông kiếm tiền mà cúng đi. Tôi không biết”.
“Em mới mất cái xe… Để cái xe máy trong nhà. 2g sáng thì còn, 3g thì mất. Xe không đáng là bao, nhưng lại là phương tiện để chở cha mẹ già đi Lễ. Em rất tiếc. Cha em thì bảo: mấy đứa xì ke không có xì ke chích hút tiế,p lỡ nó bất đắc kỳ tử không kịp ăn năn tội thì sao. Thôi, cho nó có cái qua ngày và may ra, có thời gian mà sám hối, trở về với Chúa con ạ. Cha mẹ đi xe ôm được mà”.
Và còn bao nhiêu lần ta từ chối cho đi những gì ta đang có. Không vì mình giàu hay mình nghèo, mà chỉ vì mình quá khắng khít với của cải phù vân ấy.
Lời Chúa hôm nay muốn mời gọi chúng ta trước tiên hãy tìm kiếm Đức Khôn Ngoan và sống theo Đức Khôn Ngoan ấy. Chúa Giêsu bảo “đến theo ta” là theo Giáo Lý của Chúa, theo cách sống của Chúa, theo Con Đường, theo Sự Thật, theo Sự Sống của Chúa Giêsu. Ấy chính là tìm được sự khôn ngoan đích thực.
Thánh Phaolô xác quyết: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Vì cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người, và cái yếu đuối của Thiên Chúa còn hơn cái mạnh mẽ của loài người” (1Cr, 24 – 25).
Và một khi đã theo Chúa Giêsu Kitô rồi, hẳn là chúng ta phải học hiểu Giáo Lý của Ngài, để nên giống Ngài và mặc lấy cái nhìn của Ngài mà nhìn nhận mọi sự ở đời này chẳng có gì là muôn năm cả, không có gì tồn tại cả, và chỉ có duy nhất một Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, cùng với Chúa Cha và Thánh Thần sẽ là Vĩnh Cửu, là tồn tại muôn đời. Và chỉ những ai tin vào Chúa Giêsu và sống theo Lời Ngài dạy, mới được trường tồn với Ngài mà thôi.
Nơi Đức Giêsu, đựng cả kho tàng trường sinh bất tử và vĩnh cửu cho chúng ta. Cái két sắt nào có thể đựng cả và thế gian này đi nữa, cũng sẽ phải han gỉ hư nát đi, nhưng Đức Kitô gìn giữ chúng ta tồn tại muôn đời, vì chính Ngài cứu chúng ta ra khỏi sự hư nát ấy.
Lạy Chúa, “xin cho chúng con sớm được no phỉ ân tình của Chúa, để chúng con mừng rỡ hân hoan. Xin dạy chúng con biết đếm ngày giờ, để chúng con luyện được lòng trí khôn ngoan” (Tv 89) là sống kết hiệp khắng khít với Lời, Thánh Thể và Thánh Giá Chúa Giêsu từng giây phút. Amen.
20.Sống ảo & sống thật--Alphonse Marie Trần Bình An
Ba mươi năm trước đây tại thủ đô Washington D.C, vợ của một nhà doanh nhân đã đánh rơi chiếc ví của cô ấy tại bệnh viện trong một đêm mùa đông. Nhà doanh nhân này rất lo lắng và quay lại bệnh viện để tìm ngay trong đêm đó, bởi vì trong chiếc ví không chỉ chứa 100.000 USD mà còn có cả các tài liệu marketing rất quan trọng... Khi người doanh nhân vội vã tới bệnh viện, ông ta nhìn thấy một cô gái nhỏ nhắn nằm ngay dưới chân bức tường hành lang, đang run lên vì lạnh, và trong tay cô gái đó có chính xác chiếc ví mà vợ ông đã bị mất. Cô gái tên là Hiada, cô tới bệnh viện để đưa người mẹ đang bị ốm tới khám bác sĩ. Đêm đó, Hiada đã bị bỏ lại bơ vơ trong hành lang của bệnh viện. Cô ấy cầu nguyện xin Chúa nhân từ cứu giúp và hy vọng sẽ gặp được một quý nhân nào đó sẽ cứu giúp được mẹ cô. Đột nhiên, một người phụ nữ đi từ trên hàng lang xuống và đã đánh rơi chiếc ví mà không hề để ý và vội vã đi qua, có lẽ bởi vì cô ấy đang phải mang một thứ gì đó trên tay. Hiada là người duy nhất ở hành lang lúc đó, cô đã tới và nhặt chiếc ví lên. Khi cô chạy tới sau cánh cửa phía sau người đàn bà kia, thì bà ấy đã ở trên ô tô.
Hiada quay trở lại phòng bệnh viện. Khi mở chiếc ví ra, cả hai mẹ con đều sốc vì số tiền quá lớn. Họ đều ngay lập tức nghĩ rằng số tiền kia sẽ có thể giúp mẹ cô ấy chữa bệnh. Tuy nhiên, người mẹ đã nói với Hiada quay lại hành lang và đợi người đánh rơi kia quay lại để tìm. Bất chấp mọi nỗ lực giúp đỡ cứu chữa của nhà doanh nhân, mẹ của Hiada đã ra đi và để người con gái nhỏ ở lại một mình. Sau đó, nhà doanh nhân đã giúp đỡ cô con gái nhỏ bé kia, người đã mất đi cả gia đình.
Tốt nghiệp đại học, với sự giúp đỡ của nhà doanh nhân, Hiada đã trợ giúp cai quản việc kinh doanh của nhà triệu phú. Vào những năm sau này, ông đã tham vấn Hiada rất nhiều ý kiến giải quyết cho nhiều vấn đề gặp phải. Khi mà ông sắp xa rời thế giới, ông đã để lại những dòng đầy từ bi: “Trước khi tôi biết Hiada và mẹ cô ấy, tôi đã thực sự mất hết tiền, nhưng khi tôi đứng trước bà mẹ và cô con gái, người đã tìm thấy một số tiền rất lớn của tôi – khi mà họ đang trong cảnh bệnh tật và nghèo đói nhưng vẫn không màng tới số tiền của tôi, tôi nhận ra rằng họ mới là những người giàu nhất. Họ đã giữ được những tiêu chuẩn đạo đức cao nhất của con người mà một người doanh nhân như tôi còn thiếu. Tiền của tôi có được phần lớn là do những trò tiểu xảo và tranh nhau với người khác. Đó là những người mà họ làm cho tôi hiểu được tài sản quan trọng nhất trong cuộc đời là giá trị đạo đức của họ.
Tôi cứu giúp Hiada không chỉ vì trả ơn hay vì sự cảm thông. Mà là vì tôi thấy cô ấy như một hình mẫu chuẩn mực của một con người. Khi cô ấy ở bên cạnh tôi, tôi sẽ luôn nhớ rõ rằng tại bất kỳ thời điểm nào cái gì tôi nên làm, cái gì không; tôi nên và không nên kiếm tiền như thế nào… Đó là lý do cơ bản cho sự thịnh vượng trong kinh doanh của tôi sau này và khi tôi đã trở thành nhà triệu phú. Sau khi tôi chết, hàng triệu đô la của tôi sẽ kế thừa lại hết cho Hiada. Đó không chỉ là để cho cô mà nó sẽ mang lại thành công hơn và thịnh vượng hơn cho việc kinh doanh sau này. Tôi tin chắc rằng người con trai thông minh của tôi sẽ hiểu được những suy nghĩ của cha mình.” (Hà Phương, Bản di chúc đặc biệt của một nhà triệu phú tại Washington D.C, Pureinsight)
Nếu chiếc ví của nhà kinh doanh kia lọt vào tay đối thủ cạnh tranh, thì ông triệu phú kia thua trắng tay. Như vậy, thành công hay thất bại trong đời không tày gang tấc! Điều đó nói lên tiền tài và danh vọng chỉ là ảo ảnh, phù du, phù phiếm nhất thời, có thể biến hóa, thay trắng đổi đen bất kỳ lúc nào. “Phù vân, quả là phù vân.Phù vân, quả là phù vân. Tất cả chỉ là phù vân.” (Gv 1, 2)
Thế mà, theo như Tin Mừng Thánh sử Máccô hôm nay, một vị đại gia kia cứ mãi cậy dựa vào kho tàng đồ sộ, đành từ khước lời mời gọi tha thiết, thân tình của Đức Giêsu. Đáng tiếc hơn nữa, vị đại gia còn lầm lẫn, ngộ nhận việc giữ luật và bổn phận với tha nhân.
Sống vụ luật
Luật lệ là luật pháp và những điều đã thành lệ mà mọi người trong xã hội phải tuân theo, phải chấp hành. Vậy tuân thủ luật lệ là điều đúng đắn, đáng khen ngợi và khuyến khích. Nhưng nếu tự mãn với những nếp sống vụ luật, tự coi mình là đạo đức để khước từ Tin Mừng và tha nhân thì là một sai lầm rất đáng tiếc.
“Đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt;” Đức Giêsu liệt kê một loạt điều răn cấm đoán, một loạt điều phủ định, chỉ mới nhắc duy nhất đến một điều khẳng định gợi ý: “Hãy thảo kính cha mẹ."
Rồi Người bỏ lửng, muốn vị đại gia nghĩ tiếp, trực tiếp nói ra điều Người mong đợi. Nhưng Người hơi thất vọng, khi vị đại gia hồ hởi, hớn hở, hãnh diện, tự mãn: "Lạy Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ." Nghe vậy, có thể Đức Giêsu đã nhắc nhở: “Vậy, Thầy bảo cho anh (em) biết, nếu anh (em) không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 5, 20)
Họ chỉ sống vụ luật mà thôi, hầu cho thiên hạ kính phục, kiếm chút sĩ diện, chút danh hão huyền, phù phiếm. Như thế, họ đã được thiên hạ tưởng thưởng hậu hĩ rồi. Trước thái độ đó, Đức Giêsu chẳng ngại công khai lật tẩy và lên án thói giả hình: “Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi.”(Mt 6, 2,5,16)
Đức Giêsu tỏ ra không thể nào dung thứ, gay gắt, phẫn nộ, tẩy chay, tuyên chiến đạo đức giả: "Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pharisêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!” (Mt 23, 27-28)
Như thế sống vụ luật, lấy lề luật làm bình phong màu mè, hòng che đậy bản thân đầy thiếu sót, nhem nhuốc tội lỗi, chỉ là sống ảo, đánh lừa dư luận, sống dối trá với mình và xã hội. Một cuộc sống tầm gửi, phù du, vật vờ, xảo quyệt, cho dù thành đạt, giàu sang, phú quý, quyền cao chức trọng, thì cũng chỉ là con số không vĩ đại, rỗng tuếch, vô tích sự ngay khi chết. Sống vậy chỉ là sống ảo vọng hão huyền mà thôi.
Sống Tin Mừng
Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: "Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi." Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.”Đức Giêsu chỉ đường dẫn lối cho ai muốn sống thật, sống đời đời, sống viên mãn. Tiếc thay, vị đại gia khước từ.
Người chỉ đòi hỏi một điều duy nhất: Bỏ đi và cho đi. Nhưng vị đại gia sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì bất đồng, dứt khoát tiếp tục cúc cung bái con bò vàng, tiếp tục làm nô lệ cho tiền bạc tích lũy, tiếp tục làm tôi mọi cho danh vọng quyền hành, mà đành quay lưng lại lời mời gọi ân cần, tha thiết, yêu thương của Đức Giêsu.
Nói theo nhà Phật, thì bao lâu còn chấp ngã, chưa biết vô ngã, xả kỷ, thì bấy lâu con người còn ngụp lặn, đắm chìm trong cõi nhân duyên ta bà. Chấp ngã là chạy theo cái vô thường để nhằm thỏa mãn cái ta, chạy theo cái tôi tham sân si không bao giờ có giới hạn. Vậy vô ngã, xả kỷ là bỏ đi tất cả những gì dính líu đến con người mình, từ vật chất, tiền bạc đến tình cảm hưởng thụ, để nhân ái cho đi tất cả, thành tâm dấn thân, phục vụ tha nhân.
Thế nhưng đứng trước chọn lựa hết sức khắc nghiệt, giữa thế gian và Nước Chúa, mấy ai dám can đảm thật sự bỏ đi mọi sự mà đi theo Chúa? Nên “các ông càng kinh ngạc hỏi nhau rằng: "Như vậy thì ai có thể được cứu độ?"
Quyền năng Thiên Chúa
Chúa Giêsu chăm chú nhìn các ông, và nói: "Đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự." Con người vốn hữu hạn, cái nhìn hữu hạn, khả năng hữu hạn, làm sao có thể đáp nguyện vọng lại vô hạn: Được sống đời đời?"
Vậy thì chỉ còn biết trông cậy duy nhất vào Thiên Chúa, Đấng thấu suốt mọi sự, vô cùng từ bi nhân hậu, đã cho Con Một xuống thế giải thoát con người khỏi sự chết. Thánh Augustinô đã quả quyết: "Ðể sinh ra con Nguời không hỏi ý kiến con nhưng để cứu chuộc con Nguời phải hỏi ý kiến con." Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người muốn được sống mãi, thì cần chân tình và tích cực cộng tác vào công cuộc Cứu Độ, bằng cách sống thật trung thành Tin Mừng.
“Có như không có, bán như không bán, mua như không mua, như không có gì cả, mà làm chủ tất cả, không đòi hỏi gì cả, sẵn sàng cho đi tất cả. Đó là tinh thần thanh bần.” (Đường Hy Vọng, số 421)
Lạy Chúa Giêsu, chúng con cũng thường mau mắn đáp lại tiếng Chúa gọi, như Thánh Phêrô: “Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy." Nhưng thật ra, chúng con lại âm thầm vơ vét vào mỗi khi có thể, chúng con lại lén lút chạy theo thế gian, vì sợ thua kém, bị bỏ rơi, bị lạc hậu với thiên hạ. Xin giúp chúng con can đảm và dứt khoát thực hành Lời Chúa, dẫu muôn vàn khó khăn, cám dỗ, trở ngại dễ làm chúng con ngã lòng.
Lạy Mẹ Maria vô cùng kính yêu, xin Mẹ cầu bầu cho chúng con chiến thắng thói vị kỷ, bất nhân, mà cởi mở tấm lòng, bác ái, chia sẻ, cho đi tất cả mọi sự đến mọi người, cũng như phục vụ tha nhân mọi nơi, mọi lúc. Amen.
21.Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm. Anfonso
Tin mừng Mc 10: 17-27: "Hỡi các con, những kẻ cậy dựa vào tiền bạc, thật khó mà vào nước Thiên Chúa biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước Thiên Chúa"...
Suy niệm:
Ai trong chúng ta mà không muốn mỗi ngày một lớn lên và trở nên tốt đẹp thêm. Vì thế chúng ta mới hoàn thiện mình mỗi ngày. Chàng thanh niên giàu có trong đoạn Tin Mừng hôm nay đến với Chúa Giêsu để xin Người chỉ cho anh ta con đường trọn lành. Việc người thanh niên nhìn nhận Chúa Giêsu, vị đang đứng trước mặt anh là Thầy nhân lành, cách gián tiếp anh ta nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa. Như vậy anh đã đến đúng chỗ để thọ giáo.
Người thanh niên giàu có cho Chúa Giêsu biết anh đã giữ cẩn thận những giới răn từ thuở nhỏ: “đừng ngoại tình, đừng giết người, đừng trộm cắp, đừng làm chứng gian, đừng lường gạt; hãy thảo kính cha mẹ". Đó là những điều căn bản cho một lối sống luân lý tự nhiên mà Thiên Chúa thiết định trong tương quan giữa con người với nhau. Việc chưa hề làm điều gì thương tổn đến ai chỉ là khởi điểm cho đời sống Kitô hữu. Nhưng, Kitô giáo không chỉ hệ tại ở việc tuân giữ các lệnh truyền cách tiêu cực như thế. Người Kitô hữu còn được mời gọi sống đạo cách tích cực và dấn thân hơn nhiều, không chỉ là đừng làm điều gì xấu cho ai, nhưng còn cần xét mình xem ta đã làm điều tốt nào, đã giúp đỡ ai?
Chúa Giêsu rất có thiện cảm với anh thanh niên này vì anh có nền tảng đời sống đạo đức khá vững. Chúa nhìn anh với lòng yêu mến, có thể là một cái gật đầu như một sự khích lệ để mời gọi anh tiến thêm một bước nữa trên con đường trọn lành: “Anh chỉ thiếu một điều, là hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và anh sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta”.
Bỏ một điều xấu để chọn lựa điều tốt là một điều rất dễ lựa chọn, vậy mà có khi chúng ta lừng khừng, trì hoãn, không dễ dứt khoát, huống hồ là việc lựa chọn giữa hai điều tốt. Chỉ khi nào con người ta nhận ra cái quý giá của điều tốt hơn ấy hơn hẳn mọi chọn lựa khác thì mới có thể khiến người ta buông bỏ cái đang cầm giữ để dám chọn lựa một điều được hứa hẹn phía trước. Như Bài đọc I cho chúng ta biết một người biết chọn lựa thật sự là người chọn sự khôn ngoan hơn vương quốc, vị thế, sự giàu sang, kim cương, vàng bạc, sức khỏe, sắc đẹp vì sự sáng đức khôn ngoan không hề tắt. Vậy người đã chọn sự khôn ngoan rồi thì hãy biết rằng việc lắng nghe và thực thi theo lời Thầy Nhân Lành có bị thiệt bao giờ.
“Nghe những lời ấy, anh ta sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”, một kết thúc buồn cho câu chuyện của người thanh niên vì anh còn nhiều điều để bám víu. Vậy mỗi người chúng ta thì sao? Ai mà không muốn theo Chúa, nhưng liệu chúng ta có hơn gì anh thanh niên kia? Hoàng đế Napoleon có một câu nói rất hay: “Thắng được cả thế giới không bằng thắng vượt được chsinh mình”. Liệu chúng ta có vượt qua được chính mình không? Của cải trần gian còn được hiểu không chỉ là tiền bạc, mà còn là sở thích cá nhân, cái tôi của mình, một thói quen, một điều mà mình quyến luyến gắn bó… Đó chính là trở ngại rất lớn trong việc theo Chúa.
Chuyện một doanh nhân đi ngang thấy anh nông dân đang nằm võng đu đưa dưới tàn cây mát mẻ giữa trời nắng trưa, miệng huýt sáo ngâm nga. -Vị doanh nhân hỏi: Sao anh không bán miếng đất này đi mà đầu tư làm ăn, cấy lúa chi cho cực vậy? -Anh nông dân hỏi, đầu tư làm ăn rồi sao nữa? -Doanh nhân đáp: thì làm ăn có tiền nhiều để dành dụm. -Thế dành dụm để làm gì nữa? -Để sau này về già, mình được nghỉ ngơi, nằm võng đu đưa thoải mái, sống tuổi già hạnh phúc. -Người nông dân nghe thế, liền hỏi doanh nhân: thế anh thấy tôi đang làm gì, tôi có hạnh phúc không? Cái anh ao ước sau này hưởng, giờ tôi đang hưởng rồi đây.
Đầu tư nơi đâu bằng đầu tư vào nước Trời. Vì Chúa Giêsu bảo đảm “lợi nhuận” từ nơi Chúa sẽ được gấp trăm những gì chúng ta đã dám từ bỏ, còn được sự sống vĩnh cửu nữa. Chưa hết, cũng không thiếu sự bách hại và bắt bớ. Chính điều này mới làm cho chúng ta chọn lựa dám phiêu lưu hay không. Vinh phúc khi chịu sự bắt bớ, ngược đãi của thế gian vì người môn đệ là người được mời gọi bước đi theo dấu chân Thầy. Chính Chúa Giêsu còn chịu bách bớ, thậm chí chịu treo thánh giá, vậy người môn đệ không khác hơn được, vì chọn lựa một con đường bằng phẳng không phải là con đường Chúa đi. Những khó khăn gian khổ gặp phải trong đời sống không phải là rào cản, nhưng là cơ hội giúp chúng ta lớn lên khi được trải nghiệm, khi có dịp sống các giá trị Tin Mừng và được nên thánh từ những điều không mấy dễ chịu ấy.
Nhiều người không dám chọn để đầu tư cho Nước Trời và hạnh phúc đời đời cho mình và gia đình. Có bậc cha mẹ chọn đầu từ nhà cửa đất đai cho con cái, mà quên đầu tư Giáo lý đạo thánh cho con. Một số khác lại chăm lo làm lụng để gia đình được sống tiện nghi hơn nhưng thiếu bảo vệ hạnh phúc của gia đình bằng đời sống đạo đức nơi mỗi thành viên. Người khác lo đầu tư việc học, bằng cấp cho con, nhưng không đầu tư cho con mình đời sống nhân bản và lòng bác ái. Một số bạn trẻ lo đầu tư cho nghề nghiệp tương lai nhưng lại sống buông thả và chưa chú ý đến việc mình sẽ là một chứng nhân đức tin cách hữu hiệu nơi môi trường làm việc. Vâng, việc đầu tư để đem lại hạnh phúc và cuộc sống sung túc cho gia đình là điều cần thiết. Nhưng nếu thời gian, công sức chỉ cho những mục tiêu đó thôi, thì chưa đủ. Rất cấp thiết cho người tín hữu đầu tư cho mình một đời sống tốt lành, hoàn thiện từng ngày.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa mời gọi con biết sáng suốt lo cho cuộc sống vĩnh cửu, vì chính con được tạo dựng nên giống hình ảnh Chúa, có linh hồn để được tham dự vào sự sống đời đời. Vậy xin ban Thánh Linh để Ngài khơi lòng mở trí cho con biết cân nhắc trước các chọn lựa, vì cùng đích cuộc đời con người là hạnh phúc Thiên đàng, nơi ấy được xây dựng bằng từng viên gạch là thái độ và hành động sống tốt của con. Amen.
22.Sự sống đời đời là mục tiêu tối hậu--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Mục đích và nghĩa cuộc đời là một tiến trình tìm kiếm và khám phá đồng thời thực hiện cho tới chết, như bánh xe cuộc đời không bao giờ dừng lại. Tiến trình này cần phải rất khôn ngoan.
Chuyện kể rằng: Ngày nọ, triết gia Diogene của Hy lạp đã đến giữa chợ Athene và dựng một căn lều có treo một bảng lớn với hàng chữ như sau: "Tại đây có bán sự khôn ngoan". Một bậc khoa cử, tình cờ đi qua căn lều, đọc được lời rao báo, cười thầm trong bụng. Nhưng muốn biết đằng sau căn lều ấy có những gì, ông sai người đầy tớ mang tiền đến dò hỏi mua cho bằng được cái mà người bán gọi là "Sự khôn ngoan".
Người đầy tớ ra đi, làm theo lời dặn của chủ, anh đưa cho Diogene ba cắc bạc và nói rằng chủ của anh muốn có sự khôn ngoan. Cầm lấy ba cắc bạc bỏ vào túi, triết gia nói với người đầy tớ một cách long trọng như sau, hãy về đọc lại cho chủ anh nghe câu nầy: "Trong tất cả mọi sự, hãy nghĩ đến cùng đích".
Vị khoa bảng thành Athene vô cùng thích thú về lời khôn ngoan này. Ông đã cho viết trước cửa nhà, như khuôn vàng thước ngọc, để chính ông suy niệm mỗi ngày và tất cả những ai qua lại trước nhà ông đều có thể đọc thấy câu trên.
Chàng thanh niên trong đoạn Tin Mừng hôm nay trạc tuổi từ 18 đến 35. Ý thức rõ về tôn giáo của mình với những khả năng, ước muốn, tương quan với xã hội anh đang sống. Có thể anh đã có một nghề, một công việc ổn định, đã lập gia đình, nhận thức rõ về quyền lợi, bổn phận và trách nhiệm, xứng tầm với anh. Có thể anh đã thành công về mặt xã hội, hoàn thiện bản thân qua việc tuân giữ lề luật tôn giáo. Anh cảm thấy việc xác định ý nghĩa và mục đích cuộc đời là điều khẩn thiết phải làm để định hướng cho cuộc đời anh. Những câu hỏi được đặt ra: Sống để làm gì, đâu là ý nghĩa và mục đích của đời người, cụ thể hơn anh tìm đến, gặp, hỏi Chúa Giêsu: "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?" (Mc 10, 17)
Tiền bạc, của cải anh đang thủ đắc xem ra không phải là sự quí nhất của con người, vì anh đã có trong tay tất cả mà chưa thỏa mãn. Có những thứ khác như văn hóa, tài năng, trí phán đoán mà người xưa gọi là Sự Khôn Ngoan, tài sản quí giá hơn mọi thứ mà con người có thể sở hữu được. Salômôn, một vị vua khôn ngoan vô tiền khoáng hậu trong giấc mơ kì diệu, đã xin Thiên Chúa ban cho mình Sự Khôn Ngoan hơn là được giàu có, ông nói: "Đem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không" (Kn 7,8). Chúa Giêsu chính là Đấng Khôn Ngoan, có được Chúa Giêsu là có được Thiên Chúa là nguồn mạch sự khôn ngoan.
Sự sống đời đời là điều chàng thanh niên trong Tin Mừng cũng như chúng ta ngày hôm nay đang tìm kiếm. Nhưng tự chúng ta không thể có được, phải cậy nhờ vào Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là Chúa Giêsu Kitô. Chàng thanh niên đã chạy đến với Chúa Giêsu quỳ gối để xin Chúa chỉ cho anh việc phải làm để được sống đời đời, chứng tỏ là anh biết chắc sự giàu có của anh không làm thỏa mãn, nhất là không bảo đảm cho anh, khiến anh đi tìm kiếm một thứ hạnh phúc cao hơn, có giá trị bền vững hơn là của cải vật chất, nên anh đã tìm đến với Chúa Giêsu. Nỗ lực tìm kiếm với thiện ý là một chuyện, phấn đấu để đạt được lại là một chuyện khác.
Những cản trở như, giũ bỏ sự giàu có bên ngoài để làm giàu trong tâm hồn, từ bỏ của cải ở dưới đất để đổi lấy kho tàng trên trời là sự sống đời đời. Trước một đòi hỏi quyết liệt của Chúa Giêsu, một sự đánh đổi, một chọn lựa khó khăn, chàng thanh niên sa sầm nét mắt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải (x. Mc 10, 22).
Chúa Giêsu đưa mắt nhìn theo anh với đầy vẻ luyến tiếc, thở dài và tuyên bố: "Người giầu có vào Nước Thiên Chúa thật khó biết bao… con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa" (x. Mc 10, 23-25). Các môn đệ nghe Chúa nói cảm thấy sốc vô cùng, Phêrô con người bộc trực không chịu nổi, bèn thưa: "Thưa Thày, phần chúng con đã bỏ mọi sư mà theo Thày! Chúng con sẽ được gì?" (Mc 10, 28). Nhờ câu hỏi của Phêrô, các ông được Chúa chỉ cho thấy sự giàu có của Nước Trời khác với sự giàu có của thế gian, tài sản của Nước Trời không phải là tài sản mà thế gian tìm kiếm, sự sống đời này và đời sau, ý nghĩa và cùng đích cuộc đời.
Thiên Chúa là Đấng làm chủ vũ trụ sẽ không chịu thua lòng quảng đại của con người, Ngài sẽ trả lại cho lòng quảng đại của con người gấp trăm ngàn lân những gì họ đã quảng đại với Chúa và với anh em: "Ai bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, nhà cửa ruộng đất… vì Thày và vì Tin Mừng thì sẽ được trả loại gấp trăm ngay bây giờ cùng với sự ngược đãi và sự sống vĩnh cửu" (Mc 10, 29-30). Đó là điều không phải ai cũng nhận ra, có người nhận ra nhưng ngại ngùng đáp trả, vì Chúa ban cho họ gấp trăm cùng với ngược đãi bắt bớ. Ai nhận ra và dám đánh đổi sự giàu có vật chất ở đời này để có được sự giàu có theo kiểu Chúa ban, đó là kẻ khôn ngoan.
Như chúng ta đã nói ở trên, có được Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa là được chính Thiên Chúa, có Chúa là có tất cả, và điều đó quý giá hơn mọi trân châu bảo ngọc trên trần gian này, vì không có một thứ vàng bạc châu báu nào có thể sánh vì với Thiên Chúa.
Lạy Chúa, xin phái Đức Khôn Ngoan của Ngài tới đồng lao cộng khổ với chúng con, dạy cho chúng con biết tìm kiếm Chúa là nguồn mạch mọi sự khôn ngoan, và vâng nghe sự hướng dẫn của Đức Khôn Ngoan để được sống đời đời. Amen.
23.Vĩnh cửu và tạm thời--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Thế giới ngày hôm nay có đầy sự hấp dẫn, khiến người ta thích những gì là tạm bợ, và không thích những gì là bền vững.
Trong cuộc gặp gỡ các chủng sinh, khấn sinh và tập sinh tại hội trường Phaolô VI, Đức Thánh Cha Phanxicô kể, ngài đã nghe một chủng sinh, một chủng sinh tốt lành nói rằng anh muốn phục vụ Đức Kitô, nhưng chỉ 10 năm thôi, và rồi anh sẽ nghĩ đến việc bắt đầu một cuộc sống khác... và ngài kết luận, thật nguy hiểm! Tuy tạm thời, nhưng điều này thật nguy hiểm bởi vì ta không đánh cược đời mình một lần cho tất cả. Tôi kết hôn chừng nào còn yêu; tôi sẽ là một nữ tu nhưng chỉ trong một "thời gian ngắn" thôi, trong "một khoảng thời gian nào đó" và tôi sẽ tính tiếp, tôi không biết câu chuyện sẽ kết thúc thế nào. Thế này thì không phải với Đức Giêsu! Đúng là cái thứ văn hóa tạm thời, nó không làm cho chúng ta nên tốt đẹp: bởi vì đưa ra một lựa chọn dứt khoát ngày nay thật là khó. Chúng ta là những nạn nhân của nền văn hóa tạm thời này.
Cái tạm thời đã cản trở chàng thanh niên
Chành thanh niên trong Tin Mừng là ai? Là con nhà giàu có. Nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì anh ta là một thiếu gia. Nhưng một thiếu gia có lối sống gương mẫu, không bồ bịch lăng nhăng, không đua đòi ăn diện. Anh rất thành tâm thiện chí tuân giữ cả Mười Giới Răn một cách nghiêm túc từ thủa nhỏ, không ai chê trách được điều gì. Tắt một lời, anh là người hết sức gương mẫu trong việc chu toàn các đòi hỏi của Mười Điều Răn.
Hơn thế nữa, anh còn là một người nhiệt huyết và cầu tiến, không bằng lòng với cuộc sống hiện tại, nên anh thao thức đi tìm kiếm con đường trọn lành, để hoàn thiện. Chính vì những đức tính đó mà anh được Chúa Giêsu đem lòng thương mến. Người còn muốn mời gọi anh tiến xa thêm một bước nữa trên đường hoàn thiện. Đó là đem bán tất cả của cải là cái tạm thời và đem bố thí cho người nghèo để được kho tàng trên trời là cái vĩnh cửu, rồi đến theo Chúa Giêsu làm môn đệ của Người. Tin Mừng cho biết: "Anh sù nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải" (Mc 10,22). Vậy là, cái tạm thời đã rào cản anh.
Vượt qua rào cản
Chàng thanh niên trong Tin Mừng hôm nay thật tuyệt vời. Nếu xưa nay người ta cứ tưởng có một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức, tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất, thì anh vẫn mang trong mình khát vọng sống đời đời cho dù anh đã thủ đắc trong tay toàn bộ những thứ đó.
Để biến khát vọng thành hiện thực, anh đã tìm đến với Đức Giêsu là Đấng mà anh gọi là nhân lành. Đức Giêsu đã chỉ cho anh: "Hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người khó khó" (Mc 10,17). Bán sạch tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt; đã thế, còn đem bố thì hết cho người nghèo, còn mình trở nên trắng tay mà có sự sống đời đời sao?Một lời mời gọi mới khó làm sao!
Đây là một rào cản anh phải vượt qua, trở nên nghèo vì người nghèo. Vì chính lúc nghèo như thế, "anh có một kho báu trên trời" (Mc 10, 21). Kho báu đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Thế nên, Đức Giêsu mới nói: "Rồi đến theo Ta" (Mc 10,21). Đức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là "sức mạnh và sự không ngoan của Thiên Chúa" (1Cr 1,24). "Trong Người có cất giấu một kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết" (Cl 2, 3). Gia tài của chàng thanh niên có là gì so với Đức Khôn Ngoan? Nếu biết Đức Giêsu là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói như tác giả sách Khôn Ngoan: "Đem so sánh sự giầu sang với sự không ngoan, tôi kể sự giầu sang như không" (Kn 7, 8). Chàng thanh niên chưa vượt qua được rào cản về tài sản, nên anh mới kinh ngạc về đề nghị và lời mời gọi của Đức Giêsu.Nguyên nhân khiến anh chấp nhận mãi mãi “thiếu một điều”,là do chính của cải, tài sản mà anh đang có.
Chọn chung kết
Chàng thanh niên giàu có không muốn bỏ cái tạm bợ là sự giàu sang để đi theo Chúa Giêsu, sự giàu sang và của cải là một cản trở làm cho hành trình tiến về nước Thiên Chúa trở nên khó khăn. Chính Chúa tuyên bố: "Những người giầu có vào nước Thiên Chúa khó biết bao" (Mc 10, 23). Chúa biết khó, nhưng Người vẫn mời gọi chúng ta từ bỏ, vì Nước Trời có giá trị lớn lao, đòi hỏi con người phải trả giá. Vì chưng giữ đạo không chỉ dừng lại ở chỗ ăn ngay ở lành, chu toàn các đòi hỏi của luân lý, không làm điều xấu…mà quan trọng hơn, đó còn là tin nhận và dấn bước theo một con người, người đó là Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, sự hoàn thiện theo Tin Mừng hệ tại ở điều này: bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ của Người.
Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. "Có của" không đương nhiên là xấu, thái độ khi "có của" mới xác định giá trị con người. Giáo hội từng có những vị thánh xuất thân từ ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stêphan nước Hungari. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho người nghèo.
Của cái là phúc lành của Thiên Chúa như sách Châm ngôn viết: "Chính phúc lành của Đức Chúa cho ta được giầu sang" (Cn10, 22); "Chúa bắt phải nghèo và cho giầu có" (1Sm 2,7). Người giầu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giầu sang quyền quí như Giakêu, Nicôđêmô, Matthêu v.v…
Như vậy, tiền bạc và sự giầu sang không phải là đối tượng nguyền rủa. Đức Giêsu muốn chúng ta dùng nó làm bàn đạp để bước lên bậc hoàn thiện chiếm được nước trời có Chúa làm gia nghiệp đời ta. Amen.
24.Không làm nô lệ tiền của--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin mừng Mc 10: 17-27: Chúa đòi ta chia sẻ với anh chị em những gì mà ta quý trọng nhất, những gì tha thiết nhất với chúng ta. Chúa bảo ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu, và chúng ta biết Chúa yêu thương cho tới cùng, cho tới hiến cả mạng sống mình...
Khi người thanh niên hỏi Chúa: phải làm gì để được sống đời đời. Chúa đã kể ra những việc phải tránh: đừng giết người, đừng ngoại tình, đừng trộm cướp, đừng làm chứng gian, đừng lừa dối ai. Đây mới là những điểm tiêu cực, Chúa còn đề nghị điều tích cực đó là: "hãy bán đi tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta". Nghe đến đây người thanh niên đã thoái lui.
Qua sự thoái thác rút lui của "người thanh niên giàu có", Chúa không lên án của cải vật chất nhưng Chúa cảnh giác về của cải vật chất dễ khiến cho con người thành nô lệ tiền bạc.
Trong cuộc sống của mình, Chúa cho thấy Người không có mặc cảm khi sử dụng của cải vật chất. Của cải là tốt vì do Thiên Chúa dựng nên. Nhưng Chúa Giêsu không lụy thuộc vào của cải. Là người lao động, Chúa làm việc để hằng ngày được dùng đủ. Rồi khi đi rao giảng, nay đây mai đó, Chúa đã chấp nhận để cho người khác lo cho Chúa. Trong cả hai trường hợp, Chúa không chịu một ràng buộc nào do của cải thế gian.
Chính vì vậy, Chúa cảnh báo đừng để cho của cải vật chất nô lệ hóa chúng ta. Sự giàu có trở thành xấu từ lúc, hoặc trong thực tế, hoặc trong mơ ước, nó vật chất hóa tâm trí, lý tưởng, ước vọng, nghĩa là từ lúc sự giàu có lấy mất đi tự do của con tim. Khi chúng ta chạy theo tiền của như cứu cánh cho cuộc đời mà quên đi những giá trị khác trong cuộc sống, nhất là những giá trị thiêng liêng, tinh thần thì nó sẽ làm cho chúng ta bị phá sản về vật chất cũng như tinh thần. Sự ham mê tiền của dễ làm cho người ta ra đen bạc, khó vào Nước Trời.
Quả thế, vì tiền của, người ta có thể đánh mất lý tưởng cuộc đời.
Vì tiền của, người ta có thể chà đạp phẩm giá của mình cũng như của người khác.
Vì tiền của, người ta có thể chối bỏ niềm tin.
Vì tiền của, người ta có thể phớt lờ luôn cả tiếng lương tâm.
Vì tiền của, người ta có thể làm những điều bất chính...
Đó là nguy cơ mà bất cứ ai cũng có thể rơi vào. Và người nào ham mê tiền của đến quên cả Chúa và quên cả anh em, thì đó chính là thứ lạc đà đứng trước lỗ kim, đó chính là những người khó vào Nước Trời.
Khi Phanxicô Assisi nghe bài giảng trong Thánh Lễ với câu: "anh chỉ còn thiếu một điều là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta”, thánh nhân lập tức bán tất cả những gì mình có, bố thí cho người nghèo và bắt đầu một đời sống theo Chúa: ăn mặc rách rưới, rảo quanh các đường phố rao giảng Tin Mừng tình thương của Chúa.
Chúa không đòi chúng ta phải sống nghèo khó tuyệt đối như thánh Phanxicô. Chúa chỉ đòi chúng ta phải có tinh thần siêu thoát đối với tiền của, không để cho của cải vật chất chi phối làm cản bước đường tiến tới sự trọn lành mà chỉ dùng của cải như bàn đạp để tiến lên, tiến tới đỉnh trọn lành và đạt tới hạnh phúc Nước Trời.
Chúa đòi ta chia sẻ với anh chị em những gì mà ta quý trọng nhất, những gì tha thiết nhất với chúng ta. Chúa bảo ta yêu thương nhau như Chúa đã yêu, và chúng ta biết Chúa yêu thương cho tới cùng, cho tới hiến cả mạng sống mình. Chúng ta phải sẵn sàng chia sẻ những gì thiết thực nhất, trong đó có tiền của và có thể coi tiền của là một thước đo mức độ bác ái của ta với anh em.
Có một người giầu có kia thường xuyên đến xưng tội với thánh Philipphê Nêri. Ông có nhiều tiền của, có thiện chí, nhưng ông vẫn cảm thấy mình không đạt được sự tiến bộ nào trên đường thiêng liêng.
Từ chán nản đến thất vọng, cuối cùng ông bỏ cuộc và không trở lại xưng tội với thánh nhân nữa. Thấy ông đã lâu không đến xưng tội, thánh nhân tìm đến nhà ông để gặp ông. Sau một hồi trò truyện, ngài nhìn lên cây Thánh Giá trên tường, ngài cân nhắc độ cao của Thánh Giá rồi đề nghị với người đàn ông giầu có:
”Ông là người cao lớn, ông thử với coi có tới Thánh Giá không”. Ông đứng dậy đưa cánh tay lên cố với nhưng không thể nào chạm tới Chúa Giêsu trên Thánh Giá. Bấy giờ thánh Philipphê dùng hết sức đẩy cái hòm tiền của người giầu đến bên cạnh ông và bảo ông hãy đứng lên trên cái hòm tiền để với tới cây Thánh giá. Ông làm theo ý thánh nhân và tay đã chạm vào Chúa Giêsu trên Thánh Giá.
Sau đó ngài nói với ông: "để có thể nắm được Chúa Giêsu, để có thể tiến bộ trên đường thiêng liêng, chúng ta cần phải đứng trên tiền bạc của cải”.
“Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta”.
Chúa Giêsu bảo chúng ta: hãy dùng tiền của và cư xử cách nào để đem lại ích lợi cho cuộc sống hôm nay và đồng thời cũng đầu tư cho cuộc sống vĩnh cửu mai sau nữa. Một phương thế Chúa dạy chúng ta là: hãy chia sẻ.
Hãy chia sẻ, hãy chia sẻ. Nói thì dễ, nhưng thực hiện được điều này không phải dễ như câu chuyện bác nông dân nghe John Wesley giảng.
Một bác nông dân người Anh có dịp nghe John Wesley giảng. Hôm đó Wesley giảng về việc sử dụng tiền của. Wesley nói về việc phải ra công tích lũy tối đa, phải dùng hết khả năng tìm cách làm giàu. Bác nông dân gật gù bảo người bạn ngồi bên cạnh: hay lắm, hay lắm.
Rồi John Wesley khai triển điểm thứ hai: phải tiết kiệm tối đa, ngài lên án thói phung phí xa xỉ, tiêu xài quá đáng. Bác nông dân suýt xoa: bài giảng tuyệt vời. Cám ơn Chúa, mình vẫn sống tiết kiệm.
Cuối cùng nhà giảng thuyết đi tới điểm thứ ba: hãy chia sẻ tối đa. Phải quan niệm sự thiếu thốn của người chung quanh là thuộc trách nhiệm của mình. Nghe thế, bác nông dân lắc đầu bỏ nhà thờ đi ra. Quả thực nói thì dễ, thực hiện chẳng dễ chút nào.
25.Huyền nhiệm ơn gọi--Lm. Vũ Xuân Hạnh
Bài Tin Mừng hôm nay gồm ba phần, được coi là ba phần khác nhau nhưng thánh Marcô xếp chúng lại gần nhau để làm thành một nội dung duy nhất. Phần đầu (Mc 9, 17-22) là cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên giàu có. Người thanh niên này có một đời sống thật tốt. Chính vì thế, anh ta được Chúa Giêsu “đem lòng yêu mến”, Người MỜI GỌI anh theo mình. Nhưng trước khi làm môn đệ của Chúa, anh phải là người nghèo, cùng trở nên nghèo với những ai nghèo khó, mới được, vì thế, anh “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo”, rồi theo Chúa. Nhưng đối với anh, một điều kiện xem ra quá khắc nghiệt và cũng chưa từng bao giờ mường tượng như thế, anh không thể làm được. Anh đã thua cuộc, đã rút lui.
Phần thứ hai (Mc 9, 23-27) như được rút ra từ phần thứ nhất. Sau khi nói chuyện với người thanh niên giàu có, bây giờ nhân cơ hội này Chúa dạy hãy sống siêu thoát, đừng để lòng mình dính bén với của cải vật chất. Muốn siêu thoát phải sống tinh thần nghèo khó, phải từ bỏ của cải vật chất, vì “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước trời” (Mc 10, 25). Khi ai đó dám chấp nhận sống siêu thoát như thế, họ mới thực sự là người nghèo, nghèo toàn diện: tinh thần, vật chất. Vì chỉ có người nghèo mới có thể ĐÁP TRẢ ƠN GỌI của Chúa. Và lúc ta trở nên người nghèo để đáp trả ơn gọi, đó cũng chính là lúc ta bắt đầu SỐNG ƠN GỌI.
Phần thứ ba (Mc 10, 28-31), cũng trong mạch văn nói về sự từ bỏ để sống ơn gọi theo Chúa, Chúa Giêsu cho ta biết một KẾT QUẢ cuối cùng của người bước theo Chúa qua câu trả lời cho câu hỏi khá tế nhị: “Đây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy?” (Mc 10, 28) của thánh Phêrô. Người nói: Không ai bỏ mọi sự đi theo Thầy mà “ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ, và đời sau được sự sống vĩnh cửu” (Mc 10, 19 – 31).
Theo chiều hướng suy nghĩ về ơn gọi dựa trên Lời Chúa như thế, tôi muốn nói về HUYỀN NHIỆM của ơn gọi, và mời bạn cùng tôi tiếp tục nhìn vào ơn gọi của chính mình, nhất là những ai đang sống lý tưởng tu trì, để một lần nữa khám phá lại lòng Chúa Giêsu yêu ta khi mời gọi ta dấn bước theo Người, trực tiếp sống ơn gọi mà chính Người đã nhận lãnh từ nơi Chúa Cha. Qua đó ta càng ý thức sâu xa hơn niềm hãnh diện, sự cao cả và hạnh phúc về ơn gọi của mình, để mỗi một ngày, ta biết vun bồi cho ơn gọi ấy đầy đặn hơn, xinh tươi hơn, ý nghĩa hơn…
Có một lần, trước khi bắt đầu bài nói chuyện cùng một số bạn trẻ nam dự tu vào Đại chủng viện, tôi đã đặt câu hỏi cho các bạn thế này: “Theo anh em, anh em nghĩ, ơn gọi là gì?” Và chính tôi đã tự đưa ra câu trả lời: “Nếu ai đó nghĩ rằng, ơn gọi là cái đích phải đạt tới cho bằng được, người đó sẽ thất bại. Có khi do chính suy nghĩ ấy, ta tự mình chuốc lấy sự đau buồn. Vì cứ bình thường mà nói, không phải bất cứ cái gì ta muốn đều có thể đạt được, huống hồ ơn gọi thuộc chiều kích thánh thiêng, không phải chỉ có con người muốn mà trước hết là do ý muốn của Thiên Chúa. Nhưng nếu ta biết rằng ơn gọi là thánh ý Thiên Chúa dìu đưa từng giây từng phút trong cuộc đời của mình, còn ta là kẻ thụ nhận và từng lúc, từng giai đoạn trong cuộc đời mình, ta sẽ phải xin vâng theo thánh ý của Người, ta phải phó thác vận mạng đời mình cho Người, thì lòng ta sẽ bình an, sẽ cảm nhận hạnh phúc, niềm hy vọng sẽ vẫn không tắt dẫu lý tưởng ơn gọi có đạt được hay không”.
Đưa ra câu hỏi và trả lời như thế, có lẽ sẽ khó hiểu cho người ngoài cuộc. Bạn có biết, tôi đang nói đến hoàn cảnh đặc thù của ơn gọi tại chính nơi tôi đang sống? Rất nhiều trường hợp, một thanh niên đã được xét là đã đủ hạnh kiểm, đủ khả năng, đủ tư cách để được vào Đại Chủng viện, phải dừng lại vì một vài lý do tế nhị nào đó. Có nhìn thấy những giọt nước mắt đau buồn, tiếc xót của những bạn trẻ ấy, bạn mới có thể hiểu điều mà tôi đã nói: huyền nhiệm ơn gọi. Huyền nhiệm ấy đã thúc bách, đã nung đốt tâm hồn của biết bao nhiêu người trẻ. Với hai năm mới có một đợt tuyển vào Đại Chủng viện, và mỗi đợt như thế, số người được tuyển cũng rất giới hạn, nhưng họ vẫn sẵn sàng chờ đợi cho đến lúc có tên mình dù phải xếp hàng chờ đợi trong nhiều năm liền. Tất cả những người trẻ muốn đi tu đều đã qua đại học. Có người đang làm bác sĩ, giáo sư, thẩm phán, kiến trúc sư, kỷ sư… nghĩa là họ có quyền mơ và xây dựng cho mình một cuộc sống tiện nghi, giàu có. Nhưng các bạn đã dám từ chối tất cả để chỉ đạt được một điều duy nhất mà thôi: theo Chúa Kitô trong ơn gọi tu trì. Phải hy sinh nhiều bao nhiêu, phải vượt qua khó khăn nhiều bao nhiêu, bị người đời ghét bao nhiêu, thì khi được thực hiện lý tưởng đời mình, niềm vui càng lớn, hạnh phúc càng trào dâng bấy nhiêu. Ngược lại, với những chua cay và khó khăn như thế, cuối cùng vẫn bị từ chối, vì thế, nỗi đau như muốn xé nát tâm hồn các bạn là điều hợp lý đấy thôi. Bởi vậy tôi hiểu, hiểu lắm những giọt nước mắt đáng yêu, đáng quý của những bạn trẻ bị chối từ. Huyền nhiệm của ơn gọi thật lạ lùng quá đỗi. Nó là một hấp lực lớn, không phải chỉ có hôm nay, nhưng là hàng ngàn năm lịch sử, đã làm rung động triệu triệu con tim của biết bao nhiêu người trẻ. Và Chúa Kitô muôn đời vẫn là lý tưởng mà lớp lớp người đã chọn để theo và sống.
Bạn ạ, ơn gọi là một huyền nhiệm mà Thiên Chúa yêu thương trao ban cho con người. Dù đến từ Thiên Chúa, nó vẫn luôn luôn tôn trọng tự do của con người. Mời gọi để ta bước theo Chúa, đó là việc của Chúa. Nhưng đáp trả ơn gọi hay không, hoặc đáp trả như thế nào là chuyện của ta. Và một khi đã đáp trả, nghĩa là đã chọn lựa bước theo Người, ta phải sống ơn gọi. Vì ơn gọi dù đã quang trọng ở ngay việc ta đáp trả, nhưng vẫn không quan trọng cho bằng nỗ lực sống ơn gọi ấy từng ngày sau lời đáp trả của chính bản thân. Nói cách khác, Chúa mời gọi ta bước theo Người và ta đã đáp bằng lời “xin vâng”, nhưng như thế chưa đủ, điều cần thiết là phải sống lời xin vâng ấy bằng cả cuộc đời của mình.
Nếu Tin Mừng cho ta biết người thanh niêu giàu có nào đó, đã không dám dấn mình cho ơn gọi, thì lịch sử của Giáo Hội, mãi cho đến hôm nay, đó vẫn còn là thực tế. Nhưng tôi tin thực tế ấy chắc không nhiều. Ngược lại ơn gọi trên quê hương tôi thật dồi dào, thật phong phú. Trong hoàn cảnh và điều kiện còn đầy khó khăn cho những ai dám hy sinh bước theo ơn gọi, tôi nhận ra nơi các bạn trẻ như đã nói trên, là những người quá đỗi giàu có. Họ nghèo tiền của, không có địa vị xã hội, nhưng họ mới chính là những người giàu có. Trước hết họ giàu ơn Chúa, giàu nghị lực, giàu lòng quả cảm, giàu đời sống nội tâm, và giàu trên mọi thứ giàu: đó là đạt tới con đường Chúa Kitô đã đi. Một khi đạt tới sự giàu sang như thế, phải chăng họ không dừng lại bằng cách đáp trả lời “Xin vâng” trên môi miệng, nhưng đã làm cho tiếng “Xin vâng” thành lời của sự sống mà họ đã sống từng giây phút của cuộc đời mình!!
Nếu đặt trong khung cảnh của bài Tin Mừng mà tôi vừa phân tích bên trên để chỉ ra bốn tiến trình: CHÚA MỜI GỌI – CON NGƯỜI ĐÁP TRẢ ƠN GỌI – CON NGƯỜI SỐNG ƠN GỌI – KẾT QUẢ cuối cùng của người bước theo Chúa, tôi vui mừng thấy những bạn trẻ muốn dấn mình cho ơn gọi trên quê hương tôi đã thực sự nên thánh ngay trong chính ơn gọi của họ. Tận trong tâm hồn, các bạn trẻ ấy đã lắng nghe tiếng Chúa mời gọi. Và cũng sâu thẳm nơi tận tâm hồn, họ đã đáp trả tiếng gọi ấy. Không một chút ồn ào, không hề lên tiếng thốt ra một lời khoe mẻ, không một hành động khoa trương nào dù nhỏ nhất, họ đã âm thầm hiến dâng cuộc đời của họ, âm thầm hy sinh, âm thầm gánh chịu sự bị chối từ, can đảm sống nghèo, sống dứt bỏ mọi vướng bận cản trở họ tiến về phía Chúa Kitô… Tất cả những điều đó đủ làm bằng chứng lớn lao cho ta thấy họ đã sống ơn gọi từng ngày trong bầu nhiệt huyết trẻ trung của họ. Tin rằng Chúa đã nhận và ban cho họ những kết quả lớn lao còn ở phía trước như Người đã hứa.
Bạn ạ, suy nghĩ như thế về những người anh em của chúng ta, bạn và tôi thấy gì, áp dụng gì cho mình? Ai cũng có một sứ mạng để sống giữa đời. Sứ mạng ấy là chính ơn gọi Chúa trao cho bạn và tôi. Rất cụ thể: Bạn là công nhân, bạn là nông dân, là dân chài lưới, hay là người phá đất vỡ hoang… Hãy sống hết mình, hãy yêu mến đến tận cùng những gì bạn đang có trong tay, và hãy thánh hiến tất cả bằng một đời sống đức tin. Được như thế, đó là dấu chứng cho thấy bạn đang sống ơn gọi Chúa trao và nên thánh trong chính ơn gọi của bạn.
Tôi muốn nói với bạn về niềm vui mà Chúa vừa ban cho chúng ta: Đức Tổng Giám mục Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn được cất nhắc lên tước vị Hồng y. Cách đây năm năm, ngày mà Đức Hồng y lãnh chức vụ Tổng Giám mục, ngài đã dâng một lời nguyện rất thắm thía. Nhân niềm vui chan chứa hôm nay, tôi muốn nhắc lại lời cầu nguyện ấy để chúng ta cũng biết tự tra vấn lòng mình như chính Đức Hồng y đã từng làm: “Dù bạn run sợ, lẽ nào bạn không đứng lên”. Nhờ đó, ta cũng sẽ làm một cuộc “Đứng lên” đáp lại ơn gọi của Chúa:
Thiên Chúa cần một người cha cho dân của mình, Người chọn một cụ già. Thế là Abraham đứng lên.
Thiên Chúa cần một người phát ngôn, Người chọn một anh chàng vừa nhút nhát vừa có tật nói ngọng. Thế là Môsê đứng lên
Thiên Chúa cần một thủ lãnh để hướng dẫn dân mình, Người chọn một cậu thanh niên nhỏ nhất, yếu nhất trong nhà. Thế là Đavit đứng lên.
Thiên Chúa cần một tảng đá làm nền cho ngôi nhà Giáo Hội, Người chọn một anh chối đạo. Thế là Phêrô đứng lên.
Thiên Chúa cần một gương mặt để diễn tả tình yêu nhân loại, Người chọn một cô gái điếm. Đó là Maria Mađalêna.
Thiên Chúa cần một chứng nhân để hô lên sứ điệp của Người, Người chọn một kẻ chuyên bắt đạo. Đó là Phaolô gốc thành Tarsô.
Thiên Chúa cần một ai đó để quy tụ dân và đi đến với những người khác. Người đã chọn bạn. Dù bạn run sợ, lẽ nào bạn không đứng lên?…
26.Lấy của cải tạm thời đổi lấy kho tàng bền vững--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay là con người có đầu óc, biết nhìn xa thấy rộng. Anh có nhiều của cải nhưng anh biết rằng mai đây anh chết đi thì tài sản cũng chẳng còn nghĩa lý gì. Vì thế anh tìm gặp Chúa Giêsu để xin Ngài chỉ giáo cho biết phương cách đạt được sự sống đời đời.
Chúa Giêsu dạy anh giữ các giới răn. Anh đáp: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ thuở nhỏ”.
“Bấy giờ Đức Giêsu nhìn anh ta và đem lòng yêu mến, Người bảo: “Anh chỉ còn thiếu có một điều: là hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi.”
“Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi...”
Anh bỏ đi vì anh có nhiều của cải. Anh đã hành động dại dột vì không muốn đánh đổi của cải phù du hiện có để lấy gia nghiệp tồn tại muôn đời.
Qua đoạn Tin Mừng nầy, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta một bài học quan trọng, đó là phải khôn ngoan dùng những của cải tạm bợ đời nầy để đổi lấy kho tàng vô tận trên thiên quốc; hay nói một cách bình dân là “bỏ con tép bắt con cá” mà cá đây lại là cá voi! Vì phần bỏ ra rất nhỏ nhưng phần thu lại thật lớn lao.
Chúa Giêsu tiếp tục khẳng định điều nầy với thánh Phê-rô và các tông đồ: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng ai từ bỏ nhà cửa, anh chị em, cha mẹ, con cái hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin Mừng mà không được gấp trăm và được sống đời đời.”
Vào khoảng năm 1975-1980, thời điểm kinh tế Việt Nam gặp khủng hoảng, vật giá leo thang từng ngày, giá vàng nhích lên liên tục, đồng tiền mỗi ngày một mất giá.
Rồi lâu lâu lại có vụ đổi tiền, sau mỗi lần đổi tiền, giá trị đồng tiền lại giảm sút thêm. Từ đó, những người có tiền không dại gì giữ tiền trong tủ, có tiền cứ mua vàng mà trữ. Vàng thì càng lúc càng lên giá, Nhà Nước có đổi tiền mấy lần cũng không sợ. Thế là khi có chút ít tiền dư, người ta đua nhau sắm vàng. Kẻ có nhiều tiền thì sắm cả cây vàng, người ít tiền thì sắm nửa chỉ hoặc một hai phân. Thế là an lòng chắc dạ.
Người khôn thời đó biết đổi tiền giấy lấy vàng, nhưng vàng cũng không còn giá trị khi người ta nằm xuống nhắm mắt xuôi tay. Thế nên Chúa Giêsu dạy chúng ta phải đổi bạc, đổi vàng, đổi tất cả của cải ta có đời nầy để lấy thứ quý kim muôn đời có giá, đó là công phúc. Ai có nhiều công phúc là có cả một kho báu trên trời không bao giờ mai một, hư hao.
Mai đây, ngày chết của chúng ta rồi cũng ụp đến thình lình. Nếu hôm nay không kịp chuyển đổi những gì ta có thành công phúc, thì lúc đó ta sẽ trở thành người trắng tay, chẳng còn gì tồn tại với mình khi bước qua thế giới bên kia. Đến lúc ấy, có hối tiếc thì cũng đã quá muộn màng!
Cầu Nguyện:
Lạy Chúa Giêsu,
Xét về một vài khía cạnh nào đó, chúng con cũng là những người giàu có, không giàu của cải thì cũng có thể giàu thời giờ, hoặc giàu sức lực, hay giàu khả năng, trí tuệ... Xin dạy chúng con biết đem những thứ của cải tạm bợ nầy đổi lấy thứ tài sản không bao giờ hư nát.
Xin cho chúng con biết dùng thời giờ Chúa ban để tôn vinh Chúa và phục vụ con người. Đó là cách chuyển của cải tạm bợ đời nầy thành công đức bền vững cho mai sau.
Xin cho chúng con biết cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ... để gánh vác việc đời, để góp phần xây dựng xã hội, để phúc âm hoá môi trường, để phụng sự Hội Thánh. Đó là những cách biến của cải tạm bợ đời nầy thành công phúc, thành của cải không bao giờ hư nát dành cho mai sau.
27.Sự nghiệp chóng qua, cơ nghiệp đời đời--Anmai, CSsR
Ít nhiều gì trong chúng ta cũng đã được nghe hay cũng được biết về tác phẩm "Ở trọ" của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn. Bài hát thật ngắn ngủi. Bài hát ấy chỉ có 5 đoạn nho nhỏ mà thôi. Mở đầu bài hát ấy, Trịnh Công Sơn viết:
Con chim ở đậu cành tre
Con cá ở trọ trong khe nước nguồn
Tôi nay ở trọ trần gian
Trăm năm về chốn xa xăm cuối trời (Ở trọ - Trịnh Công Sơn)
Ông đã mượn hình ảnh hết sức thực tế, hết sức mộc mạc, hết sức dễ thương để nói về phận của con chim, phận của con cá và phận của con người. Ai ai trong chúng ta cũng biết con chim đậu ở cành tre ấy nhưng đâu biết khi nào nó bị bắn, bị bẫy. Con cá cũng vậy, ở trong khe nước nguồn thật đấy nhưng nó đâu biết được nó "thọ" được bao năm? Còn con người, dù cho có được một trăm năm đi chăng nữa thì cũng đi về chốn xa xăm cuối trời. Vậy thì, cuộc đời này chỉ là tạm, là bợ mà thôi. Sự nghiệp của con người ở đời này thật mau qua và chóng tàn còn cơ nghiệp đời đời của con người thì mãi mãi là vĩnh cửu.
Sự nghiệp của con người: Thường thì con người vẫn chạy, vẫn đặt sự nghiệp đời mình ở vật chất, ở tiền tài và danh vọng còn cơ nghiệp đời đời của con người là khác, là đặt để trong lòng bàn tay của Thiên Chúa. Con người vẫn được mời gọi để chọn lựa, để sống cái sự nghiệp chóng qua hay cái cơ nghiệp đời đời.
Cuộc đời này mau qua chóng tàn thật để rồi hơn nhau ở cái chỗ khôn ngoan để chọn lựa cho mình lối sống, lối hành xử với những cái sự nghiệp chóng qua. Sẽ có những người cứ đi tìm cho mình đầy túi tiền và ngược lại, có những người đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Bằng chứng đi tìm sự khôn ngoan của Thiên Chúa chúng ta vừa được nghe tác giả sách Khôn Ngoan thuật lại:
Vậy tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết.
Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi.
Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng
còn hơn cả vương trượng, ngai vàng.
Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan.
Đối với tôi, trân châu bảo ngọc
chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan,
vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan,
cũng chỉ là cát bụi,
và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất.
Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp,
đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng,
vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi.
Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi.
Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể. (Kn 7, 7-11)
Tác giả đã nói với mọi người rằng của cải chẳng là gì cả so với Đức Khôn Ngoan. Tất cả cũng chỉ là cát bụi mà thôi. Ngay cả sức khoẻ và sắc đẹp là cái mà con người ta cứ mãi miết đi tìm nhưng cũng chẳng bằng Đức Khôn Ngoan. Đức Khôn Ngoan đem đến cho con người mọi sự tốt lành và cái tốt lành ấy không bao giờ tàn lụi. Tốt lành ấy phải chăng là cơ nghiệp đời đời mà Chúa đã hứa dành cho những ai bỏ vật chất, bỏ tất cả mọi sự để chọn Chúa.
Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta biết về cái sự nghiệp chóng qua và cái cơ nghiệp đời đời của con người. Trang Tin mừng này, thánh ký đã sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau để biên soạn lại thành một trình thuật xoay quanh chủ đề về thái độ phải có đối với của cải vật chất nếu họ muốn trung thành theo chân Chúa Giêsu.
Xét về kết cấu văn chương, trình thuật này chia ra làm 3 tiểu khúc liên kết nhau:
- Câu 17-22: cuộc gặp gỡ của Chúa Giêsu và người giàu có.
- 23-27: cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và các môn đệ về sự giàu sang như một trở ngại cho việc thừa hưởng Nước Thiên Chúa.
- Câu 28-31: phần thưởng của những kẻ theo Chúa Giêsu.
Quả thực, trong tư cách là Đấng Thiên sai cứu độ, Chúa Giêsu mời gọi mọi người đến lãnh nhận ơn cứu độ trong Nước Thiên Chúa. Tuy nhiên, khác với quan niệm đã lỗi thời của người Do Thái, điều kiện mà Người đưa ra không phải là sự chu toàn trọn lề luật song còn là một cái gì hơn thế. Đó chính là dám khước từ tất cả để đi theo Người, là chấp nhận vác khổ mình bước theo Người bất chấp khổ đau thử thách hay quyến rũ. Tuy nhiên đó cũng chính là con đường đưa dẫn đến sự sống, đến hạnh phúc cứu độ của Nước Thiên Chúa.
Nhằm lúc Người đi đường, có người chạy lại quì xuống bái lạy Người mà hỏi: Lạy Thầy tốt lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm cơ nghiệp? Nhưng Chúa Giêsu nói với người ấy: sao ngươi nói ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa? (C. 17-18)
Sự sống đời đời - Làm cơ nghiệp
Trong truyền thống Do Thái, hạn từ sự sống đời đời ám chỉ cuộc sống với Thiên Chúa. Ngữ vựng làm cơ nghiệp vốn là một hạn từ chuyên môn của truyền thống Cựu ước ám chỉ tới sự sở hữu một miền đất Chúa ban.
Như vậy vấn nạn người giàu có nhằm tới liên hệ đến điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa, được hưởng hạnh phúc cứu độ. Đó là bận tâm hàng đầu của người Do Thái thời ấy, và trong nhãn quan thần học của Maccô, vấn đề được nêu lên ở đây liên hệ trực tiếp tới bất cứ ai chọn tin theo Chúa Giêsu. Vì chưng mục đích cuộc sống của họ chính là hạnh phúc cứu độ mà Thiên Chúa muốn trao ban cho họ.
Vấn đề đặt ra ở đây là c. 18: "Chúa Giêsu nói với người ấy: sao ngươi nói Ta tốt lành? Không có ai tốt lành trừ phi có mình Thiên Chúa"
Chúng ta hiểu thế nào về câu đó?
Người giàu có gọi Chúa Giêsu là Thầy tốt lành: cách xưng hô như thế trái với thông lệ của người Do Thái. Đối với một nhân vật đáng kính, một bậc thầy như một Rabbi chẳng hạn, họ chỉ sử dụng tên gọi didaskale. Vì chưng, trong truyền thống của họ, ngữ vựng tốt lành dành riêng cho duy mình Thiên Chúa thánh thiện: "Hãy cảm tạ Giavê vì Ngài tốt lành vì ơn Ngài miên man vạn đại" (Tv 118,1).
Thế nhưng, Chúa Giêsu không phải là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa sao?
Như đã nhiều lần ghi nhận và ở đây cũng thế, chúng ta không được quên lối hành văn riêng biệt và độc đáo của Marcô nhằm mang chở một sứ điệp thần học nổi bật nơi từng mạch văn. Vậy ý nhắm thần học của Maccô ở đây là gì?
Như trong lối hành văn quen thuộc của thánh ký, Chúa Giêsu đã hơn một lần đưa ra vấn nạn khởi từ ý nghĩ của những kẻ nghĩ về Người. Đây cũng là ghi nhận mà Victorê Antiôkia từ xa xưa đã gợi nhắc. Chúa Giêsu sử dụng chính những lời của kẻ đối thoại nhằm đưa họ lên một sứ điệp cao vượt hơn. Trong mạch văn ở đây, người giàu có đã đến với Chúa Giêsu như đến với một Rabbi nhân loại. Chắc hẳn ông ta muốn tìm kiếm sự giải đáp nơi Chúa Giêsu theo như cách thế nơi các Rabbi Do Thái khác. Bởi vậy, khi phủ nhận lời ca tụng thái quá của ông, không phải Người muốn phủ nhận bản tính thần linh của Người. Song le, Người muốn lưu ý thính giả phải biết hướng đôi mắt nhìn lên xa hơn vượt trên một thứ tốt lành nhân loại thuần túy, phải hướng nhìn về sự tốt lành tuyệt đối là Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa tốt lành mới ban cho họ hạnh phúc vĩnh cửu làm gia nghiệp.
Ngươi thiếu một điều:
Đối với Chúa Giêsu, anh ta thiếu một điều gì để có một kho tàng trên trời, nghĩa là để có được hạnh phúc vĩnh cửu.
Khi Chúa Giêsu mời gọi một ai theo Người, Người muốn điều gì ở họ? Có phải đó là sự tốt lành của họ hay là ước muốn hạnh phúc của họ không? Người muốn con người toàn diện. Đó là điều mà Người đòi hỏi khi mời gọi các môn đệ vác khổ giá theo Người, và cũng là điều duy nhất mà Người đòi hỏi bất cứ ai, như trường hợp kẻ giàu có này. Trong nhãn quan thần học Maccô, yêu sách này ngõ cho tất cả mọi Kitô hữu không trừ ai dù ở hoàn cảnh nào. Vì chưng, những ai muốn trở thành môn đệ của Người, họ phải hiến dâng toàn vẹn con người của họ cho Người, họ phải lựa chọn dứt khoát Người là bậc thang giá trị tuyệt đối vược trên các thứ hấp dẫn khác như của cải, danh vọng dù họ ở trong hoàn cảnh hay bậc sống nào. Nếu không, họ cũng sẽ rơi vào thảm trạng của người giàu có đang được nói tới ở đây, là "buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của" (c. 22). Anh ta đã quay lưng lại với Chúa Giêsu và đã lựa chọn của cải. Anh ta đã trân trọng của cải hơn Người, mà lý ra anh ta phải biết lựa chọn, vì chỉ có người mới đem lại cho anh sự sống vĩnh cửu làm gia nghiệp. Chỉ có Người là thực sự kho tàng vô tận của hạnh phúc, của ơn cứu độ cho con người.
Qua bài học của người giàu có, người môn đệ của Chúa Giêsu được mời gọi dứt khoát lựa chọn Người vượt trên mọi giá trị khác. Người môn đệ theo Chúa Giêsu không thể làm tôi 2 chủ: hoặc Người hoặc Manmon (x. Mt 6,24; Lc 16,13).
Trên thực tế, như trường hợp người giàu có cũng cho thấy người ta có nguy cơ lựa chọn sự giàu sang, của cải và gạt bỏ Thiên Chúa. Tiền bạc dễ làm cho người ta thành ích kỷ, kiêu căng và bất công. Đối với Do Thái giáo, những cám dỗ đó không phải là chuyện xa lạ. Lồng kết vào trong nhãn quan thần học Maccô, tiền bạc giàu sang có thể tạo nguy cơ cho ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn trao ban, khiến họ tích trữ cho mình những kho tàng và không biết làm giàu nơi Thiên Chúa (Lc 16,21). Như người giàu có kia, vì lầm tưởng giàu sang là hạnh phúc đích thực, nên họ lựa chọn của cải và quay lưng lại với Chúa Giêsu, với lời mời gọi theo Người.
Những ai chọn theo Đức Kitô sẽ không quên rằng: bao lâu còn sống trong cuộc đời trần thế, họ còn phải vác khổ giá theo Người. Phần thưởng đích thực, hạnh phúc vĩnh cửu chỉ đạt được một cách vẹn toàn ở đời sau. Đó cũng chính là lúc có sự đổi thay căn gốc: bỏ cái sự nghiệp chóng qua mà tìm lấy cái cơ nghiệp đời đời.
28.Cuộc đời cho đi mới đẹp--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Một cuộc đời đẹp không phải là có địa vị, có nhiều của cải mà là người dám sẵn lòng cho đi cái mình có. Không so đo, không tính toán. Họ sẵn lòng cho đi tất cả để phục vụ tha nhân một cách quảng đại. Đó mới là một cuộc đời đáng ca ngợi. Đó mới là một bông hoa đẹp dâng tặng cho cuộc đời.
Đây cũng là nét đẹp của cuộc đời Cha Gioan Lee, linh mục dòng Salêriêng Don Bosco, Hàn Quốc. Tốt nghiệp bác sĩ y khoa nhưng cha đã bỏ tất cả công danh sự nghiệp sau lưng, và cha đã đáp lại tiếng gọi mãnh liệt của Thiên Chúa để trở thành một linh mục truyền giáo trong dòng Salêriêng Don Bosco. Ngay sau khi được truyền chức linh mục tại Tòa Thánh Vatican, cha đã tình nguyện đến truyền giáo tại miền Nam Sudan thuộc Phi Châu. Cha đã tình nguyện đến sống và phục vụ tại một xứ sở nghèo đói nhất thế giới, giữa những người đói khổ và bệnh tật trong làng Tonj thuộc miền Nam Sudan- Phi Châu trong suốt 8 năm trước khi cha qua đời vị căn bệnh ung thư ruột già.
Cuộc đời của người thanh niên trong Tin Mừng tưởng chừng như cũng rất đẹp, vì anh hằng tuân giữ lề luật của Chúa. Anh không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không làm chứng gian, không làm hại ai, và anh hằng luôn thờ cha kính mẹ. Thế nhưng, trong tâm hồn anh lại mất đi nét đẹp của lòng quảng đại trao ban. Anh giầu sang của cải, nhưng chưa giầu sang tấm lòng. Anh có của nhưng không biết làm đẹp con người bằng bác ái trao ban. Anh chưa dùng sự giầu sang của mình để cống hiến, để phục vụ tha nhân.
Đối với Chúa Giêsu một người môn đệ đích thực không dừng lại ở một số việc tuân giữ luật lệ, mà còn phải có một đời sống yêu thương tha nhân bằng cách cho đi những gì mình có, dù đó là của cải vật chất hay tinh thần. Đây là nét đẹp của người môn đệ, nét đẹp thanh thoát cống hiến trao ban.
Chúa Giêsu không dạy chúng ta khinh thường của cải trần gian, nhưng nhắc nhở chúng ta đừng để nó trở thành dụng cụ của ích kỷ, nguồn gốc của bất chính hoặc phô trương lừa gạt. Của cải có thể trở thành sự dữ, khi nó khép kín con tim và tâm trí chúng ta trong ngục tù của tham lam và hưởng thụ, khi nó ngăn cản chúng ta sống yêu thương và quảng đại, khi nó không cho chúng ta sống hoàn toàn tự do khỏi mọi tù ngục trói buộc con người.
Tiếc thay, con người hôm nay vẫn như chàng thanh niên tưởng rằng: “Lắm tiền, lắm gạo là tiên trên đời”. Thế nên, vì tiền mà họ tham lam, bất chính. Vì tiền mà sống thiếu bác ái và thiếu cả công bình. Vì tiền mà sống bẩn với tha nhân.
Chá đã bảo chúng ta: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu có vào Nước thiên đàng”. Phải chăng Chúa cũng đang nhắc nhở chúng ta hãy sống thanh thoát với những vật chất mau qua này? Hãy biết dùng của cải đời này mà mua lấy bạn hữu Nước Trời, qua những việc lành phúc đức, những hành vi bác ái, chia sẻ với tha nhân.
Xin cho chúng ta biết khôn ngoan chọn Chúa và theo Chúa hơn là vì giầu sang mà lạc xa Chúa. Ước gì chúng ta biết dùng của cải đời này mà làm đẹp cuộc đời mình bằng lòng quảng đại, bái ái, vị tha. Amen.
29.Hạnh phúc qua việc trao ban--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Có một câu chuyện rất ngắn kể rằng:
Xưa, nội nghèo, Ba đi ở cho ông bá hộ, chăn trâu để chú được đi học. Thành tài, chú cưới vợ, ra riêng.
Ngày hỏi vợ cho thằng Hai, chú mời mấy người cùng cơ quan. Ai cũng com-lê, cà-ra-vát. Chú bảo: Anh Hai hay đau bao tử, ở nhà nghỉ cho khỏe.
Ba ừ, im lặng vác cày ra đồng. Mồ hôi đổ đầy người.
Cũng những giọt mồ hôi ấy, xưa mặn nồng biết chừng nào, mà giờ, sao nghe chát cả bờ môi.
Cuộc sống không thiếu những người vong ân bội nghĩa. Họ có tiền. Họ có của nên quên bè bạn, quên anh em. Có khi còn phụ ân tình của cha mẹ, họ hàng. Họ là những người “ăn cháo đãi bát”. Cuộc đời của họ chỉ cần tiền. Họ không cần bạn bè, không cần người thân. Đối với họ tiền là “trên hết”.
Giữa cuộc sống hôm nay, ai cũng cần tiền. Không chỉ cần tiền để xài mà còn cần tiền, kiếm tiền để được giầu sang. Người ta đua nhau giầu có hơn người. Người ta tìm mọi cách để kiềm tiền hơn người. Xã hội hôm nay cũng đánh gía nhau dựa trên đồng tiền. Kẻ có tiền được trọng vọng, được xem là kẻ thành công, người quý phái. Kẻ không tiền bị rẻ rúng, xem thường. Kẻ có tiền luôn đúng. Người không tiền luôn thiệt thòi.
Người thanh niên trong đoạn Tin Mừng hôm nay là một người giầu có. Anh có tiền. Anh giầu sang. Anh được mọi người kính trọng. Thế nhưng, anh vẫn cảm thấy trống vắng. Anh vẫn khắc khoải một điều gì đó vượt lên đồng tiền. Đó chính là hạnh phúc. Đồng tiền anh chiếm hữu không mang lại hạnh phúc cho cuộc đời anh. Anh vẫn bất an và đi tìm hạnh phúc. Mặc dù anh đã sống đạo thật tốt. Anh tuân giữ mọi điều răn Chúa. Anh ăn ở ngay lành. Anh đã sống một cuộc đời chỉ mong hoàn thiện. Nhưng xem ra anh vẫn chưa toại nguyện về những gì mình đang có.
Chúa Giêsu hôm nay đã chỉ cho anh con đường đi tìm hạnh phúc. Con đường đó khởi đi từ sự trao ban. Khi trao ban ta tìm được hạnh phúc. Trao ban càng nhiều càng hạnh phúc nhiều. Kẻ chiếm hữu không có hạnh phúc. Vì luôn phải toan tính, luôn phải tranh giành. Kẻ trao ban mới có hạnh phúc. Hạnh phúc là khi nhìn thấy người mình thi ân được hạnh phúc, được ấm no. Tâm hồn người thanh niên chưa thanh thản vì anh vẫn còn cố giữ. Anh chưa dám trao ban. Anh chưa tìm được hạnh phúc đích thực qua sự trao ban.
Chúa Giêsu, Ngài đã sống một cuộc đời trao ban. Ngài trao ban cuộc đời như hạt lúa mục nát để sinh nhiều hoa trái. Ngài trao ban cuộc đời như tấm bánh được bẻ ra cho muôn người được hạnh phúc. Ngài trao ban cả mạng sống mình cho thế gian được sống và sống dồi dào. Ngài đã tìm niềm vui qua việc trao ban. Thế nên, Ngài đã tìm được hạnh phúc khi trở thành chiên gánh tội trần gian. Nhờ Ngài mà muôn người được nên một trong gia đình của Chúa, là con cái, là anh em con một Cha Trên Trời.
Tiếc thay, người thanh niên đã không dám trao ban. Anh tiếp tục lặng lẽ đi tìm hạnh phúc. Hạnh phúc trong tầm tay. Nhưng bàn tay anh chỉ nắm lại mà không bao giờ mở ra. Thế nên, tấm lòng của anh cũng đóng lại trong cô đơn và hoang vắng.
Ước gì cuộc đời chúng ta hãy biết trao ban. Hãy tìm niềm vui trong đời sống phục vụ. Mỗi người chúng ta đều lớn lên trong sự chăm sóc phục vụ của cha mẹ, thầy cô, bè bạn thì cũng hãy cúi mình phục vụ cho nhau. Xin cho bàn tay chúng ta luôn mở ra để nắm lấy đồng loại và cùng dìu nhau qua những thăm trầm cuộc đời. Xin Chúa là Đấng đã phục vụ xin giúp chúng ta cũng biết phục vụ như Ngài. Amen.
30.Sự giầu có đích thực--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận đã có một lần nói với nhà tỷ phú Bill Gatte rằng: “Sự văn minh đích thực là không để ai ở lại phía sau”. Nhà tỷ phú trả lời rằng: “Sẽ có một ngày tôi trả lại cho thế giới những gì mà tôi đã thu lại hôm nay”. Câu trả lời này xem ra có sự tiến bộ hơn chàng thanh niên trong đoạn Tin mừng hôm nay. Anh thanh niên nghe Chúa nói liền buồn rầu bỏ đi. Nhà tỷ phú khôn ngoan trả lời rồi để đó. Ngày mai sẽ làm nhưng không phải là ngày hôm nay. Ngày mai có thể là một ngày không xa nhưng cũng có thể là một ngày rất xa, xa lắm. Điểm chung của cả hai là: đều “lắm tiền, nhiều của”. Cả hai đều làm ra tiền bằng chính mồ hôi công sức của mình. Có thể nói cả hai đều hoàn hảo về mặt đạo đức. Họ đều thành đạt trong cuộc sống. Họ đều có một vị trí tốt trong xã hội. Họ đều có cố gắng vươn lên bằng chính sức lực, trí tuệ của mình. Thế nhưng, tại sao Chúa Giêsu lại đề nghị anh thanh niên phải bỏ tiền ra cho người nghèo? Tại sao Đức Hồng Y lại nhắc nhở Bill Gatte phải quan tâm tới những người kém cỏi hơn mình? Họ đâu có lỗi với người nghèo? Họ đâu cản trở sự tiến bộ của người khác? Họ đâu lấy chiếc bánh của người nghèo, họ cũng không cản bước con đường thành công của người nghèo hay được lợi từ sự thiếu may mắn của người bất hạnh. Họ đâu phải chịu trách nhiệm về sự nghèo đói của những người chung quanh? Vậy đâu là điểm then chốt mà Chúa muốn nói với chúng ta hôm nay?
Thưa, bởi vì cả hai đều thiếu sự chia sẻ. Họ có tất cả nhưng không có lòng quảng đại. Họ giầu có về vật chất nhưng không giầu có về tấm lòng. Sống ở đời cần có tình có nghĩa. Nghĩa và tình đều là hoa trái của sự trao ban. Tình yêu cần có sự trao ban. Ân nghĩa cần có sự đền đáp. Dòng sông luôn có bên lở bên bồi mới cải tạo lại ruộng đất, làm phong phú hoa màu. Con người sống ở đời cũng cần có tình có nghĩa mới làm phong phú cho cuộc đời và hữu ích cho tha nhân. Chính Chúa Giêsu đã nói với người thanh niên: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”
Nhưng tiếc thay, sự ích kỷ đã bóp chết con tim của anh. Anh không thể trao ban vì lòng ích kỷ của anh lớn hơn lòng quảng đại. Núi tiền của anh chất quá cao nên anh không thể nhìn thấy sự khốn cùng của tha nhân. Lòng tham của anh quá sâu nên không thể lấy ra để trao ban. Chúa đã đau xót nhìn anh bước đi trong vùng tối của cõi lòng. Anh đã tự đi vào trong sự cô đơn đầy chán chường. Con người sinh ra là để sống với đồng loại. Không ai sống một mình. Cuộc sống chung đòi hỏi phải chia sẻ, phải trao ban mới mang lại những giây phút hạnh phúc trong cuộc đời. Cuộc sống mới thi vị và đầy ý nghĩa. Anh thanh niên giàu có đã không có niềm vui của sự trao ban. Anh có tiền nhưng đồng tiền không sinh lời cho cuộc đời của anh. Anh lo cất giấu đồng tiền như cất giấu cuộc đời anh trong một thế giới rộng lớn bao la mà lòng anh vẫn cô đơn chán chường, bởi thiếu tình liên đới, chia sẻ với tha nhân. Anh không dám dùng đồng tiền mua lấy lòng nhân. Anh đã đánh mất cơ hội dùng của cải Chúa ban để mua lấy bạn hữu nước trời. Cuộc đời anh đã chết bởi thiếu giá trị sự hiện diện hữu ích cho tha nhân.
Đó chính là thảm cảnh của cuộc sống hôm nay. Người ta có tiền nhiều nhưng lại có rất ít bạn thân. Người ta dùng nhiều thời gian cho việc kiếm tiền nhưng lại rất thiếu thời gian cho thân nhân bạn bè. Người ta tìm cách sở hữu thật nhiều của cải nhưng lại ít khi trau dồi nhân cách cho bản thân. Người thời nay giỏi tìm cách mưu sinh nhưng lại không biết tạo dựng cuộc sống cho có giá trị và ý nghĩa. Người thời nay sống thọ hơn nhưng tình người lại mong manh dễ tan vỡ. Con người dường như đang vong thân, đang đánh mất ý nghĩa của cuộc đời, đang giảm dần giá trị sự hiện diện của mình giữa tha nhân, bạn bè.
Vâng, có thể khi nghe đoạn tin mừng hôm nay, nhiều người cho rằng Chúa không nói với tôi, vì tôi vẫn còn nghèo lắm! Tôi đâu có gì để cho! Chúa đang nói với người hàng xóm ích kỷ gần cạnh nhà tôi. Chúa đang nhắc nhở những người giầu có ở trong xứ đạo của tôi. Thế nên, tôi an tâm. Vì Chúa không trách cứ những người nghèo đói như tôi. Vâng, có lẽ nhiều người đã nghĩ như vậy. Có những người cả một đời chưa một lần bố thí cho một ai đó. dù chỉ là một chén cơm, một chút mắm muối gọi là “tối lửa tắt đèn có nhau”. Có những người cả một đời chỉ biết dùng đôi tay để nhận lãnh mà quên rằng đôi tay còn có khả năng để trao ban. Có những người chỉ chờ mong anh em nói tốt về mình, nhưng bản thân lại chưa một lần nói tốt cho anh em. Cuộc đời họ vẫn còn thiếu. Thiếu lòng quảng đại. Thiếu tấm lòng chia sẻ, trao ban. Họ cần phải bán đi cái tôi ích kỷ của mình để mở rộng trái tim đến với anh em. Họ cần bán đi một chút nhu cầu của bản thân để chắt chiu từng nghĩa cử tốt với tha nhân. Họ cần bán đi bản tính tự cao tự đại của mình để sống khiêm nhường với tha nhân. Có như vậy, cuộc đời họ mới thực sự có ý nghĩa. Vì giá trị sống ở đời là trở nên có ích cho đồng loại, nếu cuộc đời của chúng ta thực sự không mang lại ích lợi gì cho gia đình, cho xã hội thì cuộc sống đó có dài đến trăm năm vẫn là con số không, hay chỉ là một đời sống thực vật, vì trái tim đã không đủ cung cấp nhựa sống cho cơ thể của mình.
Ước gì mỗi nguời chúng ta luôn cảm nhận được niềm vui của sự trao ban để luôn trở nên có ích cho gia đình và xã hội. Vì sự khôn ngoan đích thực là hãy Dùng của cải cách quảng đại, trọng của cải cách tế nhị, xa của cải cách anh hùng. Amen.
31.Sở hữu của cải và khước từ của cải--Lm Giuse Maria Lê Quốc Thăng
Tin mừng Mc 10: 17-27: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?". Bài Tin mừng giới thiệu với chúng ta một người say mê và chân thành, đến bày tỏ nguyện vọng sâu xa nhất đã bám rễ nơi trái tim con người, nguyện vọng được sống viên mãn...
"Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?". Bài Tin mừng giới thiệu với chúng ta một người say mê và chân thành, đến bày tỏ nguyện vọng sâu xa nhất đã bám rễ nơi trái tim con người, nguyện vọng được sống viên mãn. Một con người vô danh: hẳn người này có thể là mỗi người chúng ta. Đến với Đức Giêsu là đúng rồi. Nhưng đáp lại được lời đề nghị cũng là lời mời gọi của Người, rõ ràng là việc không đơn giản.
I. Khám phá sứ điệp Tin Mừng: Mc 10,17-30.
1. Bài tường thuật cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (17-22).
Điều gì thật sự có giá trị? Điều gì thạt sự có ý nghĩa? Cuộc sống hiện tại kết thúc với cái chết. Người giàu đến găp Đức Giêsu xác tín rằng có một sự sống đời đời. Anh có nhiều của cải, anh biết cách lo liệu cho cuộc sống trần thế, nhưng cảm thấy có trách nhiệm đối với cuộc sống tương lai. Anh muốn sống cuộc sống trần gian thế nào để không mất chỗ trong cuộc sống vĩnh cửu. Anh rất tin tưởng đến gặp Đức Giêsu, và chờ đợi nhận được những lời khuyên tốt. Đức Giêsu chỉ cho anh các điều răn: ai muốn tôn trọng ý muốn của Thiên Chúa, thì đang ở trên đường dẫn tới sự sống đời đời. Người đến gặp Đức Giêsu đây đang đi đúng đường: anh đã giữ các điều răn từ thuở nhỏ. Lạ lùng là Đức Giêsu không cổ võ cách sống của anh mà bảo anh về, Người lại bảo anh tự giải thoát khỏi mọi của cải và đến đi theo Người. Người chỉ cho anh thấy một nôi dung và một lối sống hoàn toàn mới: anh phải đi theo Người mãi mãi, lắng nghe lời Người nói, nhìn xem các công việc Người làm, có đầy Thần khí của Người, ở lại mãi mãi với Người, chia sẻ lối sống của Người. Sự hiệp thông liên tục với Người đưa anh đến chỗ hiểu thế giới và đời sống của Đức Giêsu và chuẩn bị cho anh đi vào trong cuộc sống đời đời, nghĩa là cuộc sống trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Ở đây Đức Giêsu khẳng định rằng con đường mà Người đang theo được hướng dẫn bởi thánh ý Thiên Chúa cũng một cách trực tiếp và đảm bảo như các điều răn. Và Người cũng khẳng định rằng chính Người có khả năng dẫn đưa tuyệt đối chắc chắn đến sự sống đời đời. Và Đức Giêsu mời gọi anh làm cử chỉ như các môn đệ đầu tiên(x. 1,16-20; 10,28-30). Nhưng người giàu đã không hiểu lời mời gọi của Đức Giêsu là Tin mừng; anh muốn vừa bám vào của cải vừa đi theo Đức Giêsu. Sự kiện phải chọn lựa làm cho anh buồn rầu.
2. Đức Giêsu giáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (23-27).
Đức Giêsu không nói ỡm ờ về sự khó khăn trong việc từ bỏ của cải. Thái độ sửng sốt của các môn đệ là dịp để Người nhắc lại giáo huấn: đến được Nước Thiên Chúa là chuyện khó khăn. Sự kiện các môn đệ được gọi là”con"(chỉ có ở đây trong Tin mừng Máccô) cho hiểu rằng lời khẳng định được nhắm trực tiếp cho họ. Nhưng Đức Giêsu cất đi cho họ nỗi lo âu về tương lai khi qui hướng họ về Thiên Chúa. Trong Cựu ước, có những câu với nọi dung như thế: G 42,2; x. St 18,14; Dcr 18,6.
3. Đức Giêsu giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (28-30).
Trong câu trả lời cho Phêrô, Đức Giêsu cho thấy là người ta có thể đạt được sự sống này nếu liên kết với bản thân Người. Người nào siêu thoát với những liên hệ với của cải và với gia đình mình, mà gắn bó với Đức Giêsu, thì sẽ thấy mở ra trước mắt một chân trời các quan hệ bao la hơn. Một người đi vào trong gia đình những người đã liên kết với Đức Giêsu, thì gặp lại những của cải và các người thân thuộc của mình, nhờ đó đạt được một cuộc sống mới mẻ và phong phú hơn; đồng thời người ấy lại đang ở trên con đường chắc chắn đưa tới sự sống đời đời. Câu trả lời của Đức Giêsu hàm chứa Tin mừng. Người cho thấy rằng nhờ trung gian là bản thân Người, người ta có thể đạt được sự sống hoàn toàn mới mẻ, một sự sống có giá trị không thể triệt tiêu.
II. Chiêm ngắm Chúa Giêsu:
Đức Giêsu đã cho người đến gặp Người hiểu rằng, vấn đề ở đây không còn phải là luật lệ luân lý, cũng chẳng phải là vấn đề sống khổ chế, mà là đi theo Đức Giêsu để tiến về tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa. Cần phải để cho Đức Giêsu dạy cho biết đi từ một nền luân lý nhắm tìm kiếm sự hoàn thiện đến lô-gích của đức tin, hệ tại chỗ không đặt mình làm trung tâm nữa, nhưng chọn sống theo Tin mừng, theo Đức Giêsu. Trong viễn tượng này, phân biệt giữa”giới răn" và”lời khuyên" chẳng còn ý nghĩa gì cả. Hoặc bước theo Đức Kitô hoặc không bước theo Người. Hoặc túi tiền hoặc sự sống. Bước theo Đức Kitô có nghĩa là để rộng đường cho Thiên Chúa tự do hành động, mà với Người, mọi sự đều có thể được.
III. Gợi ý bài giảng:
1. Một người đi tìm sự sống.
Chúng ta tưởng tượng là người đến gặp Đức Giêsu đang có tất cả mọi sự. Nhưng đến một lúc nào đó, anh hiểu rằng đời sống của anh thiếu mộtđiều gì đó. Rất có thể anh thiếu một cảm thức sâu xa về ý nghĩa của đời sống để khỏi trở thành vô ích. Và anh nhận biết rằng chỉ Đức Giêsu mới đưa lại cho anh câu trả lời đúng đắn nhất. Trước khi trả lời, Đức Giêsu đã làm một cử chỉ đơn giản nhưng rất tiêu biểu: ”đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến". Người đi xa hơn bộ áo đẹp bên ngoài để nhìn thẳng vào anh ta và để đọc ra những gì đang chất chứa nơi đáy lòng anh ta. Đức Giêsu chính là Lời”xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy…, vì sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi"(Dt 4,12). Thế rồi Người đã khẳng định giá trị cứu độ của việc tuân giữ các điều răn. Đến đây người đối thoại đáp: ”Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ".
2. Phải từ bỏ những cái có hạn để đón nhận ân ban vô hạn.
Tưởng là con người kia đã có đủ, bây giờ chỉ cần làm thêm, Đức Giêsu lại nói: ”Anh chỉ còn thiếu có một điều!". Người đề nghị anh từ bỏ tất cả, nhưng vẫn là của cải có giới hạn, để có”một kho tàng trên trời", tức là ân ban vô giới hạn. Tuy nhiên, việc từ bỏ này lại được thực hiện bằng việc”đi theo" Người mỗi ngày. Thế là người này đã không đủ can đảm đáp trả, vì”có nhiều của cải": anh đành chấp nhận”thiếu một điều", mãi mãi; dù anh”có nhiều của cải", anh sẽ mãi mãi”thiếu một điều"! Mọi người được yêu cầu đặt việc bước theo Đức Giêsu, vì Người và vì Tin mừng, trước tất cả mọi sự, thậm chí trước chính bản thân mình và sự trọng kính của người đương thời(x. 8,34-38). Tính mới mẻ triệt để của lời Đức Giêsu kêu gọi đi theo Người không hệ tại lời mời từ bỏ, nhưng hệ tại khả năng kết dệt một liên hệ mới, có được một nội dung mới cho cuộc sống. Thật ra, nhận được lời kêu gọi của Đức Giêsu là nhận được Tin mừng, cũng là một đặc quyền cao cả: bởi vì, chẳng hạn, đặc quyền này đã không được ban cho người ở Ghêrasa sau khi đã được giải thoát khỏi ma quỷ(5,18t). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tách mình khỏi của cải không phải để rồi chỉ còn hai bàn tay trắng, nhưng để chúng ta trở nên tự do và có khả năng liên kết với Người. Ta chỉ có thể đạt tới sự sống đời đời nhờ đức tin, nhờ liên kết vô điều kiện và đầy tin tưởng vào Người. Nhờ hiệp thông với Đức Giêsu và với gia đình Người, ta nhận được sự sống đời đời như một ân huệ. Dây liên kết với Đức Giêsu không bị hủy diệt bởi cái chết.
32.Chúa Nhật 28 Thường Niên năm B--Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXVIII Thường Niên năm B này mời gọi chúng ta suy gẫm về vấn đề vinh hoa phú quý trần thế so sánh với Đức Khôn Ngoan (Bài Đọc I) hay Lời Chúa (Bài Đọc II) mà Đức Giêsu là hiện thân: “vì Thầy và vì Tin Mừng” (Tin Mừng).
Kn 7: 7-11
Bài Đọc I, trích từ sách Khôn Ngoan, ca ngợi giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan, còn quý hơn mọi vinh hoa phú quý trần thế.
Dt 4: 12-13
Trong đoạn trích thư gởi tín hữu Do thái, Lời Chúa được gợi lên với tất cả quyền năng của nó: ban sự sống, xét xử, xuyên thấu tận cõi thâm sâu nhất của con người.
Mc 10: 17-30
Tin Mừng Mác-cô thuật lại câu chuyện về một người giàu có. Đức Giêsu đề nghị anh từ bỏ của cải mà theo Ngài, nhưng anh không thể. Đức Giêsu nêu lên vấn đề về sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ.
BÀI ĐỌC I (Kn 7: 7-11)
Một hiền nhân Do thái sinh trưởng ở A-lê-xan-ri-a đã viết sách Khôn Ngoan bằng Hy-ngữ vào khoảng giữa thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Để đối lại với mối hiểm nguy của việc Hy lạp hóa đang đe dọa Do thái giáo, tác giả tôn vinh những giá trị khôn sánh của Đức Khôn Ngoan Kinh Thánh.
Tác phẩm gồm có 19 chương được chia thành ba phần: phần thứ nhất nói về Đức Khôn Ngoan và số phận con người (ch. 1-5), phần thứ hai nói về bản chất và nguồn gốc của Đức Khôn Ngoan (ch. 6-9) và phần thứ ba nói về hành động của Đức Khôn Ngoan trong lịch sử (ch. 10-19). Trong phần thứ hai tác phẩm của mình, bằng hư cấu văn chương, tác giả đặt lời trên môi miệng của vua Sa-lô-mon, vị vua được truyền tụng là người khôn ngoan bậc nhất. Đoạn văn chúng ta đang đọc được trích dẫn từ diễn từ của vua Sa-lô-mon. Vị quân vương vừa mới nhắc nhở rằng ông không khác với những con người khác, ông chia sẻ thân phận phàm nhân như bao nhiêu người khác. Đức Khôn Ngoan mà vua có được không là một đặc sủng tự nhiên được ban cho vua khi trở thành quân vương, nhưng là thiên ân do vua thành tâm cầu nguyện.
1. Lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon:
“Tôi đã nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết; tôi đã kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi”. Việc vua Sa-lô-mon cầu xin Thiên Chúa ban cho mình sự khôn ngoan là một sự kiện truyền thống được kể ra trong sách Các Vua quyển thứ nhất (1V 3: 4-14), được nhắc lại trong sách Sử Biên quyển thứ hai (2Sb 1: 1-12), và từ câu chuyện này tác giả sách Khôn Ngoan sáng tác một đoạn văn (Kn 9: 1-18). Vua Sa-lô-mon cảm kích vì được kế nghiệp thân phụ của mình là vua Đa-vít khi tuổi đời còn quá trẻ; vì thế, nhà vua còn trẻ người non dạ này cầu xin Đức Chúa ban cho mình những đức tính cần thiết để có thể cai trị dân Chúa chọn, một dân tộc quan trọng như thế.
Tác giả sách Khôn Ngoan trình bày lời cầu nguyện của vua Sa-lô-mon không có trong nguyên bản, nhưng theo cách riêng của mình để đánh động độc giả thế kỷ thứ nhất trước Công Nguyên. Vua Sa-lô-mon biết rõ chẳng có gì phải tự hào tự phụ vì những gì vua có đều là những ân ban của Thiên Chúa. Vua phó thác sự yếu đuối của mình vào chỉ một mình Thiên Chúa đích thật, Đấng phân phát sự khôn ngoan; thái độ này ngược hẳn với các bậc quân vương Hy lạp.
2. Lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan:
Vua Sa-lô-mon công bố lòng quý chuộng Đức Khôn Ngoan của mình. Bản văn nhắc lại câu trả lời của Đức Chúa cho vị vua trẻ theo 1V 3: 11, được tô điểm bằng những chủ đề truyền thống minh triết.
“Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng
còn hơn cả vương trượng, ngai vàng” (7:8).
Nói như thế, không có nghĩa vua Sa-lô-mon đã muốn từ chối ngai vàng của vua Đa-vít, nhưng “vì Đức Khôn Ngoan đưa ông lên hàng vương đế”. Tác giả đã khai triển chủ đề nầy ở trên khi để cho vua Sa-lô-môn ngỏ lời với các bậc đế vương:
“Như vậy, chính lòng khao khát Đức Khôn Ngoan
đưa chúng ta lên hàng vương giả.
Thế nên, hỡi chư vị lãnh đạo các dân,
nếu chư vị quý chuộng ngai báu và vương trượng,
thì hãy tôn trọng Đức Khôn Ngoan,
để chư vị được trị vì mãi mãi ” (Kn 6: 20-21).
Những châm ngôn theo sau là di sản chung mà chúng ta gặp lại trong sách Châm Ngôn, sách Huấn Ca, vân vân, chưa nói đến các Thánh Vịnh.
Ví dụ như:
“Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,
không bảo vật nào của con so sánh nổi” (Cn 3: 15).
Hay còn:
“Hãy đón nhận lời nghiêm huấn của ta quý hơn cả bạc,
hãy đón nhận tri thức quý hơn cả vàng ròng.
Khôn ngoan quý hơn cả trân châu,
không báu vật nào so sánh nổi” (Cn 8: 10-11).
“Tôi đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng”. Với lời nầy, vua Sa-lô-môn nhắc nhớ rằng ông đã không cầu xin Thiên Chúa một cuộc sống trường thọ hay sự giàu sang phú quý, nhưng chỉ xin cho mình được khôn ngoan.
3. Thành quả của Đức Khôn Ngoan:
Trong sách Các Vua, Đức Chúa ca ngợi phẩm chất lời nguyện xin của vua Sa-lô-mon. Để tưởng thưởng cho vua, Đức Chúa ban cho ông không chỉ Đức Khôn Ngoan, nhưng còn mọi vinh hoa phú quý mà nhà vua đã không xin.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một bài học gần như thế. Mến chuộng Đức Giêsu hơn sự giàu sang phú quý là con đường dẫn đến Nước Trời: Những ai từ bỏ mọi sự “vì Đức Ki-tô và vì Tin Mừng”, thì ngay ở đời nầy sẽ nhận được gấp trăm và ở đời sau sẽ được hưởng sự sống đời đời (10: 29-30).
BÀI ĐỌC II (Dt 4: 12-13)
Thư gởi tín hữu Do thái được viết cho những người Ki-tô hữu gốc Do thái, họ sống xa Đền Thờ Giê-ru-sa-lem và luyến nhớ các nghi lễ Cựu Ước; hơn nữa, vì những bách hại, vài người mất can đảm đã muốn bỏ rơi niềm tin Ki-tô giáo của mình. Bức Thư nầy nhằm an ủi họ và tăng cường đức tin của họ.
Đoạn văn hôm nay được trích dẫn từ những lời khuyến dụ dài mời gọi hãy trung tín và kiên tâm bền chí. Tác giả vừa mới gợi lên tấn thảm kịch dành cho những người bất tuân, họ đã không được chấp nhận vào Đất Hứa, nhưng phải vùi thây trong sa mạc. Vì thế, chúng ta hãy giữ mình khỏi tội bất trung nếu chúng ta muốn đi vào Đất Hứa đích thật, vào chốn yên nghỉ của Thiên Chúa: “Vậy, chúng ta hãy cố gắng vào chốn yên nghỉ nầy, kẻo có ai cũng theo gương bất trung đó mà sa ngã” (4: 11).
1. Nhân cách hóa Lời Chúa:
“Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi”. Đây không là lần đầu tiên Kinh Thánh nhân cách hóa Lời Chúa như vậy. Ngôn sứ I-sai-a đệ nhị đã mô tả Lời Chúa ngự xuống từ trời để đem lại sự sống cho toàn cõi thế và chỉ trở về với Thiên Chúa một khi sứ mạng đã được hoàn thành (Is 55: 10-11). Sách Đệ Nhị Luật cũng đã trình bày Lời Chúa như một nguồn sống nội tại: “Hãy để tâm vào tất cả những lời mà hôm nay tôi cảnh báo anh em, hãy truyền những lời đó cho con cái anh em, để chúng lo đem ra thực hành tất cả những lời của Luật nầy. Thật vậy, đó không phải là một lời trống rỗng đối với anh em, mà đó là sự sống của anh em, và nhờ lời ấy, anh em sẽ được sống trên đất mà anh em sắp qua sông để chiếm hữu” (Đnl 32: 46-47).
2. Chức năng xét xử của Lời Chúa:
Lời Chúa có chức năng xét xử bởi vì Lời Chúa có chức năng giáo huấn. Tác giả thư gởi tín hữu Do thái chuyển từ Lời Chúa có chức năng giáo huấn sang Lời Chúa có chức năng xét xử. Đây không phải là một ví dụ độc nhất. Thánh Gioan cũng theo cách thức như vậy: “Ai từ chối tôi và không đón nhận lời tôi, thì có quan tòa xét xử người ấy: chính lời tôi đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết” (Ga 12: 48).
Tác giả thư gởi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với thanh gươm hai lưỡi; đây không cốt là thanh gươm Công Lý, mà sách Khải Huyền trang bị cho Con Người vào ngày tận thế, vào ngày Chung Thẩm (Kh 1: 16; 19: 15). Tác giả thư gởi tín hữu Do thái so sánh Lời Chúa với một con dao mổ sắc bén của một nhà giải phẩu: Lời Chúa “xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy; lời đó là lời phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người”. Cuối cùng, tác giả đồng hóa Lời Chúa với chính Thiên Chúa: “Vì không có loài thụ tạo nào mà không hiện rõ ra trước lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ”.
Đây là lời cảnh báo nghiêm khắc được gởi đến các Ki-tô hữu đang chao đảo trong đức tin, nhưng ngay liền sau đó tác giả liên kết vị Thượng Tế biết cảm thương, là Đức Ki-tô, với những nỗi yếu hèn của chúng ta.
TIN MỪNG (Mc 10: 17-30)
Câu chuyện về một người giàu có nầy đều được cả ba Tin Mừng nhất lãm tường thuật, bởi vì đây là dịp, là cơ hội thuận tiện mà Đức Giêsu lợi dụng để minh họa một bài học kiểu mẫu cho những ai muốn trở thành môn đệ của Ngài. Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều kể lại câu chuyện này một cách xúc động và thống thiết, nét đặc trưng này rất dễ thấy trong câu chuyện của Tin Mừng Mác-cô.
Đức Giêsu vừa mới cất bước lên đường tiến về Giê-ru-sa-lem thì “có một người chạy đến”. Thánh Mác-cô thích làm sinh động những bài trình thuật của mình bằng những động từ chỉ sự chuyển động; ở đây, chi tiết nầy có giá trị của nó. Câu chuyện bắt đầu với hành động hối hả đầy thành tâm thiện chí của người này và kết thúc với thái độ tương phản sau cùng của anh: “Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chúng ta có thể nói đây là một câu chuyện về ơn gọi kết thúc không có hậu.
1. Sự sống đời đời:
“Sự sống đời đời” là diễn ngữ then chốt của toàn bộ câu chuyện nầy; nó được nêu lên ngay từ đầu với câu hỏi của chàng thanh niên này và ở cuối câu chuyện qua câu trả lời của Đức Giêsu với các môn đệ Ngài. Đây không chỉ là một ví dụ điển hình về lối hành văn đóng khung, nhưng còn định vị tấm thảm kịch sắp diễn ra trong chiều kích cốt yếu của nó. Vấn đề về những mối tương quan của người Ki-tô hữu với của cải được đặt ra tùy thuộc vào vấn đề cốt yếu nầy: cuộc sống mai hậu. Vì thế, các môn đệ xao xuyến tận đáy lòng.
Nỗi ưu tư của người này phù hợp với những nỗi bận lòng của những môi trường đạo hạnh Do thái giáo, ở đó người ta tranh luận về những viễn cảnh cánh chung: sự sống đời đời, chính là gia nghiệp mà Thiên Chúa hứa ban vào thời cánh chung. Phải làm gì để đảm bảo cho mình có được sự sống đời đời?
Người nầy ca ngợi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành” kèm theo một hành vi cử chỉ hết mực cung kính: “quỳ xuống trước mặt Người”. Thái độ nầy làm chứng rằng Đức Giêsu nổi tiếng là một vị kinh sư đặc biệt và người nầy tin rằng chỉ có Ngài mới có thể ban cho anh những lời khuyên có giá trị.
Tại sao Đức Giêsu thoái thác đức tính “nhân lành” nầy cho mình, khi mà lòng nhân lành của Ngài thì hiển nhiên, phải chăng là để hướng tâm trí của người đối thoại về Đấng là nguồn mạch của mọi sự nhân lành? Nếu Đức Giêsu có lòng nhân lành, chính vì Ngài đón nhận lòng nhân lành từ Thiên Chúa. Thánh Mác-cô có mối bận tâm là không quên thân phận làm người của Đức Giêsu.
Sau khi đã hiệu đính lời ca ngợi của chàng thanh niên, Đức Giêsu sắp cho anh ta một câu trả lời tích cực qua đó Ngài ngầm hàm ý rằng “Tôi đến không phải để hủy bỏ nhưng kiện toàn Lề Luật”.
2. Lời kêu gọi được gởi đến cho người giàu có này:
Thập Giới là nền tảng hàng đầu của Lề Luật. Đức Giêsu chỉ trích dẫn phần thứ hai của Thập Giới, phần liên quan đến những bổn phận của một người với anh em đồng loại của mình. Như thế, đối với Đức Giêsu, thực thi Thập Giới mà Đức Chúa đã truyền dạy là con đường bình thường và đầy đủ để đạt đến “sự sống đời đời”. Chàng thanh niên này mau mắn trả lời: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ”. Câu trả lời nầy chứng tỏ tấm lòng thành tâm thiện chí của anh trên con đường khao khát sự sống đời đời. Câu trả của anh gây ấn tượng mạnh nơi Đức Giêsu. Thánh Mác-cô là thánh ký duy nhất cung cấp chi tiết cảm động nầy: “Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến”.
Đối với chàng thanh niên đầy thành tâm thiện chí nầy, Đức Giêsu đề nghị anh đi xa hơn trên con đường khao khát sự sống đời đời: “Hãy về bán những gì anh có mà bố thí cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Sau đó, hãy đến theo tôi”. Đây không chỉ là tinh thần siêu thoát mà Đức Giêsu đòi hỏi anh, nhưng còn là một sự từ bỏ của cải để đạt cho bằng được: “kho tàng trên trời”. Đối với những ai muốn bước đi trên con đường nhân đức, Thiên Chúa luôn luôn đòi hỏi thêm nữa. Đối với những ai Thiên Chúa đem lòng yêu mến, Ngài không để cho kẻ ấy sống một đời sống tầm thường như bao nhiêu người khác. Thiên Chúa đã xử sự với các ngôn sứ của Ngài như thế nào; Đức Giêsu cũng hành xử với các môn đệ của Ngài cũng theo một cách như vậy. Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Chỉ mãi đến lúc nầy, chúng ta mới biết được người ấy rất giàu có và chính sự giàu có đã ngăn cản anh tích cực đáp trả tiếng gọi của Đức Giêsu.
Tuy nhiên, lý tưởng của sự nghèo khó không xa lạ gì đối với Do thái giáo. Các ngôn sứ đã ca ngợi lý tưởng nầy. Họ đã công kích những kẻ giàu có; họ đã công bố ơn cứu độ của Ít-ra-en nhờ một nhóm nhỏ còn lại, nhóm người bị tước đoạt tất cả, chỉ còn lại niềm tin tưởng phó thác vào Đức Chúa. Ấy vậy, chúng ta gặp thấy ở nơi những người Do thái đạo hạnh sống theo lý tưởng Do thái giáo, là lấy Lề Luật làm quy luật sống của mình để hướng tới “sự sống đời đời” là gia nghiệp Thiên Chúa hứa ban cho dân Ngài.
Còn ở đây, Chúa Giêsu được trình bày như là Đấng Mê-si-a đến mặc khải một lý tưởng còn cao hơn lý tưởng của dân Ít-ra-en: “Anh chỉ còn thiếu có một điều”: trung thành với Lề Luật của Thiên Chúa thì chưa đủ, còn phải bước theo Đấng mà Thiên Chúa sai đến. Trọng tâm của câu chuyện nầy không phải hệ tại ở việc từ bỏ của cải nhưng là gắn bó với Đức Giêsu, yêu mến Ngài trên tất cả mọi sự kể cả mạng sống của mình.
Chúng ta đừng quên rằng câu chuyện về ơn gọi bất thành nầy được ghi lại trên con đường Đức Giêsu nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem, tiến đến cuộc khổ nạn của Ngài. Như vậy, đức tin Ki-tô giáo vừa kiện toàn vừa hoàn tất đức tin Do thái giáo. Người ta không thể trở thành người Ki-tô hữu nếu không xem Đức Giêsu là trung tâm và là cứu cánh cuộc đời của mình được. Như một người gặp được viên ngọc quý hay kho tàng chôn dấu trong ruộng, người ta sẵn sàng đánh đổi tất cả để sở hữu cho bằng được Ngài như lời của thánh Phao-lô: “Ai có thể tách tôi ra khỏi lòng mến đối với Đức Ki-tô”.
3. Lời mời gọi được gởi đến với mọi người:
“Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh”. Đây là một ghi nhận đặc trưng của thánh Mác-cô (3: 5; 5: 32; 9: 8; 10: 23; 11: 11). Đây không là một chi tiết điểm tô cho câu chuyện; ý nghĩa của nó thì rõ ràng: Đức Giêsu ngỏ lời với dân chúng, chắc chắn đám đông đang vây quanh Ngài, nhưng không được kể ra, và cả đám đông vô hình của những Ki-tô hữu thuộc mọi thời: “Những người có của mà vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”. Vì nhận thấy các môn đệ hết sức kinh ngạc, nên Đức Giêsu lập lại đến hai lần lời cảnh giác của Ngài: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa, thật khó biết bao!”.
Việc sánh ví với con lạc đà chui qua lổ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa là một kiểu nói khoa trương Đông Phương để kích thích sự chú ý: sự giàu có là một trở ngại trên con đường cứu độ. Đức Giêsu đã nói rồi: “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6: 24). Sự kiện các môn đệ vừa mới chứng kiến là một bằng chứng tỏ tường. “Thế thì ai có thể được cứu?”, các môn đệ nêu lên câu hỏi nầy không chỉ vì người gắn bó với của cải thì đầy dẫy chung quanh họ; nhưng còn vì, theo truyền thống của cha ông họ, sự giàu có là dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa chúc phúc cho những người trung thành tuân giữ Lề Luật. Đức Giêsu trấn an họ bằng cách khai mở tâm trí của họ để họ thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa, mầu nhiệm ân sủng, mầu nhiệm của lòng xót thương: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì khác, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.
Chúng ta đừng quên thánh Lu-ca tường thuật câu chuyện của ông Da-kêu không xa mấy sau câu chuyện nầy, như vậy cho một ví dụ về ơn cứu độ của một người giàu có. Ông Da-kêu đã không bao giờ nghĩ đến việc bố thí một phần của cải của mình cho những người nghèo, nếu Đức Giêsu đã không viếng thăm gia đình của ông. Vấn đề là con người đáp trả như thế nào trước lời mời gọi chan chứa yêu thương của Thiên Chúa.
4. Phần thưởng dành cho những ai bỏ mọi sự mà theo Chúa Giêsu:
Các tông đồ không thể không so sánh thái độ của họ với thái độ của người giàu có nầy: họ đã bỏ mọi sự mà theo Ngài. Thánh Phê-rô nhân danh tất cả môn đệ nhắc lại điều đó. Đức Giêsu trả lời bằng cách nêu lên hai loại phần thưởng: phần thưởng được ban cho “bây giờ, ngay ở đời nầy” và phần thưởng được ban cho trong thế giới tương lai: “sự sống đời đời”.
Có nên hiểu một chuỗi những phần thưởng đầu tiên theo nghĩa đen? Chắc chắn, ai từ bỏ những người thân yêu và của cải quý giá của mình vì Đức Giêsu, người ấy sẽ gặp thấy ở giữa lòng cộng đoàn Ki-tô hữu, một đại gia đình. Nhưng lời giải thích theo nghĩa tinh thần thì có vẻ thật hơn. Thánh Mác-cô xem ra hiểu như vậy bởi vì thánh ký đặt sự bách hại vào giữa những phần thưởng trần thế. Chính ở nơi những phần thưởng tinh thần nầy mà những Ki-tô hữu đã sở hữu rồi, thánh Phao-lô ám chỉ đến khi thánh nhân viết cho các tín hữu Cô-rin-tô: “Bị coi là bịp bợm, nhưng kỳ thực chúng tôi chân thành; bị coi là vô danh tiểu tốt, nhưng kỳ thực chúng tôi được mọi người biết đến; bị coi là sắp chết, nhưng kỳ thực chúng tôi vẫn sống; coi như bị trừng phạt, kỳ thực chúng tôi vẫn luôn vui vẻ; coi như nghèo túng, nhưng kỳ thực chúng tôi làm cho bao người trở nên giàu có; coi như không có gì, nhưng kỳ thực chúng tôi có tất cả” (2Cr 6: 8-10).
33.Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm. GB. Phạm Hồng Thái
Ba tiêu chí mà các bạn trẻ cũng như người đời thường mong ước đó là: con nhà giàu, đẹp trai và học giỏi, nhưng thiết tưởng cần phải thêm tiêu chí quan trọng nữa đó là có chí hướng. Chúng ta thấy gì ở hai người thanh niên mà Phụng vụ Lời Chúa phác họa cho chúng ta hôm nay:
Trước hết là vua Salomon. Gọi vua Salomon là thanh niên vì ông lên ngôi vua kế vị Đavid lúc còn trẻ; Người thanh niên này đẹp trai, con nhà giầu và học giỏi là điều hiển nhiên rồi. Qua lời cầu nguyện của ông dâng lên Chúa, chúng ta còn thấy ông là người có chí hướng và biết biện phân đúng nữa. Ông không xin Chúa cho mình được giầu có, tất nhiên ông cũng rất cần của cải để mở mang phát triển đất nước và để xây đền thờ Giêrusalem cho thật hoàng tráng nữa; ông cũng không xin được gia tăng quyền bính và chiến thắng kẻ thù nhưng ông chỉ ưu tiên xin Chúa cho có được sự khôn ngoan để biết cai trị vương quốc theo đúng ý Chúa: sự khôn ngoan đây không những là có đầu óc thông minh sáng suốt biết phán đoán mọi sự việc chính xác mà sự khôn ngoan được nâng cao lên là chính Thiên Chúa như sách Khôn Ngoan đồng hóa với Thiên Chúa nữa. Cho nên chọn sự khôn ngoan là chọn chính Thiên Chúa.Vua Salomon đã chọn lựa đúng, đã cầu xin đúng nên Thiên Chúa đã ban cho ông sự khôn ngoan để rồi sau đó theo sau sự khôn ngoan, ông cũng có được giầu sang thịnh vượng nữa.
Người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay cũng là người giầu có và có chí hướng tốt vì anh có đời sống lương thiện, tuân giữ các giới răn Chúa, nhưng anh còn muốn vươn cao lên nữa nên anh tìm đến với Chúa Giêsu; thái độ của anh thật dễ thương: anh chạy đến với Chúa, khiêm tốn quì trước mặt Chúa và xưng ra Chúa Giêsu là thầy nhân lành. Chúa Giêsu tỏ ra thương mến anh, Chúa chăm chú nhìn anh. Rồi Chúa đề nghị với anh hai yêu cầu:
- Về bán đi tất cả gia tài đem bố thí cho người nghèo khó để có được kho báu trên trời
- Đến theo Chúa
Chúng ta thấy nếu anh đáp ứng được yêu cầu của Chúa thì anh sẽ trở nên môn đệ của Chúa như Matthêô hay như Phêrô, Gioan... Nhưng Lời Chúa dạy khiến anh sụ nét mặt xuống và buồn rầu bỏ đi: lí do vì anh có nhiều của cải. Có thể nói anh mở đầu thì thật vui, chan chứa hi vọng nhưng kết thúc lại là buồn rầu và bỏ cuộc. Vì sao? vì anh đặt của cải lên trên việc theo Chúa đúng như lời Chúa Giêsu đã dạy: "Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa và vừa làm tôi Tiền của được (Lc 16,13)" đương nhiên rồi vì như Lời Chúa: "Kho tàng anh em ở đâu thì lòng anh em ở đó (Lc 12, 34)".
Chúng ta cũng có thể đưa ra kết luận như sau : giữ 10 điều răn có thể giúp con người đạt được sự sống đời đời nhưng đó là ở thời kì Cựu ước, nay trong thời kì Tân Ước, Chúa Giêsu đã đến thế gian rao giảng Tin mừng và đã thành lập Hội thánh, thì muốn được vào Nước Trời chúng ta giữ các giới răn như người thanh niên này đã đành rồi nhưng còn phải tin theo Chúa nữa như lời Chúa kêu gọi
Chúa Giêsu dạy: "Hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó..." Giáo hội luôn hiểu đây là lời khuyên Phúc âm chứ không phải là nguyên tắc chung cho mọi người vì thế chỉ những người sống đời sống thánh hiến tuyên khấn giữ đức khó nghèo thì mới buộc làm như vậy, nhưng tinh thần khó nghèo và biết chia sẻ cho người nghèo khổ là điều Chúa dạy mọi người đều phải làm.
Trả lời ông Phêrô về việc các tông đồ đã bỏ mọi sự theo Chúa thì sẽ được gì? Chúa Giêsu hứa hai phần thưởng: một ở đời này và một đời sau: ở đời này thì được gấp trăm về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ con cái và ruộng nương cùng với sự bắt bớ. Cha giáo kinh thánh Inhaxiô Hồ Thông giải thích lời hứa này có tính cách tinh thần hơn là vật chất vì Tin Mừng Marcô có kèm theo lời "cùng với sự bắt bớ". Thực tế chúng ta thấy có những người bỏ mọi sự theo Chúa cũng được gấp trăm ngay ở đời này như các linh mục tận tụy với việc truyền giáo có được đông đảo những người con mà họ đã sinh ra trong đức tin, như thánh Phêrô được làm đầu Hội thánh, thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu trở thành vị thánh bổn mạng các xứ truyền giáo và còn được phong là tiến sĩ Hội thánh nữa, Mẹ Têrêsa Calcutta trong lễ tang có cả triệu người thương nhớ đưa tiễn Mẹ. Nếu những vị này không bỏ mọi sự theo Chúa thì đâu có được như vậy!
Điều quan trọng là phần thưởng ở đời sau: là được sự sống đời đời làm gia nghiệp cũng như khi các tông đồ sau khi đi truyền giáo về thì Chúa Giêsu cho biết:"Các con hãy vui mừng vì tên các con đã được ghi trên trời (Lc 10,17)"
Chúng ta theo Chúa trên con đường lữ hành về nhà Cha để được sự sống đời đời, ngoài việc giữ các giới răn như người thanh niên, chúng ta còn cần đến ơn sủng và Lòng thương xót Chúa nữa vì như Chúa Giêsu đã quả quyết với các môn đệ hôm nay: "Đối với loài người thì không thể được nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự". Amen.
34.Con sẽ được gì khi theo Chúa và phụng sự Ngài?--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng
“Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy” vậy thì, chúng con sẽ được những gì ở hiện tại và tương lai của chúng con sẽ ra sao? ACE rất thân mến, với câu hỏi này của Phêrô với Chúa, chắc hẳn, nhiều lần trong cuộc đời, chúng ta cũng đã hỏi Chúa như vậy. Thế thì, ACE đã nghe, đã cảm nghiệm được hay đã nhận ra câu trả lời của Chúa cho mình chưa? Vậy thì, chúng ta có còn muốn dấn thân để đi theo Chúa và để phụng sự Ngài hay không?
Có một người nói vui với tôi như thế này: “Cha coi, con theo Chúa, con giữ đạo Chúa, con đi nhà thờ, con làm việc cho nhà thờ cả một đời, mà cuối cùng con chẳng được gì, nhà cửa thì ọp ẹp, công ăn việc làm thì bấp bênh, nay có mai không …trong lúc người ta thì nhà lầu, xe hơi, giàu có, sung sướng, tiền bạc làm ra để không hết”. Thưa ACE, còn với chúng ta, chúng ta sẽ chọn lựa để theo ai, tôn thờ và phụng sự ai? Lời Chúa hôm nay như soi sáng hầu giúp chúng ta phân định lại chính thái độ và cung cách sống của chúng ta cho Chúa và cho tha nhân.
Bài đọc một (Kn 7, 7-11) mời gọi chúng ta cần phân định và lựa chọn, cái gì là cao quý nhất trong cuộc đời của mình, phải chăng là sự giàu sang, tiền bạc-của cải, sắc đẹp…hay là thần trí khôn ngoan và sự sáng đến từ Thiên Chúa? “Tôi lấy sự khôn ngoan làm hơn vương quốc và ngai vàng…Ðem so sánh sự giàu sang với sự khôn ngoan, tôi kể sự giàu sang như không. Tôi yêu quý sự khôn ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, tôi lấy nó làm hơn được sự sáng”. Thưa ACE, được thần trí khôn ngoan của Chúa, thì chắc ai cũng muốn, nhưng để chọn lựa và đánh đổi hay phải hy sinh nhiều thứ để sở hữu thì chưa chắc nhiều người đã muốn lựa chọn và làm theo. Thế nhưng, với những ai muốn theo Chúa, muốn chọn Chúa để phụng sự Ngài, thì chúng ta không có sự lựa chọn nào tốt hơn.
Bài đọc hai (Dt 4, 12-13) cũng đang mời gọi chúng ta phân định và lựa chọn lại, một bên là lời nói, là sự suy luận, phân tích, tính toán của con người, một bên là Lời Chúa và giáo huấn của Chúa, vậy thì, chúng ta muốn chọn và sống theo bên nào? Ngày nay, trong thời đại văn minh của kỹ thuật số, của khoa học kỹ thuật, của truyền thông và mạng xã hội…có rất nhiều người, đặc biệt là giới trẻ, đã dành hết cả thời gian để xem, tìm tòi, nghiên cứu, để sống ảo…cuối cùng thì chúng ta được gì, nếu không phải là bị stress, bị xáo trộn, bị hoang tưởng, bị sai lệch-lầm tưởng, rồi lại bị “gậy ông đập lưng ông”. Trong khi đó, với Kinh Thánh, với Lời Chúa, với lời dạy bảo-giáo huấn của Hội Thánh thì chẳng được mấy ai quan tâm, học hỏi, nghiên cứu và sống theo. Tệ hại hơn, có người lại còn chống đối, lên án, phỉ báng… Nhưng thưa ACE, “Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, thấu suốt đến nỗi phân rẽ linh hồn với thần trí, gân cốt với tuỷ não, phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn”. Thật vậy, chỉ một khi chúng ta biết khôn ngoan, sáng suốt để lựa chọn và sống với Lời Chúa thì chúng ta mới thực sự chiếm hữu được cả kho tàng ơn thánh vô giá mà Chúa dành riêng cho chúng ta.
Tin mừng (Mc 10, 17-27) hôm nay thuật lại, có một người đến thưa với Chúa: “Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?” với người này, thực ra từ lúc ban đầu, anh ta cũng có thiện chí, có ý hướng tốt. Thế nhưng, khi Chúa Giêsu đề nghị và cho anh lời khuyên, đúng ra là, Chúa cho anh bí quyết, cho anh chìa khóa để mở cửa vào kho tàng của sự sống đời đời, thì anh đã không muốn làm theo. “Ngươi hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo khó và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Ta. Nhưng người ấy nghe những lời đó, thì sụ nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải”. Thưa ACE, còn với mỗi người chúng ta, chúng ta có muốn đi tìm kho báu và sở hữu kho báu vô giá này là có được sống đời đời với Chúa hay không? Hay là chúng ta vẫn cứ muốn sở hữu cho mình những của cải, tiền bạc, vật chất và những thứ của cuộc sống trần gian này.
Quay trở lại với câu hỏi ban đầu mà Phêrô đã hỏi Chúa: “Ðây chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy”. Thật ra, khi suy cho cùng, như Phêrô, như các tông đồ của Chúa, như Thánh Phanxicô Assisi và bao nhiêu vị thánh khác, thì đúng thật, họ đã từ bỏ cả gia đình, tài sản, những người thân yêu… thật là đúng nghĩa, vì các Ngài từ bỏ mọi sự để theo Chúa. Còn với chúng ta, thưa ACE, chúng ta đã từ bỏ được cái gì, điều gì để mà theo Chúa đây? Được vài phút mỗi ngày để đọc kinh-cầu nguyện, được một giờ mỗi tuần để đi lễ, hay đã hy sinh ít thời giờ, tiền bạc để làm việc này việc kia…như vậy, là đã từ bỏ để theo Chúa rồi sao? Thế nhưng, nhiều người lại thường phàn nàn than trách Chúa: “Lạy Chúa, sao Chúa không thương con, sao Chúa lại nỡ để cho con phải chịu như thế này, thế kia…”
Thưa ACE, câu trả lời của Chúa Giêsu cho Phêrô, cho các môn đệ và cho mỗi người chúng ta, cho những ai đã và đang muốn theo Chúa, muốn chọn Chúa, muốn dấn thân để phụng sự Chúa và muốn chiếm hữu kho tàng vô giá là sự sống đời đời: “Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ lại không được gấp trăm ở đời này về nhà cửa, anh em, chị em, cha mẹ, con cái và ruộng nương, cùng với sự bắt bớ và ở đời sau được sự sống vĩnh cửu”. Với lời mời gọi và câu trả lời của Chúa Giêsu hôm nay, liệu rằng, chúng ta có còn muốn dấn thân để theo Chúa và phụng sự Ngài, chúng ta có còn muốn sở hữu Ngài cho riêng mình nữa không? Thật là khó và đúng ra là không thể nào, với tài sức và năng lực của con người chúng ta. Thế nhưng, nếu chúng ta biết cậy dựa vào ơn Chúa, biết nghe theo sự khôn ngoan của thần khí Chúa soi dẫn, biết bám víu vào sức mạnh cùng ơn thánh của Lời Chúa, thì chính Chúa là Đấng làm cho chúng ta có được và chiếm hữu được kho tàng vô giá mà lòng người chúng ta hằng mong ước nguyện cầu. “Ðối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự”.
Lạy Chúa, xin cho chúng con thực sự khao khát tìm kiếm Chúa, sở hữu Chúa cùng với ơn thánh của Ngài. Để với ơn khôn ngoan của Lời Chúa soi dẫn, chúng con luôn hết lòng yêu mến và phụng sự Chúa qua tha nhân. Lạy Mẹ Mân Côi xin giúp chúng con luôn biết chọn Chúa, biết xin vâng để thực thi thánh ý Chúa trong cuộc đời. Amen.
35.“Một điều còn thiếu!”--Lm. Xuân Hy Vọng
“Sống ở trên đời, khó lắm ai ơi
Sáng nắng, chiều mưa, chuyện của ông trời
Chẳng phải chuyện người, chuyện lạ, chuyện chơi
Mà lòng canh cánh, ruột gan rối bời.
Thà rằng chọn lựa cho xong một lần,
Nhưng hồn xao xuyến, chong vênh phân trần.
Dù biết lựa chọn là phần của ta
Không nhờ cậy dựa, một mình song pha...”
(Lm. Xuân Hy Vọng cảm tác)
Một khi sống trên gian trần này, đầu đội trời, chân đạp đất, không một ai trong chúng ta không khỏi đối diện với sự chọn lựa và quyết định, dù là việc nho nhỏ hay lớn lao, tầm thường hay vĩ đại. Chẳng phải những bậc hùng anh mới đưa ra những lựa chọn xác quyết, mà dân thường lại không thể! Chẳng phải ai có học vị cao mới có nhiều quyết định đúng đắn, mà các ông bà bô lão – những người chỉ biết dựa vào kinh nghiệm thực tế hay dân gian – chẳng quyết được chi?!
Các bài đọc Phụng vụ hôm nay giúp chúng ta không những biết chọn lựa điều gì phải đạo, mà còn giúp chúng ta mở tầm nhìn, hướng về việc lựa chọn thiêng liêng, và những điều không thể hư mất, nhưng tồn tại muôn đời. Vua Sa-lô-môn trong thời Cựu ước được mệnh danh là vị vua khôn ngoan, thông thái nhất. Chẳng phải nhờ trí khôn loài người, mà bởi lẽ ông đã không cầu xin Thiên Chúa những thứ khác ngoài sự khôn ngoan, thông hiểu để ông hết lòng lo cho dân tộc. Với lí lẽ của một con người thuần tuý, chắc hẳn, vua Sa-lô-môn cũng rất đắn đo, cẩn trọng khi đưa ra quyết định, lựa chọn giữa sự khôn ngoan với danh vọng, tiền tài, chức vị, sắc đẹp, sức khoẻ v.v...Nhưng thiết nghĩ, ông không nuối tiếc gì khi chọn lựa đồng hành với sự khôn ngoan như lời bài đọc I diễn tả: “Ðức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng, còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với Ðức Khôn Ngoan” (Kn 7, 8); và hơn thế, ông sống chết với quyết định của mình “Tôi yêu quý sự khôn ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, tôi quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ đẹp của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi. Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt đẹp đến cùng tôi, và nhờ Đức Khôn Ngoan, tôi được đoan chính không kể xiết” (x. Kn 7, 10-11). Đối với chúng ta thì sao? Có lẽ chúng ta có ‘khôn', nhưng chưa ‘ngoan’, có ‘khôn lỏi, khôn lanh’ nhưng chưa phải là khôn ngoan theo đường lối Chúa, theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh, theo giảng huấn của Giáo hội!
Trái với hình ảnh vua Sa-lô-môn, chàng thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay lại do dự, rồi thoái lui trước sự lựa chọn mà có thể nói đánh đổi cả hoài bão, viễn cảnh, mơ ước, cuộc sống giàu sang, sung túc của anh, v.v...hầu được hưởng trọn niềm vui hạnh phúc viên mãn với Đấng Khôn Ngoan, và được thông phần vào suối nguồn sự sống vô biên như Thánh sử Mác-cô kể lại: “...nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (x. Mc 10, 22). Không ít người trong chúng ta nghĩ rằng: theo Chúa là giữ giới răn, đi lễ, đọc kinh cầu nguyện là đủ rồi! Điều này chẳng sai, nhưng chưa đủ, vì những việc đó rất hữu ích, tốt đẹp và phải đạo, giúp chúng ta đến gần với Chúa và tha nhân hơn. Tuy nhiên, chúng ta có thể hành động như anh thanh niên khi đón nhận ánh mắt trìu mến, thân thương của Chúa Giê-su, và khi nghe lời thổ lộ của Người: “Con chỉ thiếu một điều, là hãy đi bán tất cả gia tài, đem bố thí cho người nghèo, và ngươi sẽ có một kho báu trên trời, rồi đến theo Thầy” (x. Mc 10, 21). Để được diễm phúc hưởng phần gia nghiệp Nước Trời, chúng ta được mời gọi đánh đổi, chọn lựa phải hy sinh những gì có lẽ chúng ta đang đánh giá rất quý giá, cao sang, hầu sẻ chia, ra tay trợ lực bất cứ ai đang cần đến chúng ta. Không nhất thiết phải là chia san của cải vật chất, đồ đạc, thức ăn, mà còn san sẻ, dành thời giờ cho anh chị em nữa. Nói đến đây, tôi nhớ đến câu chuyện. Một sơ đến hỏi tôi rằng: “Thưa cha, con đã bỏ hết mọi sự, của cải, vật chất, bạn bè, gia đình để đáp lời Chúa mời gọi con bước vào đời sống thánh hiến, phục vụ. Thế nhưng lời Chúa Giê-su nói với chàng thanh niên như nói với con rằng: “Con còn thiếu một điều?” Vậy điều con còn thiếu là việc gì ạ?” Nghe câu hỏi đó, tôi liền mỉm cười và trả lời: “Chúa nói với con, thì con phải hỏi Chúa, chứ sao hỏi cha…!” Nói thì nói vậy thôi, nhưng chúng ta cũng biết, nhiều lúc chúng ta viện dẫn không có thời giờ cho anh chị em, nào là: “Tôi bận lắm! tôi còn phải làm nhiều việc!….” Lắm lúc, chúng ta bỏ hết như lời sơ kia nói, nhưng để chia san, sống đức bái, chúng ta còn có thể dành thời gian cho anh chị em, dành tiếng nói động viên, hỗ trợ, an ủi, nâng đỡ anh chị em nữa, chứ không chỉ san sẻ của cải, vật chất, đồ đạc…Thực tế cho chúng ta thấy, nhiều người sẵn sàng cho đi thứ họ có, nhưng lại do dự dành thời gian cần thiết cho gia đình, cho giáo xứ, cho hội dòng, cho những người cần đến mình. Ngược lại, cũng không ít người lại phung phí thời gian cho những việc vô bổ như: bàn tàn, ngồi lê đôi mách, đồn thổi, nói chuyện về người khác (nhất là người vắng mặt)…, mà không biết dùng thời gian, những gì mình có (như khả năng, tài năng, nguồn liệu…) để cùng nhau cầu nguyện, học hỏi-chia sẻ Lời Chúa, cùng nhau chung tay làm việc bác ái, vì chưng tác giả thư Do Thái xác quyết: “Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, linh nghiệm, sắc bén hơn mọi thứ gươm hai lưỡi, thấu suốt đến nỗi phân rẽ linh hồn với thần trí, gân cốt với tuỷ não, phân tách tình cảm với ý nghĩ của tâm hồn” (Dt 4, 12).
Tóm lại, đời sống đạo không chỉ giới hạn ở việc cầu nguyện, đi lễ, lãnh nhận các Bí tích mà thôi, song song với những việc thiết yếu và quan trọng đó, chúng ta còn cần tín thác, bước theo Đấng Khôn Ngoan (Chúa Thánh Linh), dám ra đi sẻ chia, trung thành với con đường mà Chúa Giê-su đã đi, bằng cách sống bác ái, chia san với hết mọi người. Không những san sẻ của cải vật chất, điều mình có, mà còn biết dành thời giờ cho anh chị em cần đến mình, dành lời nói khuyến khích động viên, yên ủi tha nhân. Như vậy, sự việc lãnh nhận đời sống muôn đời “đối với loài người thì không thể được, nhưng không phải đối với Thiên Chúa, vì Thiên Chúa làm được mọi sự” (Mc 10, 27).
Ôi ánh mắt nhân từ, chạm vào lòng con
Ôi Lời Chúa sắt bén, ghi khắc tâm trí con
Ôi Đức Khôn Ngoan hằng luôn dẫn lối con!
Xin cho con biết đón nhận đôi mắt ấy,
Xin cho con sống trọn vẹn Lời hằng sống,
Xin cho con mãi theo con đường Yêu thương. Amen!
36.Là kitô hữu, trước tiên chúng ta phải phục vụ người nghèo--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
Kinh Thánh có thể thử thách chúng ta về lối sống và suy nghĩ, mời gọi chúng ta chiến đấu với thế gian cũng như gợi lên những hành vi tốt hoặc xấu với những bản văn khác nhau. Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng hôm nay thôi thúc việc nhận thức và hành động, nhấn mạnh đến giá trị của khôn ngoan và nhu cầu phục vụ người nghèo.
Bài đọc một trích sách Khôn ngoan của vua Salômôn. Đây là một trong những quyển sách thuộc qui điển Hy Lạp của Cựu ước, được đưa vào Kinh Thánh của Công giáo và Chính Thống giáo. Như trong sách Châm ngôn, Đức Khôn ngoan cũng là đề tài nổi bật trong sách Khôn ngoan. Bài đọc hôm nay mô tả một người đang cầu xin Đức Khôn ngoan ngự đến, vì Đức Khôn ngoan quý giá và được yêu chuộng hơn cả quyền lực, giàu sang, sức khỏe và sắc đẹp. Bản văn nhắc nhở chúng ta cần thấy rõ và tìm hiểu, am tường cũng như đón nhận khôn ngoan để sống đúng đắn.
Tin mừng theo thánh Máccô nhắc nhớ chúng ta phục vụ người nghèo và thách đố sống vị tha. Trong bài Tin mừng, Đức Giêsu gặp một thanh niên đạo đức đến hỏi về những việc phải làm để được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Đức Giêsu nhấn mạnh năm điều được ghi trong Mười Điều răn: chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian và thảo kính cha mẹ. Theo thánh Máccô, Đức Giêsu cũng thêm yêu cầu chớ gian lận. Yêu cầu này vốn không có trong trình thuật của Tin mừng Mátthêu hay Luca, có thể ám chỉ đến luật chớ ham muốn tài sản của người khác (Xh 20,17 và Đnl 5,21). Điều này có thể bị ảnh hưởng bởi luật phản đối việc không chịu trả lương cho người làm thuê (Đnl 24,14), cũng như có thể phản ánh vấn đề gian dối trong cộng đoàn của thánh Máccô.
Đức Giêsu xác nhận các luật lệ của người Do Thái và bổ túc thêm khi nhấn mạnh với người thanh niên: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi”. Quan tâm chăm sóc người nghèo là điều căn bản đối với Tin mừng. Đức Giêsu nối kết hành động này với tình yêu vị tha mà Ngài làm gương qua sứ vụ và hy tế trên Thập giá. Hơn nữa, Ngài yêu cầu những ai đi theo Ngài phải ghi nhớ việc sống với tha nhân, nhấn mạnh việc phục vụ, hành động và hy sinh. Cần lưu ý là việc Đức Giêsu bảo anh thanh niên bán của cải rồi sau đó quay trở lại với Ngài cho thấy rằng hành động quên mình phải đi trước việc gia nhập cộng đoàn đức tin.
Bài Tin mừng hôm nay là một lời nhắc nhở khác về việc thực hành đời sống đức tin. Đôi khi sứ điệp này có thể thấy được qua sứ vụ chữa lành cũng như phục vụ của Đức Giêsu, nhưng ngày nay chúng ta nghe nói đến sự quên mình như một khía cạnh của việc tham dự trọn vẹn trong đức tin vào Đức Kitô. Chúng ta đáp trả lệnh truyền này như thế nào? Chàng thanh niên trong bài Tin mừng đã bị sốc và hụt hẫng trước lệnh truyền từ bỏ hết tài sản. Các môn đệ thì sững sờ và xem điều này là bất khả thi. Dù đó là lệnh truyền khó hay dễ, thì Tin mừng vẫn rõ ràng nhấn mạnh đến việc chăm sóc người nghèo.
Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/09/16/word-liturgy-lectionary-readings-241402
37.Người tự do--Lm. Hồng Phúc
“Vì anh có nhiều của cải”
Trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đề cập đến hai điều. Đó là tình và tiền; tình yêu phụng sự Thiên Chúa và tiền bạc nhiều khi phản lại lý tưởng Chúa.
Một thanh niên được Chúa chú ý và kêu gọi đáp lại tình yêu của Ngài. Anh vốn là người đạo đức từ thuở nhỏ. Anh nói: “Những giới răn ấy, con đã giữ từ thuở nhỏ”. Nhưng hôm nay, Chúa kêu gọi anh tiến lên một bậc nữa, để đáp lại tình yêu của Ngài, là “bỏ, bán, bố thí” của cải và theo Ngài. Tình yêu đòi hỏi cởi bỏ để đi theo, như người vợ thương chồng, bỏ tất cả để theo chồng, “chồng đi hang rắn hang rồng cũng theo”. Nhưng người thanh niên này bỏ không đành, “bỏ thì thương vương thì tội”, anh bị chi phối quá nhiều. Phúc Âm nói: “Vì anh có nhiều của cải”. Tiền đã thắng anh.
Nhân cơ hội này Chúa Giêsu đã nói về tiền của. Ngài không lên án người có của. Ngài biết “đồng tiền nối liền khúc ruột”, cần có tiền để sống, để giữ đạo nữa, “có thực mới vực được đạo”. Nhưng Ngài lên án sự ham mê tiền bạc. Tiền của hay làm người ta ham mê dính bén. Tiền bạc hay làm cho lòng người ta đen bạc, khó vào Nước Thiên Đàng. Chúa phán: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Chúa”. Câu nói ấy có nghĩa làm sao? Đây là một từ ngữ Á đông để chỉ một việc làm rất khó. Sách Talmud của Do thái cũng có một thành ngữ tương tự: “Khó như con voi chui qua lỗ kim!”
Thật ra Chúa Giêsu không lên án người giàu cũng không chúc lành cho người nghèo. Những người “đàn bà thánh thiện” đi theo Chúa, họ là những người giàu có, đem tiền của trợ giúp Ngài và các môn đệ trong công việc truyền giáo, họ đâu bị kết án. Cũng như khi Maria, em của Martha và chị của Lagiarô, đem bình thuốc thơm mà Giuđa đánh giá đến 300 đồng (công nhật một người thợ thời ấy là một đồng), Ngài không chối bỏ cử chỉ yêu mến đó. Cũng như nhiều lần, Ngài đi dự những bữa ăn sang trọng của người biệt phái giầu có (Lc 7,36-38; Mc 14,3-9), hay những người thâu thuế có tiền (Lc 19,1-10). Vậy, Chúa lên án sự gì?
Ngài lên án những người không biết dùng tiền của, làm nô lệ tiền của. Thật khó cho người giầu, có thể trở nên một Kitô hữu chân thật khi họ coi đồng tiền là chúa tể. Điển hình là người thanh niên hôm nay, anh không dám hay không đành dấn thân theo chân Chúa, như Phêrô và các bạn ông đã làm.
Chỉ có những người có tinh thần nghèo khó Phúc Âm mới là những người tự do, những chứng chân thật sự và quả cảm. Phaolô nói: “Chúng tôi là những kẻ được coi là không mảy may, nhưng lại được mọi sự làm sở hữu” (IICor 6,10). Và chị Thánh Têrêxa nói: “Từ khi tôi từ bỏ mọi sự, tôi sống thật hạnh phúc, tôi như được sống lại”.
Người từ bỏ tất cả được Chúa cho tất cả.
Thánh Giuse Corrodengo (1786-1842) là gương mẫu từ bỏ mọi sự, sống phó thác vào tình yêu và sự quan phòng của Chúa. Mỗi ngày, tiền của người ta bố thí, còn dư bao nhiêu, người dạy đem chia sẻ cho người nghèo. Người điều khiển một cô nhi viện với 700 trẻ ở Turin (Ý). Một hôm giờ cơm đã gần đến mà nhà bếp xem ra chưa “động tĩnh” gì cả. vả lại túi tiền đã cạn. Chị nữ tu quản lý chạy vào báo động. Thánh nhân bảo: “Cứ cho các em sắp hàng vào nhà cơm như thường lệ”. Rồi ngài chạy vào nhà thờ cầu nguyện. Bỗng dưng có tiếng chuông nhà khách vang reo. Một tiểu đội lính hớt hải chạy vào thưa: “Lạy cha, tiểu đoàn chúng con đi hành quân, gọi về cho ban ẩm thực biết sẽ không về kịp... Vậy xin cha nhận của ăn chúng con đã nấu sẵn, cho các em cô nhi!”
Thánh nhân qua đời lúc 56 tuổi, sau khi đã lập hai dòng nữ Bác Ái và hai dòng nam để tiếp tục công việc. Ngài được Đức Piô XI tôn phong hiển thánh ngày 19-5-1934.
“Thầy bảo thật các con, chẳng ai bỏ nhà cửa, anh em chị em, cha mẹ, con cái, đồng ruộng vì Thầy và vì Phúc Âm... mà không được gấp trăm ở đời này và đời sau được sự sống vĩnh cửu” (Mc 10,29-30).
38.Tiền bạc là phân bón của ma quỷ--Lm. G.B. Văn Hào SDB
Đã có một thời, người dân Philippines hết lời ca tụng ông Joseph Estrada. Ông là vị tổng thống thứ 9 của một đất nước có rất đông người công giáo. Bản thân ông cũng là một tín hữu sùng đạo nên đông đảo dân chúng quý mến và ngưỡng mộ ông. Trong con mắt người dân, ông là một vị lãnh đạo liêm chính, sống giản dị và rất quảng đại. Lễ tuyên thệ nhậm chức của ông không ồn ào rình rang và quá tốn kém. Ông lưu tâm đến người nghèo, đặc biệt các cư dân vùng nông thôn hẻo lánh, và ông tuyên bố: “Tôi là vị tổng thống của người nghèo”. Nhưng chỉ một thời gian ngắn sau khi ông lên cầm quyền, niềm tin của dân chúng đặt để nơi ông đã hoàn toàn sụp đổ. Ông Estrada bị báo chí phanh phui vì hàng tháng ông vẫn nhận một khoản tiền lớn từ các sòng bài phi pháp, để nhắm mắt làm ngơ cho họ kiếm chác. Đồng tiền đã làm tối mắt ông và làm sói mòn niềm tin dân chúng nơi ông. Thậm chí, Đức Hồng Y James Sheen Tổng Giám mục giáo phận Manila đã mạnh mẽ lên tiếng đòi ông phải từ chức, vì sự nhơ bẩn ông tạo ra khiến ông không còn xứng đáng là người cầm quyền. Chính đồng tiền đã biến một vị lãnh đạo mẫu mực trở nên một con người đầy tai tiếng, một nhân vật được mọi người nể trọng trở nên đối tượng khiến dân chúng khinh ghét.
Đây chỉ là một trong muôn vàn ví dụ liên quan đến tham nhũng đang xảy ra nhan nhản trong xã hội hiện nay. Đồng tiền dù ở bất cứ thời đại nào, xã hội nào vẫn luôn là tên cám dỗ khủng khiếp nhất gặm nhấm phẩm chất đạo đức và tư cách của con người.
Hình ảnh chàng thanh niên mà bài Tin mừng hôm nay thuật lại, lột tả bức chân dung hiện sinh của các Kitô hữu chúng ta ngày hôm nay. Anh ta ao ước muốn nên trọn lành. Anh đã sống tử tế và nghiêm túc, tuân thủ các luật lệ từ nhỏ. Khi đến trình diện Đức Giêsu và bày tỏ ao ước của mình, Chúa Giêsu đã đặt ra cho anh một thách đố: “ Nếu muốn nên trọn lành, anh hãy về bán hết của cải, phân phát cho người nghèo, rồi đến theo tôi”. Người thanh niên sa sầm nét mặt và lặng lẽ bỏ đi (Mc 10, 22). Tiền bạc và của cải vật chất đã trở nên như một rào chắn khổng lồ cản che, khiến anh không thể bước tới và thực hiện ước muốn tốt lành của mình.
Tiền bạc là phân bón của ma quỷ
Đây là câu nói của thánh Phanxicô Assisi. Ma quỷ đã dùng loại phân bón độc chiêu này gây ra biết bao sự dữ trên trần gian. Những cuộc chiến tranh tàn khốc xảy ra khắp nơi trên thế giới, cũng chỉ vì tranh chấp những nguồn tài nguyên béo bở giữa các quốc gia. Sự đổ vỡ trong các gia đình đa phần cũng chỉ vì đồng tiền bát gạo. Chúng ta không lạ lẫm gì khi thấy cảnh những anh em ruột thịt, hoặc ngay cả cha mẹ và con cái đưa nhau ra tòa kiện cáo cũng chỉ vì tranh giành vài ba thước đất. Một ông chồng không có khả năng làm ra tiền, ngày nào cũng phải ngửa tay xin vợ, chắc chắn sẽ rơi vào mặc cảm và chẳng còn gì là khí phách nam nhi để điều khiển gia đình. Dân gian vẫn nói: “Tiền là tiên là phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của cụ già, là cái đà danh vọng, là cái lọng che thân, là cán cân công lý…” Nói chung, tiền là tất cả, đồng thời nó cũng chính là bóng ma vô hình đang phủ bóng trên tất cả mọi ngõ ngách của cuộc sống đời thường chúng ta. Khi Đức Giêsu đến trần gian, Ngài đã mạnh mẽ tuyên chiến với tiền bạc. Ngài nói “ Không ai có thể làm tôi hai chủ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền của được” (Mt 6, 24). Trong bài Tin mừng hôm nay, Đức Giêsu còn mạnh mẽ khẳng quyết: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào nước Thiên Chúa” (Mc 10, 25). Lời tuyên bố của Đức Giêsu mang chở sứ điệp gì đối với chúng ta hôm nay khi đang sống giữa một xã hội luôn đề cao sự giầu có?
Mối phúc đầu tiên
Nghèo khó chính là mối phúc dẫn đầu trong tám mối phúc: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó vì nước trời là của họ”. Đây là mối phúc quan trọng nhất và cũng là điều kiện đầu tiên Chúa đặt ra cho những ai muốn trở nên môn đệ Ngài. “Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng con người không có chỗ gối đầu” (Lc 10, 58). Trong ba năm rao giảng, Chúa Giêsu đã nêu gương cho chúng ta một cách cụ thể. Ngài không phải là lý thuyết gia, cũng không phải là một nhà mô phạm chỉ nói suông trên đầu môi cửa miệng. Ngài đã sống tận căn lối sống khó nghèo, như Thánh Phaolô đã xác quyết: “Người vốn giàu sang phú quý, nhưng đã tự nguyện trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình làm cho anh em nên giàu có” (2C 8, 9).
Khi còn sống ẩn dật tại Nazareth, Đức Giêsu cũng phải lao động, phải mướt mồ hôi để kiếm sống. “Ngài sống giống hệt như chúng ta ngoại trừ tội lỗi” (Dt 4, 15). Trong những năm rao giảng, Ngài đã thể hiện một lối sống xem ra có vẻ khá bấp bênh: “Con chồn có hang, chim trời có tổ nhưng con người không có nơi gối đầu”. Đức Giêsu còn là một ‘chuyên gia’ đi vay mượn. Ngài mượn một chiếc thuyền chèo ra xa để giảng dạy dân chúng. Tiến vào Giêrusalem, Ngài cũng sai học trò đi mượn một con lừa. Tổ chức bữa tiệc vượt qua trước khi đi thụ nạn, Ngài cũng mượn ngôi nhà của một người giàu có. Thậm chí sau khi chết, Ngài cũng được mai táng trong phần mộ mượn đỡ của một người khác chứ không phải của mình. Về tài sản vật chất, Đức Giêsu hoàn toàn không sở đắc bất cứ thứ gì.
Tuy nhiên, Đức Giêsu cũng đã vui vẻ nhận sự trợ giúp của những phụ nữ giàu có và đạo đức. Ngài còn cắt đặt Giuđa quản lý túi tiền để chi dùng cho cả nhóm 12. Ngài vẫn đến dùng bữa tại nhà những người nhiều tiền lắm của như Giakêu hay những người biệt phái. Ngài còn chọn hai người con ông Giêbêđê làm môn đệ, những người không phải thuộc thành phần bần cố nông, nhưng ít ra cũng thuộc dạng tiểu tư sản, vì nhà có thuyền, có lưới, có cả những người làm công. Thế thì tại sao Chúa lại kết án những người giàu một cách đanh thép như trong bài Tin mừng hôm nay.
Chắc chắn tiêu chí đầu tiên để trở thành môn đệ Chúa Giêsu là phải từ bỏ tất cả: cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, từ bỏ hết không chừa lại cái gì. Khi sai các học trò đi thực tập truyền giáo, Ngài chỉ trang bị cho các ông món hành trang duy nhất là ‘năng quyền để trừ quỷ và chữa trị các bệnh tật’, ngoài ra không có gì hết: không tiền bạc, không mặc hai áo, không bao bị, giầy dép... Các thánh ký diễn tả với một vài chi tiết thay đổi, tùy theo não trạng văn hóa của từng loại độc giả, nhưng những chi tiết đó không quan trọng. Điểm nhấn duy nhất Chúa nhắm đến chính là sự thanh thoát, cắt đứt mọi dính bén nơi của cải vật chất. Đây là cốt lõi của tinh thần nghèo khó phúc âm mà Chúa nhấn mạnh.
Có nhiều hiền sĩ hay những bậc thánh hiền đời xưa sống một cuộc sống rất thanh bạch. Hoặc có những vị quan thời trước đã rũ bỏ quyền cao chức trọng và cuộc sống vương giả nơi triều đình để rút lui về ở ẩn, sống một cuộc sống giản dị và khiêm tốn. Nhưng những lối sống ấy chưa phải là tinh thần khó nghèo mà Chúa mời gọi. Đối với nhiều người, cái nghèo đến với họ chỉ là một tình trạng kinh tế bất đắc dĩ mà họ phải gánh chịu, và chắc chắn đó không phải là nghèo khó phúc âm mà họ tự nguyện dấn bước vào. Có thể họ đã từ bỏ mọi sự thế gian, nhưng còn thiếu một điều rất quan trọng, đó là điều mà các tông đồ đã thưa với Chúa trong bài Tin mừng hôm nay: “Thưa Thầy chúng con đã bỏ mọi sự và theo Thầy, chúng con sẽ được những gì?” Bỏ mọi sự thì tốt, nhưng chưa đủ. Còn phải tiếp bước dấu chân của Chúa để trở nên môn đệ Ngài. Đây cũng là điều Đức Giêsu nói với chàng thanh niên hôm nay: “Hãy bán đi những gì anh có cho người nghèo, rồi đến theo tôi”. Người môn đệ phải sao chép lại phong thái nghèo khó nơi Đức Giêsu. Không phải chỉ là từ bỏ của cải vật chất, nhưng là khước từ tất cả những gì chúng ta đang có, đang chiếm hữu, thậm chí ngay cả mạng sống: “Ai theo tôi hãy bỏ mình vác thập giá mình hằng ngày và theo tôi”. Đó là căn gốc của tinh thần nghèo khó mà Chúa nói đến, và đây cũng chính là linh đạo Thập giá mà chúng ta phải suy niệm để sống mỗi ngày.
Nếp sống trưởng giả
Đức Thánh Cha Phanxicô trong hơn hai năm trên cương vị Giáo hoàng đã khá nhiều lần cảnh báo về một lối sống trưởng giả, đặc biệt nơi các linh mục, các Giám mục, và cả các Hồng y. Sau khi đắc cử Giáo hoàng, Ngài đến quầy tiếp tân của khu nhà nghỉ trong Vatican để lấy tiền túi trả tiền phòng giống như mọi người. Khi còn là Hồng y tại Argentina, Ngài vẫn sử dụng chiếc xe hơi cũ kỹ như một người nghèo. Trong bất cứ cuộc tông du nào, Ngài luôn xếp chương trình để đến thăm các khu ổ chuột, đến các nhà tù hoặc những vùng dân cư nghèo khổ nhất, và Ngài gọi đó là vùng ven (periphery). Trong chuyến tông du tại Mỹ, Ngài đã từ chối bữa ăn sang trọng mà các nghị viên khoản đãi để đến dùng bữa với những người vô gia cư, những kiều dân khố rách áo ôm lang thang lếch thếch. Không phải chỉ một lần, Ngài đã nói thẳng thừng về hiện tượng các vị mục tử rất đáng kính, sử dụng những chiếc xe hơi quá sang trọng và xa xỉ, những thứ chỉ dành cho giới thượng lưu. Đây là lối sống trưởng giả mà Ngài nói khá nhiều lần. Nhiều bậc vị vọng đã chột dạ, đổi xe khác rẻ tiền hơn, hoặc có một Giám mục ở Hoa Kỳ đã phải bán dinh thự Giám mục xa xỉ của mình để mua lại một tòa nhà khác khiêm tốn hơn, giản dị hơn. Chắc chắn, Đức Thánh Cha không cổ vũ một lối sống bần cùng hay cơ cực, nhưng Ngài nhìn thấy nguy cơ của một phong thái thích sống hưởng thụ (consumerism), làm lu mờ căn gốc nghèo khó và làm mất đi chứng tá những giá trị Tin mừng nơi các vị mục tử trong Giáo hội.
Kết luận: Ngẫu tượng tiền bạc
Nhà văn Anderson viết một câu chuyện rất ngắn khá ý nghĩa. Một người hành khất đói khổ đến gõ cửa nhà một người giàu có để ăn xin. Anh chàng nhà giàu nứt khố đổ vách nhưng lại rất keo kiệt, nhất định không cho cái gì. Nhìn quần áo lôi thôi lếch thếch và khuôn mặt lem luốc của người ăn mày, tên nhà giầu đã không bố thí còn từ trong nhà mỉa mai nói vọng ra: “ Hình như anh vừa mới từ dưới hỏa ngục chui lên thì phải. Nhìn bộ mặt và quần áo của anh, tôi đoán thế”. Người hành khất nuốt nhục trả lời: “Thưa ông, đúng vậy. Ông nói quả không sai chút nào, tôi mới ở dưới hỏa ngục chui lên đây. Ở dưới đó hết chỗ rồi. Những người giầu có và keo kiệt như ông đã đầu tư tiền bạc mua hết đất rồi. Đất ở dưới đó ngày càng mắc, nhất là đất mặt tiền. Không còn chỗ để ở, tôi phải chui lên đây.”
Sự giàu có mà Chúa kết án trong bài Tin mừng hôm nay chính là sự keo kiệt, cứ mãi bấu víu vào của cải vật chất một cách ích kỷ. Khi con người thượng tôn tiền bạc, lấy tiền bạc làm thước đo mọi giá trị, họ sẽ dần dần gạt bỏ Thiên Chúa ra bên ngoài. Đây chính là cách sống vô thần trong thực hành. Điều đó chẳng khác gì việc tôn thờ ngẫu tượng (idolatry), giống như dân Do Thái tôn thờ con bò vàng năm xưa. Đây cũng là lời cảnh báo mà Chúa Giêsu đã nói trong bài Tin mừng hôm nay. Cũng tương tự, thánh Augustinô dạy chúng ta: “Bạn hãy mở to mắt nhìn xem một người giàu có keo kiệt đang giẫy chết. Tôi cam đoan rằng đó là cái chết thảm khốc và ghê sợ nhất, bởi vì họ sẽ ra đi mà chẳng mang theo được cái gì họ vẫn đeo bám.”
39.Trăn trở--Lm. Minh Anh
Trong tác phẩm văn học Le Petit Prince, Saint Exupéry kể rằng: "Khi Hoàng Tử Bé đến trái đất, người đầu tiên mà cậu gặp là một cụ già làm nghề đốt đèn. Một công việc thật ý nghĩa và dễ thương, cụ đốt đèn thắp sáng địa cầu mỗi tối và tắt đèn mỗi sớm mai khi mặt trời lên. Thế nhưng, vừa gặp cậu bé hoàng tử, cụ thở dài: "Công việc của tôi nay thật kinh khủng. Ngày trước mọi việc hợp lý hơn. Mỗi tối tôi đốt đèn và suốt đêm được ngủ nghỉ, mỗi sáng tôi thắp đèn và cả ngày được thư thái. Ngày trước trái đất quay chậm, bây giờ nó quay ngày một nhanh". Cậu bé hỏi: "Yêu cầu của công việc vẫn không thay đổi sao?". Cụ đáp: "Đó là bi kịch, hành tinh này quay ngày càng nhanh mà yêu cầu của công việc vẫn không thay đổi. Sự việc trở nên tồi tệ, đến nỗi cứ nửa giờ, hành tinh quay hết một vòng và như thế, ngày cũng như đêm, tôi không có một chốc nghỉ ngơi,...tôi phải đốt đèn và tắt đèn liên lỉ".
Các bạn trẻ thân mến,
Phải, bất cứ nơi đâu, nhịp sống hôm nay xem ra quá vội vã. Những bước chân bách bộ ngày càng trở nên hiếm hoi và dường như mỗi khi ra đường, người ta đâm đầu chạy. Vậy thử hỏi, có bao giờ chúng ta dừng lại để đặt một câu hỏi tương tự như câu hỏi của người thanh niên trong bài Tin Mừng hôm nay?
"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Trăn trở của người thanh niên có phải là trăn trở của mỗi chúng ta không? Cái thao thức mang chiều kích vĩnh cửu nơi anh có bao giờ xuất hiện trong ngày sống của chúng ta không? Vì rằng, ngày mỗi ngày, dù ở đấng bậc nào, là cha mẹ, là giáo viên, là công chức, là mục tử, là sinh viên, học sinh... tất cả chúng ta đều được mời gọi vươn lên, hướng lên, và tiến lên ở một cấp độ cao hơn, nhanh hơn và xa hơn trong tình yêu.
"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Để có thể đặt ra câu hỏi ấy, hẳn người thanh niên kia phải suy nghĩ, phải trằn trọc nhiều đêm. Để có thể thốt lên cái thao thức mang tính vĩnh cửu ấy, hẳn người bạn trẻ đó phải lặng yên khắc khoải nhiều ngày. Anh phải nhiều lần rút lui khỏi cái huyên náo động đạc thường ngày để đắm mình trong tĩnh mịch hầu có thể gặp gỡ chính mình, gặp gỡ Thiên Chúa, Đấng mà anh tin khả dĩ có thể cho anh cái khả năng hướng thượng đó, một khả năng hướng tới tận sự sống đời đời. "Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?"
Đức Giêsu trả lời anh: "chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ làm chứng gian, hãy thảo kính cha mẹ". Người bạn trẻ chân thành trả lời: "Những điều đó tôi đã giữ từ tấm bé". Và Đức Giêsu đem lòng yêu mến, thỏ thẻ cùng anh, "anh chỉ còn thiếu một điều..." "chỉ một điều mà thôi", nghĩa là Ngài muốn anh tiến xa hơn.
Vâng, nếu có những lối đi yên tỉnh thì cũng có những ngõ vắng xôn xao, nếu có những đường làng quạnh hiu thì cũng có những đại lộ rộn rã. Trong việc cầu tiến, đúng hơn, trong tình yêu cũng thế, tình yêu có cả những đại lộ thênh thang lẫn những lối mòn chật hẹp.
"Chớ giết người, chớ ngoại tỉnh, chớ làm chứng gian", đó là những luật cũ. Đó là những đại lộ thênh thang, ai cũng thấy, ai cũng biết và dễ chấp nhận. Nhưng tế nhị hơn, đòi hỏi hơn, khi ai giận anh em, ai bảo anh em mình là "Bờm", thì đáng bị tòa án luận phạt; hay ai nhìn người nữ mà ước ao phạm tội, đã phạm tội trong lòng rồi... đó là những lối mòn chật hẹp, những lối mòn tình yêu để bất cứ ai muốn vươn lên cao hơn, nhanh hơn, xa hơn, hãy cố mà giữ lấy.
Đức Giêsu đề nghị cho anh một lối hẹp: "Anh chỉ còn thiếu một điều là hãy về bán tất cả những gì anh có rồi đến mà theo tôi". Ôi, chỉ có Ngài mới có khả năng nhìn thấy sợi tơ hồng nghiệt ngã vốn đang cuốn chặt đôi cánh đời anh khiến anh không thể bay lên. Sợi tơ đó chính là của cải.
Với người thanh niên là của cải, với chúng ta, có thể là một điều gì khác. Có thể đó là những cơn khát quyền lực, danh vọng, tiền tài. Có thể đó là những đam mê xác thịt đang kéo chúng ta lệt đệt sát đất. Có thể đó là những tham sân si, những xung năng nung nấu tiềm ẩn bên trong khiến chúng ta chỉ biết sống cho mình mà quên mất tất cả, quên mất đạo làm người, quên mất đạo làm con, quên cả nhân phẩm, quên cả linh hồn... Cũng có thể đó là những mối hiềm khích chúng ta chưa thể vượt qua, chưa thể tha thứ... Đó chính là những sợi tơ hồng buộc chặt không cho chim bằng chắp cánh bay cao.
Vậy thì phải làm sao?
Thưa, chúng ta phải khôn ngoan chọn lựa mỗi ngày, khôn ngoan như bài đọc thứ nhất nói, "Cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi". Vì sống là chọn lựa, chọn lựa là hy sinh, hy sinh là chết đi. Chọn lựa điều này tức là chết đi cho điều kia. Chọn lựa vươn cao, chọn lựa chết đi cho la đà lệt đệt. Vậy, hãy để cho Lời Chúa, Lời của Đấng Khôn Ngoan soi dọi mỗi ngày, dẫu Lời Chúa sắc bén như gươm hai lưỡi thấu suốt tâm hồn và dò xét tâm can như bài đọc Do Thái nhắc nhở. Và nhất là hãy biết lặng thinh để lắng nghe tiếng của Đấng Khôn Ngoan trong cầu nguyện và chiêm ngắm. Lặng thinh đích thực không phải là vắng tiếng động nhưng là tràn đầy sự hiện diện yêu thương của Thiên Chúa, qua đó chúng ta biết được đâu là sợi tơ hồng đang trói buộc mình. Lặng thinh chính là một khoảng trời hạ xuống với con người và chỉ ở đó, người ta mới nghe đựợc điều cốt yếu, vì lời nói thuộc về thời gian, lặng thinh mới thuộc vĩnh cửu, cho nên, ai không biết lắng nghe, sẽ không biết mình mất mát những gì.
"Lạy Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời?".
Chúng ta có thể cầu nguyện: Lạy Chúa, là Đấng biết rõ cái gót Achille của con, tức là cái điểm yếu nhất nơi mỗi chúng con, xin cho con ngày hôm nay, biết đặt cho mình câu hỏi quan trọng đó và nghe được tiếng Chúa đáp lại. Chớ gì Chúa sẽ chỉ cho con biết được ít nữa một điều mà con đang thiếu. Và lạy Chúa, chỉ có Chúa mới có khả năng cởi bỏ sợi hồng oan nghiệt đang siết chặt đôi cánh tuổi xuân, để con có thể chắp cánh bay cao hơn, nhanh hơn và xa hơn. Amen.
40.Cuộc gặp gỡ giữa người thanh niên với Chúa Giêsu--Lm Giuse Nguyễn Thành Long
Tin mừng thuật lại nhiều cuộc gặp gỡ đặc biệt giữa Chúa Giêsu với một số người; nhưng có lẽ cuộc gặp gỡ với người thanh niên trong Tin Mừng hôm nay để lại nhiều ấn tượng nhất nơi lòng các môn đệ và đám đông dân chúng. Vì gắn liền với lời mời gọi nên hoàn thiện của Chúa Giêsu, lời mời gọi vốn làm nên linh đạo cho nhiều dòng khổ tu và đan tu sau này.
Vậy người thanh niên trong Tin mừng là ai? Là một người giàu có, nói theo ngôn ngữ ngày hôm nay thì anh ta là một đại gia. Là một đại gia nhưng có lối sống gương mẫu, không bồ bịch lăng nhăng, không đua đòi chưng diện. Anh rất thành tâm thiện chí tuân giữ cả 10 Giới Răn một cách nghiêm túc, không ai chê trách được điều gì. Tắt một lời, anh là người hết sức gương mẫu trong việc chu toàn các đòi hỏi của luân lý Thập Giới. Hơn thế, anh còn là một người nhiệt huyết và cầu tiến, không bằng lòng với cuộc sống hiện tại nên anh thao thức đi tìm kiếm con đường trọn lành, con đường hoàn thiện. Chính vì những đức tính đó mà anh được Chúa Giêsu đem lòng thương mến. Ngài còn muốn mời gọi anh tiến xa thêm một bước nữa trên đường hoàn thiện. Đó là đem bán tất cả của cải và đem bố thí cho người nghèo để được kho tàng trên trời, rồi đến theo Chúa Giêsu làm môn đệ của Ngài. Một lời đề nghị kép.
Thái độ đáp trả của anh trước lời mời gọi của Chúa Giêsu ra sao? Tin Mừng cho biết: "Anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi". Nếu Chúa Giêsu chỉ đề nghị anh vế sau, tức là chỉ đi theo Chúa, có lẽ anh dễ dàng quyết định được ngay. Thế nhưng vế trước mới là vấn đề đối với anh, nếu không muốn nói là vấn đề quá khó đối với anh, khó hơn cả việc giữ 10 Giới Răn. Phải chi Chúa bảo bán gia tài đem gởi ngân hàng, hoặc mua cổ phần cổ phiếu hoặc kinh doanh, hoặc là cho Chúa Giêsu mượn, hoặc là bán từ từ; hay chỉ bố thí cho người nghèo 1 phần 10 thôi như những người đạo đức Do thái, hoặc là 1 phần 2 như Giakêu, như ông bà Gioakim và Anna... rất có thể anh ta còn thực hiện được. Đàng này Chúa Giêsu lại bảo anh bán tất cả tài sản mà cha mẹ anh và chính anh đã vất vả tích lũy một đời bằng mồ hôi nước mắt, đã thế còn đem cho người nghèo hết. Một lời mời gọi mới khó làm sao!
Bởi thế, trước lời đề nghị đó, lòng nhiệt huyết và cầu tiến của anh dường như đã hoàn toàn biến mất. Và anh đã bỏ lỡ cơ hội trở thành môn đệ Chúa Giêsu, cơ hội để nên hoàn thiện. Cũng lời mời gọi đó nhưng các Tông Đồ dễ dàng bỏ mọi sự để đi theo Chúa, vì các ông thanh thoát hơn đối với những thực tại đời này. Nguyên nhân khiến anh chấp nhận mãi mãi "thiếu một điều", đó là do chính của cải, tài sản mà anh đang có. Nói cách khác của cải vật chất đã là cản trở lớn đối với anh trên đường nên hoàn thiện. Sự cậy dựa, bám víu của anh vào của cải đã làm cho anh không dám từ bỏ để đi theo Chúa.
Chàng thanh niên ngày xưa là thế, còn con người ngày hôm nay thì sao? Giả như ngày hôm nay Chúa Giêsu đi một vòng và ngõ với các nhà tỉ phú, triệu phú, hay các đại gia một lời mời gọi tương tự như lời mà ngài đã ngõ với người thanh niên ngày xưa, có lẽ Chúa Giêsu cũng sẽ phải hát bài "cô đơn một cõi đi về" thôi. Vì chẳng ai dám mạo hiểm làm theo lời đề nghị của Chúa đâu. Bởi lẽ chủ nghĩa hưởng thụ ngày nay còn trói buộc con người ghê gớm hơn ngày xưa nhiều nhiều lần. Từ bỏ là cả một hy sinh vô cùng khó cho con người thời đại ngày hôm nay. Thế mới hay người "giàu có" (giàu có ở đây thiết nghĩ nên hiểu là quá "ham hố", quá "dính bén" với của cải thì đúng hơn) lọt được vào vòng chung kết trong cuộc đua dành chiếc cúp "sự sống đời đời" thì khó biết bao, như lời quả quyết của Chúa Giêsu.
Chúa biết khó, nhưng Ngài vẫn mời gọi chúng ta từ bỏ, vì Nước Trời có giá trị lớn lao vô cùng, đòi hỏi con người phải trả giá. Ngài muốn chúng ta mỗi ngày hãy sống triệt để hơn đòi hỏi của Tin mừng.
Vì chưng giữ đạo không chỉ dừng lại ở chỗ ăn ngay ở lành, chu toàn các đòi hỏi của luân lý, không làm điều xấu này điều xấu kia...mà quan trọng hơn, đó còn là tin nhận và dấn bước theo một con người, người đó là Đức Giêsu Kitô. Nói khác đi, sự hoàn thiện theo Tin Mừng hệ tại ở điều này: bước theo Chúa Kitô để làm môn đệ của Ngài. Mà để theo Chúa, thì cần phải dứt khoát sống tinh thần từ bỏ, nhất là từ bỏ cái tôi ích kỷ hẹp hòi, cái tôi dính bén của mình.
Vậy câu hỏi đặt ra thay cho lời kết đó là, sự thành tâm thiện chí và lòng nhiệt huyết cầu tiến sống đời hoàn thiện nơi tôi thế nào? Đâu là những trở ngại chính khiến tôi chưa sống từ bỏ và phó thác hoàn toàn để đi theo Chúa? Người thanh niên trong Tin mừng chỉ còn thiếu một điều; còn tôi, tôi còn thiếu bao nhiêu điều nữa trên đường hoàn thiện?
41.Lối nhỏ đường sống--Trầm Thiên Thu
Giàu – Nghèo là vấn đề muôn thuở. Người nghèo luôn nhiều hơn người giàu, mọi thời và mọi lúc. Thật vậy, Chúa Giêsu đã xác định: “Người nghèo bên cạnh anh em lúc nào cũng có” (Ga 12:8). Thực tế cho thấy rằng mấy ai “đẻ bọc điều” đâu. Thế nhưng có những người mới “hơn người” một chút đã tỏ vẻ “chảnh”, kênh kiệu thấy rõ!
Nghèo thì khổ, thiếu thốn đủ thứ, thậm chí thiếu cả những điều kiện sống cơ bản. Với người giàu, người Việt nói: “Miệng người giàu có gang, có thép”. Người Iran mỉa mai qua câu tục ngữ: “Khi người giàu ăn cắp, người ta bảo họ nhầm lẫn; khi người nghèo ăn cắp, người ta bảo họ ăn trộm”. Còn tục ngữ Nam Phi nói: “Lời đề nghị của kẻ nghèo được xét đến sau cùng”. Được xét là còn may, bởi vì thường thì mọi lời nói, đơn từ, vụ việc,… của người nghèo chẳng ai thèm quan tâm chi cho mất thời giờ. Nghèo không có tội, nhưng như “bị vạ” vậy!
Người nghèo khổ thật, thế mà còn bị khinh miệt nữa! Đó là một dạng vô cảm. Bà Hellen Adams Keller (1880-1968, tác giả và nhà hoạt động người Mỹ) nhận định: “Thói xấu tồi tệ nhất chính là sự vô cảm của con người”.
Có điều gì khác nhau giữa người nghèo và người giàu? Tục ngữ Phần Lan giải thích: “Người nghèo ăn khi nào có, người giàu ăn khi nào muốn”. Rất đơn giản mà rất thâm thúy. Nỗi đau ngấm ngầm và nhức buốt lắm! Tục ngữ Pháp phân tích: “Không ai kiêu ngạo hơn người giàu mà mới đây chỉ là kẻ nghèo kiết xác”. Khó vào Nước Trời là loại người giàu như vậy, chứ sự giàu có không là điều bất hạnh mà Chúa Giêsu đề cập.
Người giàu hay người nghèo đều cần sự khôn ngoan. Tại sao? Vì “khôn ngoan là thần khí hằng yêu mến con người” (Kn 1:6), “trí khôn ngoan là cội rễ không thể nào hư hoại” (Kn 3:15), và “đức khôn ngoan là kho báu vô tận cho con người” (Kn 7:14). Quả thật, sự khôn ngoan vô cùng cần thiết: “Có nhiều người khôn ngoan, thế giới được cứu thoát; nhờ một vị minh quân, cả thần dân được an cư lạc nghiệp” (Kn 6:24).
Tác giả sách Khôn Ngoan bộc bạch: “Tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi. Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan” (Kn 7:7-8). Thật là khôn ngoan khi biết mình yếu đuối, bất tài, vô dụng, và biết cầu xin Thiên Chúa xót thương. Khôn ngoan là khiêm nhường, khiêm nhường là khôn ngoan.
Khôn ngoan vô giá, không gì có thể so sánh. Tác giả sách Khôn Ngoan giải thích, đồng thời cũng là lời chia sẻ chân thành: “Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất. Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi. Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể” (Kn 7:9-11). Rất rõ ràng, rất chi tiết. Có đức khôn ngoan là có tất cả. Đúng là kho tàng vô giá!
Biết vậy, tác giả Thánh Vịnh tha thiết cầu xin: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12). Niềm khao khát đó không thoáng qua, không tùy hứng, vui thì muốn, buồn thì thôi, nhưng là niềm khao khát cháy bỏng và không ngừng: “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca. Xin ban tặng chúng con niềm hoan hỷ, bù lại những tháng năm Ngài đã bắt nếm nhục nuốt sầu” (Tv 90:14-15).
Tất cả là hồng ân, là lòng thương xót của Thiên Chúa, chứ chúng ta hoàn toàn bất xứng. Biết vậy là đầu mối khôn ngoan. Chắc chắn Thiên Chúa sẽ đoái thương, không thể làm ngơ, vì Ngài là Đấng giàu lòng thương xót. Mọi nơi và mọi lúc, Ngài mong muốn chúng ta chân thành thân thưa: “Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv 90:17).
Lối nhỏ là đường dẫn tới sự sống, lối rộng là đường dẫn tới sự chết. Đúng vậy, vì Chúa Giêsu đã khuyến cáo: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Ngài còn bảo chúng ta phải “chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào” (Lc 13:24). Chắc chắn Ngài không xúi dại chúng ta đâu. Chính sự tự do cũng có “phạm vi nhất định” kia mà, đâu phải tự do thì muốn làm gì thì làm, nếu vậy thế giới này loạn hết.
Trung ngôn nghịch nhĩ. Lời thật mất lòng. Phụ nữ hỏi về sắc đẹp của họ, nếu nói họ đẹp thì họ vui, nhưng chỉ là ảo; nếu nói họ không đẹp thì họ buồn, thậm chí còn ghét người nhận xét. Nhạc sĩ, thi sĩ và văn sĩ hỏi tác phẩm của họ thế nào, nếu nói tác phẩm của họ hay thì họ cười; nếu nói tác phẩm của họ “chưa đạt” thì họ chán lắm, có khi họ bảo người nhận xét không biết nghệ thuật, không tinh tế. Chuyện đời là thế. Đôi khi người ta chỉ nịnh nhau để xã giao thôi. Mẹ hát, chẳng lẽ con lại nỡ lòng không khen hay? Trên Facebook hoặc các website khác, những cái “like” [thích] có thể cũng chỉ là giả tạo mà thôi, ít có người thật lòng. Vả lại, thấy Facebook có nhiều rác quá, toàn là chuyện ba sàm, vớ vẩn!
Với Thiên Chúa thì khác hẳn. Lời Chúa có lúc làm cho chúng ta phấn chấn, hạnh phúc, nhưng Lời Chúa có lúc làm cho chúng ta đau nhói, nhức buốt – thường thì nhức nhiều hơn, vì “Lời Chúa phán là lời chân thật, như bạc nấu trong lò, đã bảy lần tinh luyện” (Tv 12:7). Thật vậy, Thánh Phaolô nói: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4:12). Tại sao như vậy? Thánh Phaolô giải thích: “Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4:13).
Tác giả Thánh Vịnh đặt vấn đề: “Làm thế nào giữ được tuổi xuân trong trắng? Thưa phải tuân theo lời Chúa dạy” (Tv 119:9). Hằng ngày, theo kiểu Facebook, chúng ta có “like” [yêu] Chúa thật lòng hay cũng chỉ “che mắt thánh” đây? Chúa biết hết, vì Ngài “thấu suốt mọi tâm can” (Cv 15:8; Rm 8:27). Ước gì mỗi chúng ta luôn biết chân thành tâm nguyện: “Lạy Chúa, con hết dạ kiếm tìm Ngài, xin chớ để con làm sai mệnh lệnh Chúa” (Tv 119:10).
Tìm kiếm Chúa thật khó. Khó không phải vì Chúa “trốn” chúng ta, mà tại chúng ta chưa thực sự muốn gặp Ngài. Muốn thì muốn, nhưng thực hành thì… hậu xét! Trình thuật Mc 10:17-22 “minh họa” điều này.
Một hôm, khi Đức Giêsu vừa lên đường, có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Ngài nói: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”. Anh ta hãnh diện nói với Ngài rằng anh đã tuân giữ tất cả những điều đó từ thuở nhỏ.
Tuyệt vời lắm, tốt lành thật! Thật vậy, chính Đức Giêsu đã âu yếm đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Rồi Ngài bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi”. Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải. Thôi rồi, bó tay rồi!
Có lẽ lúc đó Chúa Giêsu đã lắc đầu tiếc cho anh ta lắm. Ngài rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10:23). Nghe Sư Phụ nói thế, các môn đệ sững sờ vì chẳng lẽ giàu là có tội sao? Căng thật đấy! Chưa hết ngạc nhiên thì họ lại nghe Thầy nói tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10:25). Ui da! Căng thật chứ chẳng đùa đâu đấy!
Tất nhiên họ lại càng sửng sốt hơn nữa và rỉ tai nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”. Hỏi để mà hỏi, hỏi cho có chuyện chứ ai mà trả lời được! Chúa Giêsu biết các đệ tử đang “đâu cái điền” (điên cái đầu) và “nhức óc” lắm, nhưng Ngài vẫn nghiêm túc nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10:27).
Chắc chắn là thế. Có lẽ lúc này thực sự giá trị để chúng ta mượn lời Thánh Phêrô mà thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6:68).
Người giàu khó vào Nước Trời vì ỷ giàu mà khinh người, dùng tiền bạc để ăn chơi sa đọa; còn người giàu mà biết chia sẻ với người nghèo, biết làm từ thiện, họ dễ vào Nước Trời thôi. Người nghèo mà chảnh thì cũng vô phúc, cho thì họ không lấy, thấy cũng không thèm xin, nhưng đồ người ta giấu kín thì rình mò, hở là rinh ngay, nghèo kiểu đó thì chắc chắn chẳng biết lối nào mà vào Nước Trời. Người nghèo như vậy là nghèo vô phúc, nghèo bạc phước, chứ chẳng có phúc chút nào ráo trọi!
Lạy Thiên Chúa, xin giúp con biết chấp nhận những gì Ngài ban cho con theo lòng nhân hậu của Ngài, chứ không đòi hỏi, không se sua, không mưu mô,... Xin giúp con cố gắng đi trên “lối nhỏ” để được sự sống dồi dào của Ngài. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ nhân loại. Amen.
42.Gia nghiệp--Trầm Thiên Thu
Theo nghĩa cơ bản nhất, gia nghiệp là tài sản của gia đình – còn gọi là gia sản. Khi nói đến gia nghiệp, người ta thường liên tưởng ngay tới vật chất. Gia nghiệp rất quan trọng đối với mỗi gia đình. Đó là lẽ tất nhiên. Nhưng có một loại gia nghiệp quan trọng hơn: Thiên Chúa. Phần gia nghiệp này cực kỳ quan trọng. Chính Thiên Chúa đã nói với ông A-ha-ron: “Đất chia cho chúng, ngươi sẽ không có phần; ngươi không có gia nghiệp ở giữa chúng, và chính Ta là gia nghiệp của ngươi giữa con cái Ít-ra-en” (Ds 18:20).
Chúa Giêsu đã có lần nhắc nhở: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi” (Mt 6:19-20). Chúa Giêsu nhấn mạnh: “Kho tàng ở đâu, thì lòng ở đó” (Mt 6:21). Rất thực tế. Tục ngữ Việt Nam cũng nói: “Đồng tiền liền khúc ruột”. Quả thật, vật chất có sức mạnh khó cưỡng lại, người ta thường gọi đó là “ma lực”.
Vì thế, ai cũng phải cẩn trọng. Muốn vậy, phải nhờ Đức Khôn Ngoan. Điều này liên quan Chúa Thánh Thần, vì ơn khôn ngoan là một trong bảy ơn của Chúa Thánh Thần, Thiên Chúa Ngôi Ba.
CẦN THIẾT KHÔN NGOAN
Tác giả sách Khôn Ngoan cho biết: “Tôi nguyện xin, và Thiên Chúa đã ban cho tôi sự hiểu biết. Tôi kêu cầu, và thần khí Đức Khôn Ngoan đã đến với tôi. Đức Khôn Ngoan, tôi đã quý trọng còn hơn cả vương trượng, ngai vàng. Tôi không coi của cải là gì so với Đức Khôn Ngoan. Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức Khôn Ngoan, vì vàng trên cả thế giới, so với Đức Khôn Ngoan, cũng chỉ là cát bụi, và bạc, so với Đức Khôn Ngoan, cũng kể như bùn đất” (Kn 7:7-9). Tác giả so sánh để chúng ta thấu hiểu Đức Khôn Ngoan rất quan trọng, hơn cả mọi thứ trên trần gian này. Quả thật, “tất cả chỉ là phù vân” (Gv 1:2).
Tác giả sách Khôn Ngoan nói thêm với chiều sâu hơn: “Tôi đã ham chuộng Đức Khôn Ngoan hơn sức khoẻ và sắc đẹp, đã quý Đức Khôn Ngoan hơn ánh sáng, vì vẻ rực rỡ của Đức Khôn Ngoan chẳng bao giờ tàn lụi. Nhưng cùng với Đức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đã đến với tôi. Nhờ tay Đức Khôn Ngoan, của cải quá nhiều không đếm xuể” (Kn 7:10-11). Thật lạ cái “khoảng” trong mối tương quan rất lạ giữa có-mà-không và không-mà-có.
Thật là khôn ngoan khi tác giả Thánh vịnh cầu nguyện: “Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan” (Tv 90:12), và tiếp tục thân thưa: “Lạy Chúa, xin trở lại! Ngài đợi đến bao giờ? Xin chạnh lòng thương xót những tôi tớ Ngài đây” (Tv 90:13). Tất cả là hồng ân Chúa ban, dù chúng ta có được khôn ngoan tới mức nào hoặc tài năng xuất chúng mà không được Thiên Chúa thương xót thì cũng vô ích. Quả thật, Lòng Chúa Thương Xót luôn cần thiết cho bất kỳ ai, và Lòng Chúa Thương Xót ấy đã có từ thuở hồng hoang, vẫn trải từ đời nọ đến đời kia (x. Lc 1:46-55).
Cầu nguyện không chỉ để xin những ơn này ơn nọ, mà còn phải biết chúc tụng Chúa, tạ ơn Chúa. Tác giả Thánh vịnh tiếp tục khôn ngoan khi cầu nguyện: “Từ buổi mai, xin cho đoàn con được no say tình Chúa, để ngày ngày được hớn hở vui ca. Xin ban tặng chúng con niềm hoan hỷ, bù lại những tháng năm Ngài đã bắt nếm nhục nuốt sầu” (Tv 90:14-15). Ước gì mỗi chúng ta cũng biết ước nguyện như tác giả Thánh vịnh: “Ước gì chúng con là tôi tớ Chúa được thấy công trình Ngài thực hiện, và con cháu chúng con được thấy vinh hiển Ngài. Xin cho chúng con được vui hưởng lòng nhân hậu của Chúa là Thiên Chúa chúng con. Việc tay chúng con làm, xin Ngài củng cố, xin củng cố việc tay chúng con làm” (Tv 90:16-17).
Tín thác vào Chúa quan phòng, chắc chắn chúng ta sẽ được ơn khôn ngoan đích thực.
KHÔN NGOAN ĐỂ SỐNG
Thánh Phaolô xác định: “Lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ; lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người” (Dt 4:12). Thật vậy, Lời Chúa có lúc làm chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc Lời Chúa lại khiến chúng ta hổ thẹn, đau buốt. Lời Chúa là tấm gương phản chiếu mọi thứ và là đèn soi thấu mọi nơi khuất tịch nhất của lòng con người. Thánh Phaolô giải thích rõ: “Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa, nhưng tất cả đều trần trụi và phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ” (Dt 4:13).
Rất nhiều điều chúng ta thiếu sót, ngay cả người công chính cũng lầm lỗi mỗi ngày bảy lần, vì thế chúng ta có rất nhiều điều phải “trả lẽ” trước mặt Chúa, thậm chí có thể phải trả lẽ với Chúa về chính những gì mà chúng ta cho là “việc đạo đức” hoặc “việc tông đồ”, vì có thể chỉ là “cái vỏ bề ngoài”! Chúng ta có thể che giấu với người đời, nhưng không thể giấu được với Thiên Chúa, vì Ngài “ghi hình” và “ghi âm” chính xác từng chi tiết nhỏ của mỗi động thái nơi chúng ta, dù chỉ là ý nghĩ thoáng qua. Do đó, chúng ta càng cần phải khôn ngoan mà sống!
Thánh sử Mác-cô kể rằng, hôm đó, Đức Giêsu vừa lên đường thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Ngài và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10:17). Chàng thanh niên này thật là khôn ngoan. Thấy lạ, Đức Giêsu hỏi lại: “Sao anh nói tôi là nhân lành?” (Mc 10:18a). Rồi Ngài nói tiếp: “Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” (Mc 10:18b). Và Ngài giải thích: “Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ” (Mc 10:18b-19). Anh ta nói rất tự tin: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ” (Mc 10:20). Hay quá! Tốt quá! Tuyệt quá! Thế nên Đức Giêsu “đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến” (Mc 10:21a). Rồi Ngài bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi” (Mc 10:21b).
Mệt Chúa quá! Khó quá! Căng quá! Mà “căng” thật, vì vừa nghe lời đó, “anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10:22). Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10:23). Nghe Ngài nói thế, các môn đệ sững sờ và ngây ngô “như chú Tàu nghe kèn”. Nhưng Ngài lại nói tiếp: “Các anh ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mc 10:23-24). Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và xầm xì với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” (Mc 10:26). Khó thật!
Chúng ta đừng vội trách chàng thanh niên “đại gia” kia. Tài sản của gia đình thì đã rõ. Tài sản của cá nhân cũng không khó hiểu. Nhưng có thể chúng ta “quên” loại tài sản “quan trọng” hơn. Rất có thể chúng ta nghèo vật chất nhưng “tài sản riêng” của chúng ta vẫn có thể thuộc loại “nứt đố, đổ vách”, vẫn “giàu sụ”, vẫn thuộc hàng “đại gia”. Đó là tính kiêu ngạo, lòng ghen ghét, sự thù hận, tính ích kỷ, thói gièm pha, thói xu nịnh, sự nhẫn tâm, sự vô tình, tính nhỏ mọn, lòng tự ái, óc bè phái, tính tham lam, thói lọc lừa, áp bức, lộng hành,… Và còn rất nhiều thứ khác nữa… Đó là loại “tài sản vô giá” mà chúng ta không muốn bỏ để có thể thanh thản bước theo Chúa. Gay quá!
Đức Giêsu biết các đệ tử đang xào xáo điều gì nên Ngài nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được” (Mc 10:27). Ông Phêrô lên tiếng thưa Ngài: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” (Mc 10:28).
Thánh tông đồ trưởng đã “đặt vấn đề” rất thực tế với Sư phụ. Chúng ta cũng có lúc đã từng như vậy! Nghe Phêrô hỏi, Đức Giêsu đáp ngay: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10:29-30).
Hãy lưu ý “điều kiện” trong câu nói của Chúa: “Được gấp trăm” nhưng kèm theo “cùng với sự ngược đãi”. Vấn đề là ở chỗ đó. Chỉ chú ý vế 1 mà “quên” vế 2 là sai lầm to. Phàm điều gì cũng có “điều kiện tự nhiên” kèm theo như điều kiện “ắt có và đủ” vậy: Có đau khổ mới hiểu được giá trị của hạnh phúc, có nước mắt mới quý trọng tiếng cười, có thất bại mới vui sướng khi thành công!
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan và giúp chúng con sống hết mình vì Chúa trong mọi hoàn cảnh, để chúng con có thể an tâm vui sống vì có chính Ngài làm gia nghiệp vĩnh cửu. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.
43.ãy theo Tôi--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Tiền bạc có một sức mạnh kinh hồn. “Có tiền mua tiên cũng được.” Ai có thể thoát được ma lực của đồng tiền? Nhưng Đức Giêsu sẽ cho thấy có những giá trị không thể mua bằng tiền. Những giá trị cao vượt đó chỉ có thể tạo được khi thoát khỏi mọi ma lực của đồng tiền. Đó là điều rất khó hiểu. Nhưng đó cũng là sự thật.
Đồng tiền liền khúc ruột
Một hôm, có chàng thanh niên con nhà giàu đến gặp Đức Giêsu. Chàng có nhiều đức tính thật dễ thương. Khác với những bạn đồng lứa ăn chơi xa xỉ, chàng cố giữ những điều luật luân lý nghiêm nhặt. Mọi người đều nhìn vào anh như mẫu người lý tưởng. Chính Đức Giêsu cũng “đem lòng yêu mến.”(Mc 10,21) Anh chẳng thiếu thứ gì trên đời. Nhưng anh vẫn không hoàn toàn hạnh phúc. Anh thấy còn thiếu một cái gì trong cuộc đời. Anh ưu tư, khắc khoải. Bởi đó nêu thắc mắc với Đức Giêsu: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” (Mc 10,17) Có mấy công tử bột có thể nêu được câu hỏi sâu sắc đó? Anh đã bị dằn vặt rất nhiều vì không thấy thỏa mãn hoàn toàn với những hứa hẹn vật chất. Anh tin Đức Giêsu sẽ trả lời dứt khoát và rõ ràng về vấn đề quan trọng cho cuộc đời anh.
Xưa nay anh cứ tưởng một đời sống luân lý hoàn hảo đã đủ bảo đảm về mặt đạo đức. Tiền bạc dư thừa bảo đảm về mặt vật chất. Đời sống như thế đã quá đủ tiêu chuẩn đạt hạnh phúc. Nhưng anh không thể ngờ hạnh phúc lại vượt lên trên những tiêu chuẩn tầm thường đó. Hạnh phúc là quan tâm tới người nghèo. Quan tâm tới độ “bán những gì anh có mà cho người nghèo.” (Mc 10,21) Bán sạch. Trở nên nghèo vì người nghèo. Chính lúc nghèo như thế, “anh sẽ được một kho tàng trên trời.” (Mc 10,21) Kho tàng đó đang hiện diện ngay trước mặt anh. Bởi đó Đức Giêsu mới nói: “Rồi hãy đến theo tôi.” (Mc 10,21) Đức Giêsu là một giá trị vượt trên tất cả những của cải trần gian, vì Người là “sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa.” (1 Cr 1,24) “Trong Người có cất giấu mọi kho tàng của sự khôn ngoan và hiểu biết.” (Cl 2,3) Gia tài của chàng thanh niên đó là cái gì so với Đức Khôn Ngoan? Nếu biết Đức Giêsu là Đức Khôn Ngoan hiện thân, có lẽ anh sẽ nói: “Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan.” (Kn 7,8)
Chàng thanh niên là người có thiện chí, nhưng vì chưa ý thức được kho tàng khôn ngoan nơi Đức Giêsu, nên đã không thể có một lựa chọn đúng. Có lẽ anh kinh ngạc về đề nghị và mời gọi của Đức Giêsu. Anh không thể tưởng tượng có một thứ hạnh phúc ngoài tiền bạc. Để theo đuổi hạnh phúc đó, Đức Giêsu đề nghị anh dấn thân cho ngươì nghèo và mạo hiểm theo Người đi rao giảng Tin Mừng. Nhưng “nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi,” (Mc 10,22) vì trong anh đang nổi lên một cơn thất vọng và cuộc xung đột giữa hai tiêu chuẩn hạnh phúc: hạnh phúc do tiền bạc và bổn phận, hạnh phúc do từ bỏ và dấn thân.
Trước khi nói tới lời mời gọi tin tưởng nơi Thiên Chúa, Đức Giêsu muốn cho mọi người thấy mối nguy hiểm của tiền bạc hay của cải: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10,23) Thực ra, tiền bạc không phải là một sự dữ. “Có của” không đương nhiên là xấu. Thái độ khi “có của” mới xác định giá trị con người. Giáo Hội từng có những vị thánh xuất thân tự ngai vàng như vua Louis nước Pháp, vua Stephan nước Hung. Giữa đống tiền của, họ vẫn lắng nghe tiếng Chúa và dấn thân cho ngươì nghèo.
Của cải chính một phúc lành của Thiên Chúa. Thực vậy, “chính phúc lành của ĐỨC CHÚA cho ta được giàu sang.” (Cn 10,22) “ĐỨC CHÚA bắt phải nghèo và cho giàu có.” (1 Sm 2,7) Người giàu cũng không bị kết án vì có nhiều tiền của. Chính Đức Giêsu cũng giao du với những người giàu sang quyền quí, như Giakêu, Nicôđêmô, Máthêu v.v. Như vậy cả tiền bạc lẫn người giầu có đều không phải là đối tượng của lời nguyền rủa. Đức Giêsu muốn cho thấy cái đáng quan tâm là mối tương quan giữa con người và tiền bạc. Ưu tư quá về tiền của đến nỗi không thể dấn thân cho người nghèo và Tin Mừng là đánh mất cơ hội lớn nhất cuộc đời: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” (Mc 10,23)
Đòi hỏi gắt gao
Đầu óc bình thường coi đạo nào cũng như đạo nào. Nhưng Đức Giêsu muốn môn đệ phải sống trên mức đạo đức bình thường, không thể thỏa mãn với những đòi hỏi luân lý mà thôi. Chính khi vượt lên trên hạnh phúc bình thường, họ mới thấy rõ giá trị tiền bạc. Chính tiền bạc sẽ trở thành phương tiện giúp đỡ và cứu thoát những người anh em nghèo khổ khỏi cơn túng quẫn. Nếu “từ bỏ mọi sự” một cách tuyệt đối, sẽ chẳng còn phương tiện nào để làm việc bác ái. Bởi đó, đúng hơn phải nói về “tinh thần khó nghèo,” (Mt 5,3) một tinh thần cần thiết để sẵn sàng lên đường với Đức Giêsu, chấp nhận mọi thử thách thương đau vì hạnh phúc đồng loại. Đó là con đường làm vinh danh Thiên Chúa.
Mặc dù đã “bỏ mọi sự” theo Chúa, Phêrô cũng không chấm dứt mọi tương quan với bên nhà vợ. Chính ông đã mời Đức Giêsu vào nhà mình và xin Người chữa bà mẹ vợ mình khỏi cơn sốt (Lc 4,38-39; Mt 8,14; Mc 1,30). Mối liên hệ vẫn còn đó. Phải chăng Phêrô chưa “bỏ mọi sự”? Vậy làm sao hưởng gấp trăm? Phải chăng lời Chúa mâu thuẫn với thực tế? Mâu thuẫn vì có nhiều nhà truyền giáo sống rất nghèo khổ, bị tù đầy, đói khát, chết chóc vì Chúa thì sao? Suốt đời họ chẳng được gấp trăm, mà chỉ toàn bị “ngược đãi” (Mc 10,30). Lời Chúa được thực hiện ở đâu? Vả lại có những người không hề biết đến từ bỏ, lại được hưởng gấp trăm ngàn lần những người đã hiến thân theo Chúa.
Đúng hơn, Đức Giêsu muốn so sánh hạnh phúc tự nhiên với siêu nhiên. Thực vậy, “đời sống cộng đoàn Kitô hữu sẽ thay thế cho sự hỗ trợ và hạnh phúc gia đình cũng như của cải đã từ bỏ. Đời sống Kitô hữu “ở đời này” tràn đầy niềm vui.” (Faley 1994,661) Ngay trong bắt bớ, niềm vui đó vẫn không chấm dứt, vì phát xuất tự Thiên Chúa. Niềm vui từ của cải hay huyết tộc làm sao so sánh với niềm vui là chính Chúa? Cuộc sống hôm nay đang thiếu vắng niềm vui chân thật đó. Vì thế gian không chịu nổi sự phân rẽ của lời Chúa. “Lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người.” (Dt 4,12) Lời Chúa gây nhức nhối và thách đố cho lương tâm thời đại. Đúng như Chúa nói: “Thầy đến không phải để đem bình an, nhưng để đem gươm giáo.” (Mt 10,34) Lời Chúa vẫn còn đó như một tra vấn liên tục, khiến họ không thể ngủ yên. Quả thực, “lời Thiên Chúa là lời sống động, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tủy,” (Dt 4,12) nghĩa là vào chỗ sâu kín nhất: lương tâm con người. Không ai có thể trốn chạy Lời Chúa. “Vì không có loài thọ tạo nào mà không hiện rõ trước Lời Chúa.” (Dt 4,13)
Lời Chúa hôm nay đang thúc bách chúng ta dấn thân hơn nữa vào việc xây dựng Nước Chúa, tức là đem cả nhân loại vào “sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần.” (Rm 14,17) Không còn con đường nào khác ngoài việc hiến thân, từ bỏ và mạo hiểm vì Nước Trời. Cuộc mạo hiểm đầy thú vị, nhưng cũng chan chứa niềm hi vọng, vì Đức Giêsu đã quả quyết: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất.” (Mt 28,18)
44.Không trọn lành không được rỗi…!--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Trong loạt bài Phúc Âm gần đây, kể từ sau bài Phúc Âm Chúa Nhật 24 về Mầu Nhiệm Vượt Qua bắt đầu được Chúa Giêsu tỏ cho các tông đồ biết sau khi các ngài tuyên xưng niềm tin của mình vào Người: “Thày là Đức Kitô”, chúng ta thấy hiện lên một loạt những gương mù gương xấu. Trước hết là gương mù gương xấu của các môn đệ tỏ ra tranh giành địa vị, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 25; tiếp đến là gương mù gương xấu của các vị về việc tranh chấp quyền năng phe nhóm, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 26; sau đó là gương mù gương xấu của việc vợ chồng ly dị nhau, ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 27; và đến nay là gương mù gương xấu về lòng tham lam của cải ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 28 tuần này. Đối với gương mù gương xấu về tinh thần tranh ngôi giành chức của nội bộ tông đồ đoàn, Chúa Giêsu đã dạy các vị tinh thần phục vụ hơn hưởng thụ. Đối với gương mù gương xấu về tinh thần tranh chấp quyền năng phe nhóm đối ngoại của các tông đồ, Chúa Giêsu dạy các vị hãy có tinh thần đoàn kết và hợp tác với tất cả mọi người vì Người. Đối với gương mù gương xấu về tinh thần chia rẽ hôn nhân, Chúa Giêsu đã dạy con người thành hôn nói chung và thành phần thông luật nói riêng phải trở về nguồn, trở về với dự án nguyên thủy của Thiên Chúa đối với cơ cấu hôn nhân được chính Ngài thiết lập. Đối với gương mù gương xấu về lòng tham lam của cải sản vật trần gian, Chúa Giêsu dạy con người nói chung và thành phần giầu có nói riêng phải có một tinh thần nghèo khó.
Thật vậy, không có tinh thần nghèo khó, con người sẽ không được vào Nước Trời, tức không được rỗi, được sự sống đời đời. Đó là lý do Chúa Giêsu đã khẳng định ngay trong mối Phúc Đức thứ nhất ở Bài Giảng Trên Núi của Người: “Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời thuộc về họ” (Mt 5:3). Đó cũng là lý do, người thanh niên giầu có, giầu tiền lắm của này đã hỏi Chúa Giêsu về vấn đề sự sống đời đời: “Lạy Thày thiện hảo, tôi phải làm gì để được hưởng sự sống trường sinh?” Vấn nạn của người thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này dầu sao cũng cho chúng ta thấy của cải sản vật không thể nào làm cho con người được hoàn toàn và vĩnh viễn thỏa mãn. Chính vì Thiên Chúa đã dựng nên lòng con người hướng về, khao khát và tìm kiếm sự thiện vô cùng, một tâm trạng đã được một Âu Quốc Tinh sau cuộc đời trác táng về nhục thể và lạc loài về tâm linh đạo lý đã phải “Tự Thú” là lòng mình khắc khoải cho đến khi được nghỉ yên trong Chúa, mà người thanh niên sống trong nhung lụa trong bài Phúc Âm vẫn cảm thấy không yên tâm về phần rỗi của mình, cho dù anh đã giữ trọn các giới răn cản bản nhất của Chúa. Theo bài Phúc Âm Thánh Ký Mathêu (19:16-22) cũng thuật về câu truyện này thì chàng thanh niên giầu có ấy còn hỏi thêm Chúa Giêsu một câu nữa, một câu chứng tỏ cái bất an và áy náy về phần rỗi của anh ta dù đã giữ trọn các giới răn: “Tôi đã giữ tất cả những điều ấy rồi. Tôi còn phải làm gì hơn nữa chăng?”
Qua câu này, người ta cũng có thể hiểu là anh chàng thanh niên giầu có ấy muốn khoe lòng đạo đức của mình nữa. Anh ta cứ tưởng anh ta đã giữ tất cả những giới luật căn bản ấy rồi là đủ, không cần phải làm gì hơn nữa, không còn gì đối với anh ta nữa. Nhưng qua thái độ của anh ta được Phúc Âm Thánh Marcô thuật lại: “một người nam chạy đến chặn đường Người quì xuống mà hỏi”, thì anh chàng thanh niên giầu có này rất chân thành, muốn đi tìm chân lý, lòng đầy khắc khoải băn khoan về đời sau trước tất cả những phú túc ở đời này. Nếu anh chàng này không chân thành, mà chỉ giả hình như thành phần Pharisiêu bị Người quở trách nặng lời, thì Chúa Giêsu, qua ngòi bút tỉ mỉ đặc thù của Thánh Ký Marcô, đã không “trìu mến nhìn anh ta mà nói”. Chúa Giêsu “trìu mến” nhìn người thanh niên giầu có thành tâm thiện chí này là vì Người thấy anh ta giầu có mà vẫn giữ đạo hẳn hoi. Chúa Giêsu “trìu mến” nhìn người thanh niên giầu có đầy thành tâm thiện chí này là vì Người muốn anh ta nên hoàn thiện hơn. Đó là lý do trong bài Phúc Âm của Thánh Mathêu, Chúa Giêsu nói với anh ta: “Nếu anh muốn nên trọn lành…”.
Như thế, qua trường hợp của người thanh niên giầu có này, theo Phúc Âm Thánh Mathêu, có hai vấn đề rõ ràng, vấn đề được rỗi và vấn đề nên trọn lành. Vấn đề được rỗi chỉ cần giữ trọn các giới răn, còn vấn đề nên trọn lành cao hơn cần phải trước hết có tinh thần nghèo khó. Tuy nhiên, theo Phúc Âm Thánh Marcô thì nếu không có tinh thần nghèo khó cũng không thể được cứu độ, được sự sống đời đời. Thật vậy, theo Phúc Âm Thánh Marcô, người thanh niên chỉ hỏi một câu, đó là làm sao để được sự sống đời đời, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời làm hai phần, phần đầu là giữ các giới răn, và phần sau, sau khi nghe thấy anh ta đã giữ các giới răn, Người nói thêm “anh còn cần phải làm một điều nữa…”. Nghĩa là, căn cứ vào mạch truyện và câu Chúa Giêsu nói ở đây thì người thanh niên giầu có này chẳng những cần phải giữ trọn các giới răn mà còn cần phải có tinh thần nghèo khó nữa, bằng không, như Chúa Giêsu khẳng định sau khi thấy người thanh niên giầu có buồn bã bỏ đi, là “kẻ giầu có khó vào nước Thiên Chúa là dường nào!... Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn một con người giầu có vào nước Thiên Chúa”. Nếu vào nước trời chỉ cần giữ các giới răn thì có vẻ dễ đối với người thanh niên giầu có này, con người như thế được cả hai đời, đời này đã được giầu có sung sướng, đời sau lại còn được hưởng vinh phúc trường sinh. Bởi thế, vào nước trời bao gồm cả tinh thần nghèo khó nữa mới được, cả lòng khao khát nên trọn lành nữa mới đáng gọi là khó hơn lạc đà chui qua lỗi kim.
Đúng thế, thực tế cho thấy, nếu không trọn lành, hay ít là “có lòng khao khát nhân đức trọn lành” (Mt 5:6), con người theo tự nhiên thường có khuynh hướng hưởng thụ hơn phục vụ, vơ vét hơn cho đi v.v. Sở dĩ họ giữ được các giới răn cản bản, như người thanh niên giầu có trong bài Phúc Âm, là vì họ sợ mất linh hồn, chỉ vì họ lo cho bản thân của họ hơn là hoàn toàn thuần túy vì lòng mến Chúa, họ giữ luật vì luật hơn là vì Đấng ban lề luật, và họ cho rằng chính việc giữ luật của họ làm cho họ nên công chính chứ không phải bởi quyền năng của lề luật, bởi tinh thần của lề luật, hay bởi Đấng ban lề luật. Bởi vậy, nếu không có hỏa ngục, chưa chắc họ đã giữ các giới luật căn bản ấy. Trường hợp của người thanh niên giầu có này là trường hợp cụ thể đã được Chúa Giêsu sánh ví như người phú hộ trong dụ ngôn với Lazarô (Lk 16:19-31; 18:15-30). Người phú hộ không hề xúc phạm đến Lazarô, như xua đuổi, chửi rủa, khinh bỉ Lazarô, (có thể suy đoán ông ta là người biết tự trọng, không hề phạm những thứ tội bị Chúa Giêsu liệt kê trong bài Phúc Âm Chúa Nhật tuần này: sát nhân, ngoại tình, trộm cắp, làm chứng dối, lường gạt gian lận; trái lại, ông còn tỏ ra biết tôn kính mẹ cha nữa), thế mà, cuộc đời của ông cuối cùng đã kết thúc vĩnh viễn trong vực thẳm tử vong, chỉ vì ông không biết chia sẻ những gì ông có cho Lazarô, một người anh em vô cùng khốn nạn của ông, ở ngay cổng ra vào nhà ông, tức ở ngay trước mắt ông.
Như thế, tinh thần nghèo khó trọn lành ở đây, trước hết, không phải là lòng khinh bỉ của cải trần gian nói riêng hay tất cả những gì tốt lành được Chúa dựng nên nói chung, trong đó có cả vấn đề sinh dục, trái lại, trên hết, chính là nhận thức và thực hiện đúng vị thế và trách vụ của mình đối với những gì Chúa ban cho mình, đúng hơn những gì Chúa ký thác cho mình, những nén bạc được Ngài trao ban không phải chỉ để canh giữ (đem chôn sợ mất) như người đầy tớ kia (x Mt 25:24-25), mà còn để phân phát như người quản lý khôn ngoan coi sóc nhà cửa cho chủ (x Lk 12:43). Tuy nhiên, tinh thần nghèo khó không phải chỉ được tỏ hiện qua việc biết sử dụng tất cả những gì mình có theo vị chủ nhân ông Thiên Chúa Tạo Hóa của mình, mà còn được cụ thể hóa một cách trọn lành hơn nữa qua việc, như trường hợp các tông đồ trong bài Phúc Âm, “bỏ mọi sự mà theo Thày”, Đấng vô cùng viên mãn trọn lành đã trở thành đầy tớ phục vụ đến hiến mạng sống mình cho nhân thế (x Mt 20:28).
Sau đây là hai câu chuyện về người nghèo (xem dongcong.net) được chính vị sáng lập hội dòng phục vụ thành phần nghèo nhất trong các người nghèo là Mẹ Têrêsa Calcutta, vị tân chân phước của Giáo Hội vào Ngày Khánh Nhật Truyền Giáo 19/10/2003, kể lại rất cảm động như sau:
Tại bên Úc, Mẹ Têrêsa có mở một nhà nội trú dành cho các thanh thiếu niên nghèo. Một lần kia, Mẹ gặp thấy một thanh niên đang bị đánh đập tàn nhẫn, mình mẩy anh ta bầm tím hết. Mẹ thấy cần phải gọi cảnh sát đến điều tra và khi cảnh sát đến hỏi anh:" Ai đã đánh anh?" thì anh thanh niên này nhất định không trả lời các câu hỏi. Cuối cùng, cảnh sát phải chịu thua anh ta và bỏ ra về. Lúc đó, Mẹ Têrêsa mới ôn tồn hỏi anh:
- Sao con không khai người đã đánh đập con với cảnh sát?
- Thưa Mẹ, nếu con khai ra, người đó sẽ bị trừng phạt và rồi những đau khổ của người đó cũng không thể làm giảm đi nỗi khổ đau của chính con!
Người nghèo giầu tình thương biết bao! Chúng ta bảo họ nghèo, nhưng thực sự, chính họ lại giầu có. Họ giầu tình thương và giầu lòng nhân ái. Chúng ta cần phải có một tình thương và đôi mắt nhân hậu để có thể khám phá ra những hạt giống tốt đã được gieo rắc trong tâm hồn họ và giúp cho những hạt giống ấy phát triển thêm nhờ vào cách đối xử nhân từ của chúng ta đối với họ.
Một lần, có một người đàn bà giầu có người Hindou đến thăm Mẹ. Bà ta nói với Mẹ:
- Thưa Mẹ, con ước ao được chia sẻ với Mẹ và cộng tác với Mẹ trong các hoạt động từ thiện.
- Tốt lắm! Mẹ đáp lại một cách vui vẻ.
Rồi bà ta thú thực với Mẹ là bà ta có một điều rất khó bỏ, dó là tính khoe khoang, ưa làm dáng. Bà thích mặc những chiếc áo xari, những bộ đồ Ấn Độ lộng lẫy và đắt tiền. Hôm ấy, bà mặc bộ áo xari trị giá 65 đôla, trong khi chiếc áo xari của Mẹ Têrêsa đang mặc chỉ đáng giá 65 xu, chưa đầy một đôla. Như được ơn trên soi sáng, Mẹ Têrêsa bỗng nảy ra một tư tưởng hay. Mẹ đề nghị với bà ấy bắt đầu cộng tác với Mẹ về những bộ áo xari đó. Mẹ khiêm tốn đề nghị:
- Từ nay trở đi, thay vì mua sắm những bộ aó xari trị giá 65 hoặc 100 đôla, thì bà chỉ nên mua những bộ rẻ tiền hơn, chừng 45 hoặc 50 đôla thôi. Số tiền còn lại, bà hãy mua những bộ áo xari đơn sơ khác dành cho người nghèo.
Bà ấy vui vẻ hưởng ứng lời đề nghị của Mẹ, rồi dần dần bà đã biết dùng những bộ áo xari rẻ tiền hơn. Sau này, chính bà ấy đã thú nhận với Mẹ Têrêsa rằng:
- Thưa Mẹ, từ ngày con bắt đầu từ bỏ những vẻ hào nhoáng vô ích bên ngoài đó, tâm hồn con cảm thấy được tự do hơn, nhẹ nhàng hơn. Con đã học biết và hiểu rõ hơn thế nào là cho đi, thế nào là chia sẻ. Và trong cách chia sẻ như thế, con phải thú nhận rằng chính con đã được lãnh nhận nhiều hơn những gì con đã cho đi và chia sẻ với những anh chị em nghèo khó!
45.Tin và theo Chúa Giêsu--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Báo Tuổi Trẻ Cười có bài thơ:
“Ông Tiền, ông Phật, ông Tiên,
Ba ông đứng lại, ông Tiền cao hơn.
Tiền nhiều: mặc kệ... vẫn hơn,
Dẫu cho nhân sự ngã nghiêng tứ bề.
Tiền nhiều chẳng ngán chẳng lo,
Phất tay một cái nhằm nhò gì ông”.
Con người dù sở hữu nhiều “ông tiền” và “mua tiên cũng được”, nhưng chắc gì đã hạnh phúc?
Ngày 06.6.1976, tỷ phú Paul Getty qua đời, để lại một gia sản từ hai đến bốn tỷ đôla. Sau năm lần ly dị, ông đã tuyên bố với báo chí: Tôi mong dùng tất cả gia tài của tôi để xây dựng một cuộc hôn nhân hạnh phúc. Tôi thất bại. Tôi không đạt được hạnh phúc gia đình. Tiền bạc không thể mua được hạnh phúc. Trái lại, nó còn có họ hàng bà con với những nỗi bất hạnh nữa.
Cơ quan vũ trụ Nasa của Mỹ đã từng tiết lộ: khi phi hành gia lần đầu tiên trên trái đất đặt chân lên mặt trăng, nhìn cảnh vật, ông ấy đã thốt lên “ Ôi, yên bình quá, ở đây không có tiền”.
Một cuộc sống đầy đủ không thể không có tiền, nhưng nhiều tiền chưa hẳn đã có hạnh phúc. Sự giàu sang không đương nhiên mang lại hạnh phúc cho con người.
Trang Tin mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của và vẫn thao thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thuở nhỏ.
Một thanh niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn. Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm bậc “Thầy nhân lành”. Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi “anh có giữ các giới răn không?”. Anh đáp dứt khoát và mau lẹ: “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”.
Chúa Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn, Chúa “Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương”. Chúa thương vì thấy chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ cho anh thấy con đường: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi” (Mc 10, 21). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được hạnh phúc, được sự sống đời đời.
Thánh Máccô kể chuyện cách dí dỏm: “Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10, 22). Niềm vui lịm tắt, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được sự sống đời đời nhưng lòng gắn bó với của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.
Có lẽ các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ?
Chàng trai trẻ tiếc của bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa “nhìn chung quanh” và nói: “Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao”. Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải “kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó” (Lc 12,34), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là tiền tài (x. Lc 16,13). Lời Chúa thật “sắc bén như gươm hai lưỡi”. Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.
Chàng trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa nhưng trở về với nổi buồn.Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với của cải. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu. Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quãng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.
Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.
Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói: Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất. Chúa Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ rơi từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được (Lc 12, 16-21; 16, 19-26). Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc 12, 20). Khi các phú hộ ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm”, Tổ phụ Abraham đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc 16, 23-25).
Con người thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.Những tiêu chuẩn mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị, danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.
Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biêt dừng lại để thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm. Dâng một thánh lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến... Biết bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.
Chúa Giêsu không chọn những thanh niên “học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu”. Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có “tấm lòng”, vì “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Người trẻ luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới Chân Thiện Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô, Đấng “là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống” (Ga 14,6). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng... đang lôi cuốn giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi loạn. Ý tưởng đó được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày Quốc Tế Giới Trẻ 1993 xác nhận: “Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình”.
Vì thế, cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để “coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan”; “Đức Khôn Ngoan hơn vương trượng, ngai vàng... của cải bằng không. So với Đức Khôn Ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn”. (Bài đọc 1). Khôn ngoan là sự giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu có, còn người Công chính coi Đức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Đức Khôn ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công chính Cựu ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước: bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Người. Đó là điều kiện nên người Công chính Tân ước.
Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.
Giá trị của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nới Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn, chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.
46.Bước theo Chúa Giêsu--Lm Nguyễn Hữu An
Các bạn trẻ thân mến!
Tôi xin được chia sẻ một đôi suy niệm của mình về người thanh niên trong trang Tin Mừng hôm nay.
- Đây là một người trẻ rất giàu có.
Tin Mừng không nói cho ta hay nguồn gốc về tài sản của anh, nhưng qua cuộc sống đạo hạnh của mình, chứng tỏ rằng anh là người dễ thành công trong cuộc sống và thực sự anh thành công trong cuộc sống trần thế. Anh ta có nhiều của cải
- Anh cũng là một người trẻ Do Thái công chính, ngay thẳng, không dối gian.
Bằng chứng qua việc anh tuân giữ các giới răn của Chúa thật tốt ngay từ lúc còn bé và dĩ nhiên đến hôm nay “chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ”. Thật là một người trẻ tuyệt vời trong đời sống niềm tin và xã hội của người Do Thái. Chính Chúa Giêsu cũng nhìn anh với ánh mắt yêu thương và trìu mến.
- Anh là người biết cầu tiến.
Sự cầu tiến ở đây không chỉ ở phương diện thế trần mà còn thể hiện trong đời sống tâm linh của anh “ Lạy Thầy nhân lành! Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Sự giàu có về vật chất, lòng đạo tinh tuyền của một người Do Thái, không làm cho anh tự kiêu tự mãn như anh biệt phái trong câu chuyện “người thu thuế và anh biệt phái lên đền thờ cầu nguyện”, trái lại anh vẫn luôn nghe được tiếng réo gọi trong tâm hồn anh về khát vọng sống đời đời. Anh khao khát và anh kiếm tìm. Anh kiếm tìm và anh đã gặp Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống đời đời. Thánh Luca ghi lại “khi ấy Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người “. Đây là một cử chỉ mang tính phụng vụ, cử chỉ của con người trước thần linh và như thế, người thanh niên này đã bước từ Do Thái giáo sang Kitô giáo. Thật là một quyết định sáng suốt, can đảm và khôn ngoan. Anh muốn được Đức Giêsu chỉ dạy như một vị Thầy.
- Nhưng tiếc thay! Anh không thể hoàn tất khởi đầu thuận lợi ấy. Anh thiếu một điều cơ bản là “ bỏ mọi sự để thuộc về Đức Kitô”
Thật vậy! Trang Tin Mừng cho ta thấy một khởi đầu thuận lợi nơi cuộc gặp gỡ và đối thoại giữa Chúa Giêsu và người thanh niên. Ai trong chúng ta và có lẽ chính anh cũng nghĩ rằng anh đầy đủ điều kiện để đón lấy sự sống đời đời mà không cần phải làm gì hơn nữa. Chính lúc ấy, và lần đầu tiên anh phải đối diện với Lời là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống. Lời mà thư Do Thái đã diễn tả thật hay “ Lời Thiên Chúa là lời hằng sống, hữu hiệu và sắc bén hơn cả gươm hai lưỡi: xuyên thấu chỗ phân cách tâm với linh, cốt với tuỷ, lời đó phê phán tâm tình cũng như tư tưởng của lòng người …” (Dt 4,12-13). Lời đã hoá thành xác phàm và đang đứng trước mặt anh: Đức Giêsu thành Nagiaret. Lời muốn anh đón tiếp Người để trao cho anh quyền làm Con Thiên Chúa, đây là ân huệ tuyệt đỉnh nhất mà Thiên Chúa muốn ban cho con người, đó cũng là sự sống đời đời mà anh khao khát kiếm tìm. Đón tiếp Ngài bằng một sự khó nghèo, một sự từ bỏ “anh chỉ thiếu có một điều, là hãy về bán hết những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời rồi hãy đến theo tôi.”.
Nghe lời trên anh sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi vì anh ta có nhiều tiền của. Anh sáng của Lời Hằng Sống tưởng sẽ xuyên thấu và đổi mới tâm hồn chàng trai trẻ bỗng khựng lại bởi bức tường của tiền bạc đang bao phủ vây kín cuộc đời anh, níu chặt lấy anh không cho anh bước theo Đức Giêsu. “ tim anh phút chốc bừng nắng hạ, nhưng tiếc thay mặt trời là lời chân lý không thể chói qua tim anh bởi anh đã khép tim mình lại trong bóng tối của tham sân si”.
Các bạn trẻ thân thương!
Qua câu chuyện của người thanh niên trong Tin Mừng, tôi rút ra mấy xác tín cho người trẻ chúng mình:
+ Thiên Chúa mới chính là gia nghiệp và là hạnh phúc đích thực cuộc đời của chúng ta chứ không phải tiền bạc, danh vọng, địa vị hay bất cứ một thế lực nào đó trên trần gian này. Người trẻ trong trang Tin Mừng là một minh chứng hùng hồn về nhận định “tiền không phải là tất cả”. Sự giàu sang không thể khoả lấp cơn đói khát nằm sâu trong tâm hồn con người. Trái lại sự giàu có dễ trở biến thành rào cản ta lãnh nhận hạnh phúc đích thực từ Thiên Chúa. Thánh Augustinô sau những tháng năm tìm kiếm sự thoả mãn cơn đói khát trong tâm hồn mình bằng danh - lợi - thú trần gian, cuối cùng Ngài mới nhận ra rằng “ Lạy Chúa! Chúa dựng nên chúng con là để cho Chúa, và vì thế tâm hồn chúng con khát khao cho đến khi nào được an nghỉ trong Ngài”. Sống và được no thoả trong Thiên Chúa thánh nhân đã nức nở “ ôi con yêu Chúa quá muộn màng, Ngài đã chiến thắng, con mù loà Ngài đã chiếu sáng, Ngài toả ngát hương và làm con say mến, Ngài là dịu êm và lòng con thao thức ngày đêm”. Mong thay, bạn sẽ không phải hối hận thốt lên như Augustiô “ôi! Con yêu Chúa quá muộn màng”. Nhưng nếu đã thấy đã muộn thì mau quay về với Ngài. Ngài vẫn chờ bạn như người cha ngóng chờ đứa con hoang đàng trở về. Bạn ơi! Hãy cho Chúa một cơ hội, một niềm vui, một lễ hội trên thiên đàng qua sự trở về của bạn. Bạn ơi với Chúa “ một ngày ví tựa ngàn năm”. Bởi đó, đối với Chúa không bao giờ là trễ cả.
+ Chúa Giêsu là vị Thầy duy nhất hướng dẫn ta đến cùng Thiên Chúa. Chính Ngài đã khẳng định “ không ai đến được với Cha mà không qua Thầy”. Thánh Phêrô cũng đã tuyên xưng” bỏ Thầy con biết đi theo ai. Thầy mới có những lời ban sự sống đời đời. Bởi Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Và như vậy hạnh phúc và ý nghĩa đời ta tuỳ thuộc vào thái độ và tương quan của ta với Đức Kitô. Anh Charles de Foucaul xác tín “ biết Đức Kitô đó là tất cả, phần còn lại chẳng là gì hết”. Biết Đức Kitô là biết, yêu mến và nên một với Người.
+ Bước theo Đức Kitô đòi ta phải từ bỏ không phải một lần nhưng là mọi ngày trong suốt đời ta. “ Ai muốn theo Tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập gía mình hàng ngày mà theo tôi”. Sự đòi hỏi của Đức Kitô có tính triệt để hiến dâng “không có tình yêu nào cao hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình vì người mình yêu”. Bạn và tôi được mời gọi từ bỏ những gì mình có, từ bỏ những gì làm thành cuộc đời mình, để thuộc về Đức Kitô cách trọn vẹn hơn. Cụ thể, người trẻ chúng mình phải bỏ qua lối sống đạo hời hợt bên ngoài, sống đạo cách tiêu cực, sống đạo theo thói quen mà thiếu hẳn xác tín, thiếu hẳn tình yêu và nhất là thiếu tính dấn thân trong việc sống, làm chứng và loan báo Chúa Kitô cho những người xung quanh
Cầu chúc các bạn hạnh phúc và làm cho mọi người và Thiên Chúa hạnh phúc.
47.Người công chính tân ước--Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tin mừng Mc 10: 17-27: Trang Tin Mừng gởi đến chúng ta những ánh sáng, chân lý tuyệt đẹp của Chúa Giêsu. Trước tiên, hình ảnh của người thanh niên được mô tả như là hiện thân cho một sự thành công trong cuộc sống hiện đại hôm nay....
Anh Giuse Cao Hữu Minh Trí, một dự thính viên trẻ người Việt Nam, 21 tuổi, đã phát biểu trong một cuộc họp báo tại Phòng Báo Chí Tòa Thánh, nơi Bộ Trưởng Bộ Truyền Thông của Tòa Thánh, Ông Paolo Ruffini, họp báo lúc 1 giờ 30 trưa ngày 14 tháng Mười để tường trình với các nhà báo về các đề tài của buổi họp sáng nay tại Thượng Hội Đồng về Người Trẻ, Đức Tin và Biện Phân Ơn Gọi.
Khi được hỏi: “Đâu là đam mê của bạn?”. Anh Trí trả lời: “Niềm say mê mang lại ý nghĩa là niềm say mê Thiên Chúa”. "Chính đam mê đối với Chúa" mới làm mọi người no thỏa. (x. Zenit 4.10).
Trang Tin mừng hôm nay kể chuyện một thanh niên đạo đức và có nhiều tiền của mà vẫn thao thức đi tìm hạnh phúc với lý tưởng hằng ấp ủ từ thưở nhỏ “phải làm gì để có sự sống đời đời làm gia nghiệp?”. Người trẻ khát khao tìm suối nguồn hạnh phúc.
Một thanh niên công chính, ngay thẳng, không dối gian. Một người trẻ tuổi tốt lành có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Thiên Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời. Chàng trai thật dễ thương, khao khát muốn vươn lên, băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành. Một thiếu gia có của mà không tìm hưởng thụ, nhưng lại nuôi ước vọng cao xa hơn. Chàng trai trẻ ước mơ một vùng trời lý tưởng. Ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm bậc “Thầy nhân lành”. Gặp Chúa Giêsu, anh quỳ xuống và thưa: Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với cả tấm lòng chân thành. Người hỏi “anh có giữ các giới răn không?”. Anh đáp dứt khoát và mau lẹ: “Thưa, tất cả những điều đó tôi đã giữ từ nhỏ”.
Chúa Giêsu nhìn anh với ánh mắt trìu mến. Khi biết anh đã giữ trọn các giới răn, Chúa "Chăm chú nhìn anh và đem lòng thương". Chúa thương vì thấy chàng trai trẻ thành tâm thiện chí. Chúa muốn giúp anh đi xa hơn trên con đường trọn lành, con đường tìm kiếm, con đường đòi hỏi từ bỏ và quảng đại. Chúa chỉ cho anh thấy con đường: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi“ ( Mc 10, 21 ). Đây là điều duy nhất, căn bản và cốt yếu để anh được hạnh phúc, được sự sống đời đời.
Thánh Máccô kể chuyện cách dí dỏm: “Nghe lời đó, anh ta sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10, 22). Niềm vui lịm tắt, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21). Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời. Anh muốn hạnh phúc, muốn được sự sống đời đời nhưng lòng gắn bó với của cải vật chất đã chặn bước đường đi tới.
Có lẽ các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ?
Chàng trai trẻ tiếc của nên bỏ đi. Chúa cũng tiếc thanh niên thiện chí. Chúa "nhìn chung quanh" và nói: "Những kẻ cậy dựa vào của cải, thật khó vào Nước Thiên Chúa biết bao". Theo Chúa Giêsu, người ta không thể thờ hai chủ cùng một lúc. Kẻ có nhiều của cải thì để tâm vào của cải “kho tàng ở đâu thì lòng trí ở đó” (Lc 12,34), cho nên phải chọn: một là Thiên Chúa, hai là tiền tài (x. Lc 16,13). Lời Chúa thật “sắc bén như gươm hai lưỡi”. Người giàu thiện chí cần phải cắt những ràng buộc vật chất để vươn cao lên.
Chàng trai trẻ vui mừng và hy vọng đi tìm con đường trọn lành. Phấn khởi gặp Chúa nhưng trở về với nổi buồn.Chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ. Anh ta chỉ muốn giữ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng anh ta vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với vật chất. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có. Người trẻ sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu. Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quảng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Người.
Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc.
Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người Công Chính Cựu Ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước: bán gia tài đem bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Ngài. Đó là điều kiện nên người Công Chính Tân Ước.
Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ. Đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Chúa Giêsu.
Giá trị của con người không hệ tại ở cái mình có, mà ở tại chính cái mình làm. Tất cả sự khôn ngoan và minh triết được đúc kết nới Chúa Giêsu. Tin vào Chúa Giêsu và sống theo giáo huấn của Người là sự khôn ngoan của người Kitô hữu.
Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất làm họ nô lệ cho của cải và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người ta thường nói: Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Đồng tiền liền với khúc ruột. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất. Chúa Giêsu đã nhiều lần ví những người giàu có như ông phú hộ tích trữ thóc lúa ăn chơi thỏa thích. Hay như ông phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, không để ý đến Lagiarô đói khổ thèm được mấy thứ từ bàn ăn rơi xuống mà vẫn không được (Lc 12, 16-21; 16, 19-26).Thiên Chúa bảo các ông phú hộ đó: “Đồ ngốc, nội đêm nay, người ta sẽ đòi lại mạng sống ngươi” (Lc 12, 20). Khi các phú hộ ở dưới âm phủ, ngước mắt lên kêu: “Ở đây con bị thiêu đốt khổ lắm”, Tổ phụ Abraham đáp lại: “Con ơi, hãy nhớ lại, suốt đời con đã được sướng rồi, bây giờ, phải chịu cực khổ thế là phải rồi” (Lc 16, 23-25).
Con người thường bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần để nó làm chủ mình. Của cải trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.Những tiêu chuẩn mà con người hôm nay đang đặt ra để trói buộc nhau như là tiền tài, địa vị, danh vọng; thực tế, nó không thể làm cho con người đạt tới hạnh phúc đích thực.
Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biết dừng lại để thưởng thức những niềm vui nhẹ nhàng trong cuộc sống. Gặp một nụ cười, ngắm một bông hoa. Thực thi một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái. Đọc một cuốn sách hay. Một cuộc trò chuyện thân mật. Một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm. Dâng một thánh lễ sốt sắng. Dự một giờ chầu sốt mến…Biết bao niềm vui an hòa mang đến hạnh phúc trong cái bình thường của đời thường. Có những người, giàu tiền bạc mà không biết vui cười, lắm của cải mà không biết yêu thương, sang trọng bề ngoài mà không có niềm vui nội tâm, thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền. Con người còn có rất nhiều niềm vui tinh thần, biết bao hạnh phúc thiêng liêng.
Chúa Giêsu không chọn những thanh niên “học giỏi, đẹp trai, con nhà giàu”. Chúa chọn những thanh niên, những người lao động xem ra chẳng bảnh trai hay học thức, nhưng Chúa cần nơi họ là có “tấm lòng”, vì “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”.
Người trẻ luôn ước mơ, luôn khao khát, luôn tìm kiếm và luôn có đủ nghị lực để vươn tới Chân Thiện Mỹ. Nhân loại sẽ không tìm thấy giải đáp nào thoả đáng hơn ngoài Chúa Giêsu Kitô, Đấng “là Con Đường, là Chân Lý và là Sự Sống” (Ga 14,6). Trong xã hội ngày nay, có biết bao cuộc vui chơi giải trí, có biết bao phong cách hào hoa, có biết bao chủ thuyết hứa hẹn một tương lai tươi sáng… đang lôi cuốn giới trẻ. Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một sự thật là: con người đứng trước một thế giới tương đối, hữu hạn nhưng tâm hồn lại luôn hướng về những giá trị tuyệt đối, vô biên. Đó là một mâu thuẫn lớn nhất trong con người, đặc biệt là nơi giới trẻ. Nếu không có một đời sống tâm linh vững vàng thì người trẻ dễ rơi vào tình trạng chán chường, thất vọng và phản ứng nổi loạn. Ý tưởng đó được Thánh Gioan Phaolô II, trong sứ điệp ngày Quốc Tế Giới Trẻ 1993 xác nhận: “Chỉ có Đấng tạo dựng nên tâm hồn con người mới có thể đáp ứng cách thích đáng những mong chờ mà con người mang trong mình”.
Vì thế, cần phải cầu xin cho có được sự hiểu biết để “coi của cải chẳng là gì so với Đức Khôn Ngoan”; “Đức khôn ngoan hơn vương trượng, ngai vàng…của cải bằng không. So với đức khôn ngoan, vàng trân châu bảo ngọc chẳng qua là một chút cát, bạc chẳng qua như chút bùn”. (Bài đọc 1). Khôn ngoan là sự giàu sang, là sự hiệp thông với ân sủng của Thiên Chúa. Người đời thường quý chuộng tiền bạc và sự giàu sang, còn người Công chính coi Ðức Khôn Ngoan là điều quý trọng hơn cả. Khôn ngoan quý trọng hơn tiền bạc, ngọc ngà, châu báu. Khôn ngoan quý hơn sức khoẻ và sắc đẹp. Cùng với Ðức Khôn Ngoan, mọi sự tốt lành đến với người công chính.
Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã chỉ dẫn con đường hạnh phúc đời đời. Xin cho chúng con trung thành theo đường lối khôn ngoan thánh thiện Chúa dạy, luôn giữ các giới răn, chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày. Amen.
48.Người công chính Tân Ước--Lm Nguyễn Hữu An
Một thanh niên tốt có thiện chí, giữ trọn các giới răn của Chúa và còn muốn làm điều tốt hơn nữa để được sự sống đời đời.Chúa Giêsu đem lòng yêu mến người thanh niên này. Chàng trai thật dễ thương, khắc khoải muốn vươn lên,băn khoăn muốn làm thêm gì đó để nên tốt hơn, thao thức hướng tới trọn lành,có tinh thần cầu tiến. Anh ước mơ một vùng trời lý tưởng,ước mơ ấy cất tiếng gọi anh đi tìm “Thầy nhân lành”.”Thưa Thầy, tôi phải làm gì để đạt được ước mơ mà tôi hằng ấp ủ? Người thanh niên hỏi Chúa Giêsu với tất cả tấm lòng chân thành.”Hãy từ bỏ hết tất cả những gì con có rồi theo Ta.”. Nghe xong, người thanh niên buồn bả bỏ đi (Mt 19,20-21).Và từ đó ước mơ của anh héo úa theo dòng đời.Các môn đệ tiếc nuối: sao Thầy không chiêu mộ người thanh niên giàu có này làm môn đệ nhỉ? Còn Chúa Giêsu thì thương tiếc anh và những người giàu: “Những người giàu có mà vaò Nước Chúa thật khó biết bao,! Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Chúa”
Niềm hy vọng có một con đường dẫn thẳng đến Thiên Chúa đã khơi dậy niềm vui lớn lao thế nào thì giờ đây lại là một nổi buồn thất vọng chua chát. Phấn khởi gặp Chúa nhưng lại ra đi đầy phiền muộn, chàng trai trẻ không muốn trả giá, không muốn mạo hiểm làm môn đệ,anh chỉ muốn giũ của cải đảm bảo cho cuộc sống vật chất, phòng thân, dưỡng già. Muốn theo Chúa Giêsu nhưng nhưng anh vấp phải một chướng ngại, một sức khống chế, đó là lòng gắn bó với của cải. Của cải như tấm kính mờ che lấp ánh sáng khi mà ánh sáng muốn soi vào lòng anh. Người thanh niên này có tất cả để được hạnh phúc nhưng chỉ còn thiếu một điều là khả năng theo Chúa.
Những thanh niên tốt như vậy thời nào cũng có nhưng hiếm có những thanh niên thiết tha đến việc trở nên tốt hơn và lại càng hiếm hoi những người trẻ nhân hậu xứng đáng nên mẫu gương thu hút kẻ khác.
Người thanh niên Do thái này là người tốt,sùng đạo và khao khát sự sống đời đời. Anh có duyên may gặp được Chúa Giêsu, một bậc thầy có lòng nhân hậu.Nhưng tiếc thay! Anh không đủ can đảm, không đủ quãng đại bác ái để đáp ứng đòi hỏi của Chúa Giêsu là từ bỏ những gì mình có để theo Ngài.
Chúa đòi hỏi nơi anh điều anh muốn giữ lại vì của cải là chỗ dựa của đời anh. Anh sẵn sàng làm mọi điều Chúa đòi hỏi trừ việc bỏ chỗ dựa này. Nô lệ cho của cải, người thanh niên không đủ can đảm để ra khỏi ràng buộc. Người giàu có không được cứu độ chẳng phải vì họ giàu, nhưng sự trói chặt của vật chất của cải làm cho họ nô lệ và lãng quên Thiên Chúa. Của cải có thể là cạm bẫy che mất lương tâm, cản trở bước đường đến trọn lành. Người giàu lấy của che thân. Người nghèo lấy thân che của. Giàu không phải là tội, nghèo chẳng phải là nhân đức. Điều quan trọng theo tinh thần Phúc âm là thái độ con người trước của cải vật chất.
Bi kịch của người thanh niên cũng là của chúng ta. Ai trong chúng ta cũng đã từng bị giằng co giữa ước mơ bay cao và sự kéo gì của vật chất. Của cải vật chất có sức hấp dẫn mãnh liệt. Con người làm chủ nó và dần dần nó làm chủ con người, trở thành lẽ sống mà con người không thể dứt bỏ.
Những tiêu chuẩn con người đang đặt ra để trói buộc nhau như tiền tài, địa vị, danh vọng không thật sự làm cho mình sống thảnh thơi hạnh phúc. Chúa Giêsu mang đến cho chúng ta một tin vui. Có những niềm hạnh phúc lớn lao mà Thiên Chúa ban cho chúng ta qua từng phút giây đang sống. Biết dừng lại đề thưởng thức một nụ cười, một bông hoa, một cử chỉ yêu thương, một việc làm bác ái, đọc một cuốn sách hay, một cuộc trò chuyện, một buổi tối đọc kinh chung trong gia đình, trong khu xóm, dâng một thánh lể sốt sắng, dự một giờ chầu sốt mến… Giàu tiền mà không biết cười, không biết yêu thương, không có niềm vui nội tâm thì cũng chỉ là bất hạnh. Con người con có những giá trị tinh thần, những giá trị thiêng liêng chứ không chỉ dừng lại nơi cơm áo gạo tiền.
Người thanh niên trong Tin mừng hôm nay là người trẻ đàng hoàng và lương thiện, sống một cuộc sống không có gì đáng chê trách, không có tội lỗi gì đáng phàn nàn, không có tật xấu để sửa sai. Anh là hình ảnh người công chính Cựu ước chu toàn lề luật. Chúa Giêsu âu yếm nhìn anh và muốn anh tiến thêm một bước nữa để nên người Công Chính Tân Ước: bán gia tài bố thí cho người nghèo, sẽ có một kho báu trên trời và hãy theo Ngài. Đó là điều kiện nên người công chính Tân ước.
Không ngoại tình, không giết người, không trộm cắp, không làm chứng gian, không lường gạt ai, không bất hiếu với cha mẹ, đó mới là điều kiện thứ nhất sống tốt lành về mặt luân lý. Điều kiện thứ hai là tin và theo Đức Giêsu. Không phải chỉ cần không làm việc này, việc nọ đã là nhân lành, thiện hảo, người Kitô hữu được mời gọi sống cao hơn, đó là chia sẽ tình thương với tha nhân, tin và bước theo Chúa mỗi ngày.
49.Lỗ kim và lạc đà--Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng
Chúa tuyên bố:“Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”. Lạc đà chui lỗ kim? Không tưởng.
Nhưng tại sao điều không tưởng lại được Chúa sử dụng để làm ví dụ so sánh với người giàu, so sánh với sự giàu? Nói như thế, hình như thiên đàng… không có người giàu? Nếu thế, các Tổ phụ của chúng ta, Abraham, Isaac…, nức tiếng giàu có, các ngài ở đâu?
Hơn thế, trong Hội Thánh, ngoài xã hội, không thiếu những người giàu đầy lòng yêu mến Chúa, sống có nhân có nghĩa, luôn thi hành đức bác ái, làm giàu bằng lương tâm chân chính…, tất cả họ ở đâu sau khi rời trần thế?
Không, Chúa không quy chụp tất cả những người giàu theo nghĩa “cá mè một lứa”. Không phải cứ là người giàu thì phải ở ngoài thiên đàng, còn cứ là người nghèo thì vào thiên đàng. Không phải Chúa bênh vực người nghèo và bỏ rơi người giàu. Giàu, tự nó không làm nên tội. Cũng vậy, nghèo, tự nó không lập công phúc.
Bằng hoàn cảnh cụ thể về một người giàu có, – được Chúa mời gọi “hãy bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy theo tôi”. Anh đã không đáp trả ơn gọi của mình, nhưng lại “sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi” – Chúa đưa ra kết luận: “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa”, trước là nói đến chính anh ta và những người có thái độ giống như anh: giàu của nhưng không giàu lòng. Sau là Chúa dạy từng người chúng ta phải mở rộng bàn tay, không để mình nô lệ của cải để có thể dễ dàng sống bác ái, sống hiến dâng một cách nhanh nhẹn, không tính toán.
Giàu hay nghèo không là cơ sở để Chúa phán xét. Tấm lòng con người mới là điều quan trọng để quyết định tội – phúc. Giàu lòng sẽ dẫn ta đến giàu nhân, giàu nghĩa, giàu sự xót thương, giàu tình bác ái. Do sự giàu lòng ấy, chúng ta cũng sẽ trở nên giàu công đức, giàu ân phúc của Thiên Chúa.
Có một cách để chúng ta có thể làm giàu lòng mình, đó là:
- Nếu gọi “lỗ kim” là sự rộng lượng, là tinh thần quảng đại, thì hãy làm cho lỗ kim lớn hơn “con lạc đà”. Nghĩa là ta phải tập sống mỗi ngày một biết yêu tha nhân hơn, sống siêu thoát với tiền của hơn. Ta hãy tự nhủ mình: “Chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân…” (kinh Hòa Bình), để có thể sống rộng lượng hết sức và sống tinh thần quảng đại ở mức độ cao nhất.
Hãy nhớ câu chuyện về một người giàu, khi còn sống đã trối cho người thân, và sau khi ông chết, người thân của ông đã làm theo lời trăn trối. Họ ghi trên chính ngôi mộ của ông những lời thấm thía: “Những gì tôi có, nay đã thuộc về người khác. Những gì tôi đã mua sắm, nay người khác hưởng dùng. Những gì tôi đã cho đi, nay thuộc về tôi”.
Chỉ có sự cho đi, chỉ có lòng quảng đại ban phát, mới là cách biến “lỗ kim” của tình yêu rộng lượng, tình yêu dấn thân, tình yêu hy sinh, tình yêu bác ái, tình yêu dựng xây đời sống chung… mở rộng ra, để ta, dù giàu hay nghèo, dễ dàng đi vào hưởng Nước Chúa.
- Nếu gọi “con lạc đà” là sự tham lam, ích kỷ, thì hãy làm cho con lạc đà nhỏ hơn “lỗ kim”. Nghĩa là phải rèn mình cho sự hẹp hòi, sự tính toán cho bản thân, sự thu tích để làm giàu vật chất… ngày càng nhỏ lại. Hãy kiên trì rèn mình mỗi ngày, đến khi nào con lạc đà của sự tham lam, ích kỷ không còn. Hãy nhớ, càng quảng đại cho đi, sự tính toán cho bản thân cứ như thế, sẽ dần dà nhỏ lại.
Có lần, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy: “Không ai có thể làm tôi hai chủ: vì hoặc nó sẽ ghét người này, và yêu mến người kia, hoặc nó chuộng chủ này, và khinh chủ nọ. Các con không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền Của được” (Mt 6, 24).
Ai cậy dựa vào tiền của, người đó sẽ lãnh lấy sự bạc bẽo của tiền của, nhất là trong ngày mình xuôi tay nhắm mắt. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng muôn đời tín trung, sẵn sàng ban phát chính Người cho ta. Người sẽ theo ta trên mọi nẻo đời. Người không bỏ ta khi ta rời trần thế, điều mà tiền của không thể thủy chung như thế được.
Hãy tín thác mình trong tay Chúa. Hãy để Chúa làm chủ cuộc đời ta. Nếu trọn cuộc đời, ta chỉ tin tưởng Chúa và để một mình Người định liệu, dẫn dắt ta đi theo cách của Người, thì chắc chắn, ta không còn mê của thế gian, không còn sợ đói nghèo đến nỗi phải lo thu tích, vun vén cho bản thân.
Vậy, chúng ta hãy nhanh chân đi đến địa chỉ mà Chúa nói rõ trong đoạn Tin Mừng khi âu yếm nhìn chàng thanh niên giàu có. Địa chỉ đó là người nghèo: “Anh chỉ thiếu một điều, là bán hết của cải đem phân phát cho kẻ nghèo”.
Dù cho “làm lớn” cái lỗ kim, hay “thu nhỏ” con lạc đà, tất cả nhắm một điểm quan trọng duy nhất: mến Chúa và yêu người. Mến Chúa để yêu thương con người. Và yêu con người để chứng minh lòng yêu mến Chúa nơi bản thân.
Mến Chúa đòi phải thi hành lòng mến ấy cách thực tế nơi anh chị em. Vì“sự gì ngươi làm cho một người bé mọn nhất vì danh Ta, là làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Và yêu anh chị em bằng việc làm cụ thể chính là thể hiện lòng yêu mến Chúa ra bên ngoài cách tỏ tường.
50.Tốt lành và nhân lành--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB
Chàng thanh niên (Mt 19:20) hay một thủ lãnh (Lc 18:18) được nói tới trong giai thoại này chắc hẳn là một người tốt và gương mẫu theo tiêu chuẩn Do Thái, điển hình là từ thuở nhỏ anh/ông đã giữ trọn mọi giới răn. Nếu thế, anh thực sự kiếm tìm gì khi tới gặp Đức Giêsu; nói cách khác, điều gì anh muốn diễn đạt qua câu nói: “được sự sống đời đời làm gia nghiệp”? Trong thâm tâm có thể anh đã ngờ ngợ rằng: tốt lành mà thôi có lẽ là chưa đủ; vì anh là người đầu tiên đã chủ động thân thưa với Đức Giêsu như người ‘Thầy nhân lành’.
Theo dõi cuộc dối thoại giữa Đức Giêsu với chàng thanh niên nọ, Kitô hữu chúng ta nhận ra một điều rất căn bản: ‘tốt / lương thiện’ và ‘nhân lành’ là hai điều hoàn toàn khác nhau; ‘tốt lành’ thuộc lãnh vực con người, lãnh vực Cựu Ước nhờ nắm giữ trọn các điều răn, còn ‘nhân lành’ hoàn toàn thuộc lãnh vực thần linh, “Không ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa” như Đức Giêsu đã minh định. Biện phân này giúp ta hiểu được cái mới mẻ rất mực độc đáo của Tin Mừng.
Tất cả tùy thuộc vào việc ta hiểu ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ là thế nào: phải chăng là được lên thiêng đàng, khỏi phải sa hỏa ngục vì đã sống tốt, sống lương thiện, đạo đức hay là một điều gì khác?
‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là được lên Thiên Đàng; phần thứ nhất trong lời giải đáp của Đức Giêsu có vẻ như tập trung vào quan niệm phổ thông này: thiên đàng được hiểu như phần thưởng dành cho kẻ tốt / người lương thiện. Do đó chỉ cần không phạm tội là đủ để được vào thiên đàng, còn kẻ xấu sẽ không được vào; thế nhưng phân biệt xấu / tốt là lãnh vực thuần luân lý; xã hội nào thì cũng phân loại người tốt kẻ xấu, tùy vào tiêu chuần xã hội đó đề ra. Trong xã hội Do Thái thời Cựu Ước, kẻ tốt rõ ràng là người tuân giữ căn kẽ các giới răn và lề luật. Hiểu như thế thì vào thời buổi nào và ở bất cứ nơi đâu cũng đều có những người đáng lên thiên đàng cả! Nếu căn cứ theo tiêu chuẩn này, thì chàng thanh niên trong câu chuyện chắc chắn sẽ được lên thiên đàng thôi! Hơn nữa hệ luận của lối suy nghĩ này sẽ là: Tin Mừng không nhất thiết là cần, và ơn cứu chuộc của Đức Kitô là không mấy thiết yếu, và chỉ đóng vai trò hỗ trợ người ta trở nên tốt mà thôi.
‘Được sự sống đời đời làm gia nghiệp’ có nghĩa là: được vào Nước Thiên Chúa; trong phần hai của câu giải đáp, hình như Đức Giêsu lại muốn triển khai khái niệm này. Người khảng định: chỉ một mình Thiên Chúa, chứ không ai khác, là ‘nhân lành’. Điều đó có nghĩa là: tự mình không một ai, dầu có tốt lành tới mấy, có thể vào được Nước Thiên Chúa. Nhân lành không thuộc lãnh vực tự nhiên, mà phải thuộc lãnh vực thần linh! Dĩ nhiên Thiên Chúa là vô cùng tốt lành, vì Ngài là chân - thiện - mỹ; điều này thì nhờ suy luận triết học con người cũng có thể biết được: Deus bonum est… Đức Giêsu đã đến trần gian không để nói về sự tốt lành hay thánh thiện này của Thiên Chúa. Điều Ngưởi muốn mạc khải là Thiên Chúa nhân ái và cứu độ! Theo Người, Nước Thiên Chúa trước hết phải là vương quốc của nhân ái thần linh; nói cách khác, sự thánh thiện đạo đức của vương quốc đó hệ tại ở ‘nhân lành của từ ái xót thương’, chứ không phải ‘tốt lành của luân lý’.
Chàng thanh niên tuy có tốt lành thánh thiện theo tiêu chuẩn Do Thái, nhưng chưa có lòng nhân ái của Tin Mừng. Để có thể trở nên nhân lành, Đức Giêsu đã mời gọi anh: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo… rồi hãy đến theo tôi”. Hai tiêu chuẩn chính của nhân lành Đức Giêsu đề ra là: chấp nhận Tin Mừng Đức Kitô và sống chan hòa với tha nhân; và vì thấy mình không thể đạt được hai chuẩn đó nên ‘chàng buồn rầu bỏ đi’. Các môn đệ Đức Giêsu sẽ phải học biết nhân ái Tin Mừng nhờ đi vào con đường Thập Giá theo Thầy và từ bỏ mọi sự. Như vậy ơn gọi Kitô hữu của chúng ta sẽ hệ tại ở sống Tin Mừng bác ái theo Người Thầy nhân ái, hơn là chỉ lo sống tốt - lương thiện qua việc giữ trọn các giới răn, cho dầu đó có là các điều luật thánh của Thiên Chúa hay của Hội Thánh đi nữa.
Trong tư cách linh mục, chính tôi phải sống thế nào để tất cả sẽ bảo đảm ‘được sự sống đời đời làm gia nghiệp’, đồng thời phải dạy giáo dân sống như thế. Đó quả là vấn đề mục vụ có tầm quan trọng bậc nhất đấy!
Lạy Cha là Đấng chân thiện mỹ, hôm nay Cha dạy cho con biết nhân ái là điều còn cao quí hơn chân thiện mỹ tới cả ngàn lần; chính nhờ Lời mạc khải của Con Một Cha con mới biết được điều quan trọng này. Xin cho con biết sống lòng nhân ái như giá trị lớn hơn hết thảy, có khả năng làm cho con nên giống Đức Kitô Con Cha. Cũng xin cho con sẵn sàng chấp nhận mọi hy sinh để trở nên nhân ái như Chúa Cha trên trời. Amen.
51.Đứt ruột--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Đói thì đầu gối phải bò. Hết gạo chạy rong, nhất nông nhì sĩ. Có thực mới vực được đạo. Nhiều câu thơ, nhiều ngạn ngữ dân gian như muốn khẳng định rằng cuộc sống con người như mãi long đong, vất vả vì các nhu cầu căn bản để sinh tồn xét như là một sinh vật. Chuyện cơm áo, gạo tiền nó nhũng nhiễu con người mãi không ngơi. Chưa hết, bên cạnh cái trí khôn ý thức về sự cao quý của phận làm người thì cái ý chí tự do lại thúc bách con người tìm kiếm, thủ đắc các như cầu ngày càng cao và đa dạng. Ăn no, mặc ấm vẫn chưa đủ, còn phải ăn ngon và mặc đẹp. Trong cuộc sống, người ta không chỉ trông mặt mà bắt hình dong mà còn thường hành xứ theo kiểu đồng tiến đi trước, mực thước theo sau. Cảnh đời tréo nghoe mà không hiếm: "Bần cư náo thị vô nhân vấn. Phú tại sơn lâm hữu khách tầm".
Không giới hạn trong tương quan giữa người với người, ngày nay, khi có những chuyện bất bình giữa các quốc gia hay tập thể, người ta cũng lại sử dụng đòn chiêu: trừng phạt kinh tế. Đồng tiền dính liền khúc ruột. Để có được sự tự do với tiền của, thì quả là không mấy dễ, ngay cả với những người thường lên tiếng trong các lãnh vực đạo đức, tôn giáo. Xin chớ vội trách người thanh niên có nhiều của cải mà Tin Mừng tường thuật. Nếu như giờ này Chúa Giêsu nói với chúng ta: "Hãy về bán đi tất cả những gì người có mà cho người nghèo, rồi đến mà theo Ta", thử hỏi có được bao nhiêu người đáp trả dứt khoát và triệt đễ như thánh Phanxicô thành Axidi năm nào?
Người ta dễ dàng chấp nhận với nhau rằng tiền của chỉ là cái góp phần xây dựng hạnh phúc chứ không phải chính là sự hạnh phúc. Người ta cũng dễ dàng đồng thuận với nhau rằng tiền bạc chỉ là tên nô lệ chứ không phải là ông chủ. Người ta không chối cãi sự thật là tiền của mang tính "phù hoa" và nhất là nó không thể theo chúng ta vào huyệt lạnh. Thế nhưng, nói thì dễ nhưng sống thì không dễ chút nào. Không ai muốn tự chặt đứt khúc ruột của mình cả. Chẳng ai muốn từ bỏ một thứ sức mạnh vốn rất hiệu nghiệm trong rất nhiều trường hợp đó là đồng tiền, vì "tiền là tiên là Phật, là sức bật của tuổi trẻ, là sức khỏe của tuổi già, là cái đà của danh vọng, là cái lọng che thân...".
Dù là một kiểu nói ngoa ngữ, phóng đại để muốn nhấn mạnh, nhưng chúng ta không thể không giật mình trước lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào Nước Thiên Đàng" (x.Mc 10,23-26). Ngay các tông đồ cũng sửng sốt và nói với nhau: Thế thì ai có thể được cứu rỗi, nghĩa là hưởng phúc Thiên đàng? Khi giải đáp thắc mắc cho các tông đồ rằng đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì mọi sự đều có thể được, thì Chúa Giêsu muốn khẳng định với chúng ta nhận ra sự thật này: hạnh phúc Nước Trời tiên vàn là quà tặng Chúa trao ban chứ không phải do công sức của loài người chúng ta.
Đã hơn một lần Chúa Giêsu cảnh báo chúng ta về mối nguy cơ của tiền bạc khi nó được phong làm thần thánh: "Không được làm tôi hai chủ..."(x.Mt 6,24; Lc 16,13). Chước cám dỗ xem tiền là tiên là phật tuy có đó nhưng xem ra không bằng chước cám dỗ xem đồng tiền có sức mạnh vạn năng kiểu có tiền mua tiên cũng được, có tiền là mua được cả nước thiên đàng. Khi chiều theo chước cám dỗ đề cao sức mạnh của đồng tiền thì người giàu có bị cám dỗ xem hạnh phúc nước trời là điều mình có thể mua, có thể trao đổi bằng công sức hay tiền bạc.
Hẳn chúng ta đồng thuận với nội hàm một ngạn ngữ Trung Quốc rằng tiền bạc có thể mua được đồng hồ quý nhưng không mua được thời gian; tiền bạc có thể mua được giường sang, nệm êm, chăn ấm, nhưng không mua được giấc ngủ ngon; tiền bạc có thể mua được cao lương mỷ vị nhưng không mua được sự ngon miệng... Thế nhưng trong thực tế chúng ta lại hành xử theo kiểu như tiền bạc là nền tảng, là nguyên nhân đem lại hạnh phúc. Nếu đã xác tín rằng hạnh phúc đích thật là hạnh phúc nước trời, tiên vàn là ân ban của Thiên Chúa, thì những gì chúng ta thu được mà chủ yếu bằng việc trao đổi, mua bán bằng của cải, tiền bạc chắc chắn không phải là hạnh phúc vĩnh cửu. Với luận lý này, chúng ta mới hiểu lời khẳng định của Đấng Cứu độ: "người giàu có khó vào Nước Trời hơn cả con lạc đà chui qua lỗ kim". Lời Chúa thật săc bén hơn cả thanh gươm hai lưỡi! (x. Dt 4,12).
Ngoài ra chúng ta cần chân nhận hiện thực này: khi đã đủ đầy, sung túc của tiền thì con người rất dễ bị biến tướng, bị tha hóa, bị thoái hóa. Vốn là một trong những thiện hảo tự nhiên Chúa dựng nên và ban tặng, nhưng của cải, tiền bạc rất dễ trở thành miếng mồi nhữ của thần dữ như trái táo trong vườn địa đàng khiến chúng ta đi trệch hay đi ngược với huấn lệnh Chúa truyền. Không chỉ có chuyện "no cơm ấm cật, dậm dật khắp nơi" mà các mối tương quan cũng dễ bị sứt mẻ do bời của cải tiền bạc. Tình bác cháu như Abraham với Lót, tình anh em ruột thịt như Êsau và Giacóp cũng khó bền vì của cải. Thánh Kinh ghi cùng một câu trong cả hai trường hợp: "họ có quá nhiều tài sản nên không thể ở chung với nhau được" (St 13,6; 36,7). Một khi đã không thể "ở chung" với nhau được thì làm sao có thể ở cùng Thiên Chúa, Đấng là Cha của hết mọi người? Và biết bao nhiêu chuyện chẳng hay, làm nứt vỡ tình mẹ cha, nghĩa huynh đệ... vẫn xảy ra trước mắt chúng ta mà nguyên nhân chính là vì tranh chấp của cải. Thánh Tông đồ dân ngoại đã nói với môn đệ Timôtê rằng: "Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé" (Tim 6,10).
Trong kiếp lữ thứ này, chúng ta không thể sống như thiên thần, không màng gì đến chuyện vật chất của tiền, vì không chừng sẽ rơi xuống thành loài vật (Pascal). Vấn đề đặt ra đó là phải biết làm chủ vật chất, tiền bạc cũng như phải biết tự do với nó. Một mẫu gương đáng cho chúng ta noi theo mà Tin Mừng hôm nay ghi lại đó là Phêrô. " Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy". Chúa Giêsu không phản bác nghĩa là Người chân nhận điều ấy. Không phải Phêrô đã vất bỏ mọi sự, của cải vật chất. Nhà của ngài còn đó, thuyền của ngài còn đó...nhưng ngài sẵn sàng trao dâng cho Chúa khi Chúa cần dùng vì lợi ích của tha nhân, sẵn sàng gác nó một bên để lên đường đi rao giảng tin mừng.
Biết rằng đồng tiền dính liền khúc ruột, tuy nhiên khi khúc ruột ấy là khúc ruột thừa đã bị viêm hay là khúc ruột non dính ung bướu thì không thể không cắt bỏ đi. Nhiều thánh giáo phụ như Hiêrônimô, Âugustinô khẳng định rằng những gì chúng ta đang sở hữu trên mức cần thiết đều là của người nghèo. Ước gì thỉnh thoảng chúng ta biết tập sống anh hùng một chút khi sẵn sàng dâng trao vài trăm ngàn, dăm bảy triệu vì một việc từ thiện nào đó hay vì công cuộc truyền giáo nào đó. Quả là không dễ, nhưng không cái khó nào là không thể vượt qua, nhờ ơn Chúa giúp và quyết tâm của chính chúng ta.
52.Điều cần phải bỏ trên đường theo Giêsu--Lm. Nguyễn Ngọc Thế
Vài hàng sơ lược
- Đoạn phúc âm này là bài giáo huấn thứ 3 trong chương 10, sau lời giáo huấn về hôn nhân (10,2-12) và về tinh thần của trẻ em (10, 13-16). Đề tài chính của đoạn này là câu hỏi về sự sống đời đời làm gia nghiệp trên nước Trời, và tinh thần theo Giêsu.
- Đoạn này có thể chia làm 3 phần: (1) từ câu 17-22 là cuộc gặp gỡ và trao đổi giữa Giêsu và người thanh niên giàu có đi tìm sự sống đời đời làm gia nghiệp. (2) Từ câu 23-27, Đức Giêsu giáo huấn tinh thần nghèo khó cần có trên đường theo Chúa, và cần có để được vào nước Trời. Và (3) từ 28-31, câu hỏi của Phêrô về phần thưởng khi theo Giêsu, và câu trả lời của Giêsu.
Suy niệm
“17 Đức Giêsu vừa lên đường, thì có một người chạy đến, quỳ xuống trước mặt Người và hỏi: “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?”
- “Giêsu lên đường” trong câu này, là đi tới Giê-ru-salem (ss. Mc 10,32), để Ngài sẵn sàng chịu đau khổ, chịu bắt hại và chịu chết. Và trên đường đó, có một người chạy đến gặp Giêsu. Người này, theo Mt 19,22, là người thanh niên. Theo Adolf Pohl, trong xã hội Do-thái, đàn ông đến 40 tuổi vẫn có thể được gọi là thanh niên. Ngoài ra, so sánh với Lc 18,18-23, thì người hỏi Giêsu là một thủ lãnh. Người này có thể là trưởng hội đường, là quan tòa, hay một thành viên trong hội đường. Vì thế, không biết người anh em trong đoạn phúc âm của chúng ta có phải là một thanh niên hay không? Tuy nhiên, thuận theo Mát-thêu chúng ta cứ coi là một thanh niên.
- Anh ta chạy đến và quỳ xuống trước mặt Giêsu và hỏi. Thái độ quỳ xuống ở đây nhắc nhớ chúng ta đến hình ảnh của người phong hủi quỳ xuống xin Giêsu: “Có người bị phong hủi đến gặp Người, anh ta quỳ xuống van xin rằng: “Nếu Ngài muốn, Ngài có thể làm cho tôi được sạch.” (Mc 1,40) Thái độ này còn có ý nghĩa công nhận Giêsu là một vị Thầy. Vì thế, trong câu hỏi, anh ta đã nói rằng: “Thưa Thầy nhân lành”. Tính từ “nhân lành” hay “tốt lành” ở đây được thêm vào, có ý nghĩa chỉ về vị thầy được nhắc trong Mc 12, 14, mà các người Pha-ri-sêu nói về Giêsu: “Thầy là người chân thật. Thầy chẳng vị nể ai, vì Thầy không cứ bề ngoài mà đánh giá người ta, nhưng theo sự thật mà dạy đường lối của Thiên Chúa.” Và “tốt lành” ở đây chỉ vị Thầy khiêm nhường, như Gioan Tẩy Giả nhỏ đi, để Thiên Chúa lớn lên: “Người phải nổi bật lên, còn thầy phải lu mờ đi.” (Ga 3, 30). Vâng, quên chính bản thân mình, để tất cả chỉ vì vinh danh Thiên Chúa mà thôi.
- “Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp? Câu hỏi của chàng trai trẻ đặt ra cho vị Thầy tốt lành, trở nên một câu hỏi quan trọng cho mỗi con người trong từng thời đại. Một câu hỏi nói lên lòng khao khát của con người về kho tàng quý giá nhất, về hạnh phúc tuyệt vời và vĩnh cửu, hạnh phúc mà con người không thể tìm thấy trong cuộc sống trên trái đất này. Sự khao khát về sự sống vĩnh cửu, sự sống không bao giờ quen tới chữ “hết” và chữ “chết”. Nhưng để cho cuốn phim cuộc đời không “hết” và sự sống con người không “chết”, thì cần phải làm gì đây? Vấn nạn của chàng thanh niên thuở xa xưa cũng là vấn nạn của từng người trẻ thời nay. Trước vấn nạn này, chúng ta hãy lắng nghe Giêsu trả lời.
“18 Đức Giêsu đáp: “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.”
- Đúng theo kiểu của Giêsu, Ngài trả lời bằng cách đặt một câu hỏi cho người đã hỏi. (ss. Mc 10,3). “Sao anh nói tôi là nhân lành? Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.” Ở đây, chúng ta cũng có thể thắc mắc, tại sao Giêsu lại đặt ra câu hỏi đó. Và tiếp đến tại sao Giêsu lại từ chối tính từ “nhân lành hay tốt lành”?
Câu hỏi Giêsu đặt ra và sự từ chối của Ngài như là một cách thức và “phương tiện” Giêsu dùng để hướng về một điều quan trọng trong câu chuyện này. Điều quan trọng đó nằm trong câu trả lời: “Chỉ một mình Thiên Chúa tốt lành” (ss. Mc 12, 29). Câu trả lời này, theo R. Pesch, có ý nghĩa là, Giêsu qua câu hỏi của người thanh niên về điều cần làm, muốn hướng mọi người về giới răn chính yếu của Thiên Chúa tốt lành. Chỉ có giới răn này là quan trọng, là cần được thực thi. Đó chính là giới răn được nhắc trong Đnl 6,4-5: “ Nghe đây, hỡi Ít-ra-en! ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa chúng ta, là ĐỨC CHÚA duy nhất. Hãy yêu mến ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), hết lòng hết dạ, hết sức anh (em).” Điều răn chính yếu này hướng về điều răn khác cũng quan trọng không kém. Đó là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.” Và “chẳng có điều răn nào khác lớn hơn các điều răn đó.” (Mc 12, 31).
19 Hẳn anh biết các điều răn: Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.”
Tiếp đến Giêsu hướng anh chàng thanh niên về các giới răn mang tính cách xã hội, trong tương quan giữa ngưới với người: “Chớ giết người, chớ ngoại tình, chớ trộm cắp, chớ làm chứng gian, chớ làm hại ai, hãy thờ cha kính mẹ.” Đây là những giới răn quan trọng được nhắc tới trong Mười điều răn căn bản của Đức Chúa Trời dạy. Mười điều răn này tựu trung lại chính là giới răn: “Yêu người thân cận như chính mình.” Ai thực thi những điều răn này thì đang đi trên con đường công chính, và sự sống đời đời thuộc về người đó. Như vậy, anh chàng thanh niên của chúng ta có sống theo các giới răn đó không?
20 Anh ta nói: “Thưa Thầy, tất cả những điều đó, tôi đã tuân giữ từ thuở nhỏ.”
Thật tuyệt vời! Còn gì bằng nữa. Từ năm 13 tuổi anh thanh niên đã sống theo các giới răn. Vâng, như các trẻ em Do-thái khác, khi được 13 tuổi anh đã đón nhận trách nhiệm sống tương hợp với những điều Gia-vê truyền. Theo Billebeck, thì Do-thái giáo coi những người, dù ở trong một xã hội sô bồ và tội lỗi, vẫn sống theo lề luật mà Mô-sê truyền là những người công chính. Đó là 365 điều răn cần làm và 248 điều răn cần tránh trong các sách của Mô-sê.
Cuộc gặp gỡ giữa Giêsu và chàng thanh niên có thể chấm dứt ở đây, và anh ta có thể ra về trong hân hoan. Nhưng không, chính Đức Kitô không để cho anh đi dễ dàng như vậy. Ngài lên tiếng và thêm vào một điều quan trọng khác kế bên các giới răn trên. Điều đó người thanh niên cần có để có thể đạt được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
21 Đức Giêsu đưa mắt nhìn anh ta và đem lòng yêu mến. Người bảo anh ta: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.”
Trước câu trả lời của chàng thanh niên, Giêsu hướng nhìn anh và đem lòng yêu mến. Ở đây, theo R. Pesch, thì đó không phải là kiểu Giêsu biểu lộ cảm tình của mình với anh thanh niên, mà là một thái độ cao thượng của người Thầy có quyền dạy dỗ về giới răn và quyết định giới răn. Sau đó, Giêsu đã chỉ ra một điều thiếu thốn, kế bên những giới răn mà anh thanh niên đã hiểu và sống theo. Đó là: “hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Trong Mát-thêu 19, 29 thì: ““Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” Điều Giêsu đòi hỏi liên hệ đến chính sự sống và và vệnh mạng của anh thanh niên. Một sự đòi hỏi tận căn cho những con người muốn sống hoàn thiện.
Thực ra, nếu so sánh với kho tàng trên trời mà Giêsu hứa ban, thì của cải tài sản trên trái đất này có là gì đâu. Nói vậy, nhưng thực tế lại hoàn toàn khác. Có biết bao người đã coi của cải trần gian như ông chủ của mình, và bị lệ thuộc vào nó hoàn toàn. Hơn nữa, cái mình đang có trong tay bao giờ cũng quý, và cái mà mình được hứa ban cũng thật quý. Nhưng ai dám đánh đổi hay bỏ hết cái mình đang có trên tay, đề rồi nhận cái mà mình được hứa trong tương lai? Rồi còn cái “lòng tham vô đáy” của con người nữa chứ.
Dù vậy, vẫn có rất nhiều anh chị em trong lịch sử đã thấu hiểu cái giá trị cao quý của Nước Trời, nên chẳng màng tới của cải trần gian. Đó là Phan-xi-cô A-si-si, là Ê-li-sa-bét miền Thue-ring-gen, là I-nhã thành Lô-giô-la, và một vị thánh khác rất gần gũi với người Châu Á, Phan-xi-cô Xa-vi-ê. Tất cả đều là những con nhà quyền quý và giàu sang, nhưng đã rũ bỏ tất cả những vật hồng trần, để trở nên con người tự do thực sự. Đây chính là điều Giêsu muốn nói trong đoạn phúc âm này. Bỏ hết của cải để được tự do cho Nước Chúa, tự do cho Tin Mừng, tư do theo Đức Kitô, và cùng với Ngài sống hoàn toàn cho tình yêu thương. Chắc chắn phần thưởng của họ không gì khác hơn là kho tàng lớn nhất. Đó là Nước Trời. Về điều này, R. Pesch đã giúp cho chúng ta đọc những tâm tình của các thầy Ráp-bi Do-thái giáo. Dưới đây là một trích dẫn mang suy nghĩ “công trạng và phần thưởng”: “Người công chính rất thích chờ đợi giây phút cuối cùng, họ chẳng sợ gì khi lìa bỏ cuộc đời này. Vì ở nơi Thiên Chúa, họ có một kho tàng từ chính những công trình của mình. Kho tàng đang được giữ gìn cho họ trong phòng cất giữ đồ quý.” Tuy nhiên, kho tàng ở trên trời không phải là thước đo, bắt người có niềm tin phải sống sao cho có hiệu quả, phải sinh ra lợi ích này hoa trái kia. Suy nghĩ của Giêsu không theo suy nghĩ của các Ráp-bi, “công trạng và phần thưởng”. Kho tàng trên trời là một hướng đích, giúp cho người có niềm tin định hướng cho hành động của mình sao cho được tốt, có thái độ hợp tình hợp lý với anh chị em bên cạnh, từ chối những gì mang mùi vị của sự dữ, không làm cho người bên cạnh bị tổn thương. Kho tàng trên trời giúp biết ý thức sống công chính với người nghèo, sẵn sàng chia sẻ và nâng đỡ họ,... Tóm lại, có thể nhắc đến nguyên tắc vàng trong Mt 7,12: “Vậy tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta.”
Như vậy, ai nhận ra được giá trị cao quý của Nước Trời, và sống theo tinh thần đó, thì giống như những người được nhắc trong dụ ngôn kho báu và viên ngọc quý ở Mt 13, 44-46: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại, rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. “Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp.Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy.”
Và người đó đang bắt chước Đức Kitô, Đấng
“vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì
địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang
mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân
sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình,
vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết,
chết trên cây thập tự.” (Pl 2, 6-8).
- Cùng với Đức Kitô, người sống tinh thần từ bỏ tất cả của cải, và chỉ hướng về Nước Trời, đang sống chứng tá giữa lòng thế giới đầy phức tạp, với chủ nghĩa hưởng thụ, đề cao của cải vật chất, tiện nghi hiện đại, đến nỗi chẳng còn màng gì đến nhân phẩm con người, đến lòng bác ái cần có trong xã hội. Trong thế giới này thiếu vắng văn minh của tình thương. Theo Carlo Maria Martini, tinh thần nghèo khó của Kitô giáo cần trở nên dấu chỉ sống động cho sự đoàn kết và tương trợ giữa con người với nhau. Đàng khác, tinh thần sống nghèo khó của người Kitô hữu cần mang một “khuôn mặt” khác nữa. Sự nghèo khó của chúng ta cần phải tự tách biệt ra khỏi thế giới này, trở nên lời phê bình đối với thế giới xung quanh chúng ta. Sự nghèo khó của Kitô giáo cần phải đem lại thước đo giá trị khác về con người và vật chất. Nghĩa là, phẩm giá con người không thể được đo và đánh giá theo chuẩn mực của danh vọng địa vị, của tiền bạc vật chất. Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, con đường nghèo khó cũng chính là con đường giải phóng, con đường của niềm vui và mừng rỡ. Kinh nghiệm này nối kết chúng ta với Đức Giêsu Kitô. Con đường nghèo khó này giúp cho chúng ta thấu hiểu và cảm nhận được sức mạnh của Thánh Giá.
Ai đã cảm nhận được phần nào niềm vui này, ai đã tập sống chú ý và sống thật giản dị đơn sơ, sống khiêm nhường và ý thức thân phận yếu đuối tội lỗi của mình, thì người đó sẽ khám phá nhiều điều mới trong những trang của Tin Mừng. Không có sự cố gắng sống tinh thần nghèo khó này, các trang giấy Tin Mừng luôn là những trang giấy “câm lặng”.
Ai cất bước đi trên con đường nghèo khó của Đức Kitô, thì lời của Đức Kitô sẽ trở nên sống động đối với người đó. Lời của Đức Kitô sẽ bắt đầu ngân vang lên những khúc nhạc thật tuyệt vời, đem lại cho cuộc đời nhiều niềm vui, bình an và cuộc đời thật đáng sống, vì cuộc đời đẹp lắm thay.
- Ngoài ra, liên quan đến câu nói của Đức Kitô, Anselm Grun, một tu sĩ người Đức thuộc tu viện Biển Đức Muensterschwarzach, đã có những suy niệm khá lý thú. Trước hết cha đã trích dẫn lời của Evagrius (346-400), một vị ẩn sĩ khắc khổ, và một nhà văn người Hy-lạp: “Hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, hãy vác lấy thánh giá của anh trên vai anh, để anh có thể cầu nguyện sốt sắng, mà không bị chia trí gì cả.” Tiếp đến, cha Grun đã giải thích lời này như sau.
Evagrius đã thay đổi câu nói của Đức Kitô theo một ý nhất định. Trong phúc âmcủa Mát-thêu Chúa Giêsu nói với người thanh niên: “Nếu anh muốn nên hoàn thiện, thì hãy đi bán tài sản của anh và đem cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi.” (Mt 19,21) Evagrius đã đồng nhất sự theo chân Đức Kitô với việc cầu nguyện thật sốt sắng. Thật là táo bạo, khi thay đổi ý nghĩa lời của Giêsu. Và như vậy, việc theo chân Đức Kitô được hoàn thiện trong cầu nguyện, trong chiêm niệm.
Nhưng điều kiện cho việc cầu nguyện sốt sắng không chia trí là, chúng ta phải bán tất cả những gì mà chúng ta đang bám vào và lệ thuộc vào, và cho người nghèo. Chúng ta cần phải trở nên tự do hoàn toàn, tự do với tất cả những gì chúng ta đang sở hữu. Không chỉ là những vật chất bên ngoài, mà là tất cả những gì mà chúng ta đã đồng nhất hóa với chúng: như thói quen của chúng ta, suy nghĩ của chúng ta, công việc của chúng ta, lo toan của chúng ta, kết quả tốt đẹp và cả tiếng tốt của chúng ta. Sự tự do nội tâm là điều kiện cho việc cầu nguyện, mà trong đó chúng ta được trở nên một với Thiên Chúa.
Evagrius cũng nêu lên một điều kiện khác. Đó là chiêm niệm (contemplation). Chúng ta cần phải đón nhận thánh giá và vác trên vai mình. Thánh giá là sự hiệp nhất của tất cả mọi sự đối lập tương phản. Chúng ta cần phải đón nhận vào trong mình tất cả mọi tương phản, cả cái bóng của chúng ta, cái bóng làm cho hình ảnh lý tưởng của chúng ta bị lu mờ. Đón nhận Thánh Giá cũng còn có ý nghĩa là nói «Vâng» với tất cả những gì đi ngang qua chúng ta, nói «vâng» với đau khổ đến với chúng ta, nói « vâng » với thất bại, nói «vâng» với tương quan đổ vỡ, nói «vâng» với những «vết rách» trong cuốn sách lịch sử cuộc đời của chúng ta.
Chỉ khi chúng ta hòa giải với Thánh Giá đang ở trên cuộc sống của chúng ta, thì chúng ta mới có khả năng cầu nguyện sốt sắng và không chia trí. Chỉ có những người đón nhận tất cả một cách vô điều kiện, thì mới có thể cầu nguyện thực sự. Còn không, thì người đó sẽ bị quấy rầy thường xuyên, bởi những gì khó chịu ở bên trong mà người đó đang chống lại.
22 Nghe lời đó, anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải.
- Khi nghe lời của Đức Kitô, anh chàng thanh niên của chúng ta sầm nét mắt lại. Thái độ hăng say đầu tiên đã biến mất. Vâng, đụng tới tiền bạc là thế! Tiền bạc đã làm cho Anh không thể tìm thấy nơi Giêsu ách êm ái và gánh nhẹ nhàng được (ss. Mt 11,30). Vì vậy, anh ta bỏ đi, trở về lại với kho tàng của mình, để tiếp tục gánh cái gánh nặng nề đang đè trên vai mình. Không chỉ thế, bỏ đi nhưng bỏ đi một cách buồn rầu nữa chứ. Anh ta buồn rầu vì suy nghĩ của anh ta về “công trạng và phần thưởng” không được phê chuẩn hoàn toàn? Hay anh ta buồn rầu, vì phải lìa xa Giêsu, sau khi đã nhận được một chút “hơi thở” tốt lành, nhân ái của Giêsu? Nhưng anh ta còn thiếu cái gì để có thể từ bỏ được của cải vật chất? Chắc chắn rằng, anh ta chưa yêu Chúa hơn yêu của cải của mình. Của cải của anh ta nhiều quá, đến nỗi che mắt anh ta, làm cho anh ta không còn thấy Chúa nữa, không còn sáng suốt để nhận định giá trị đích thực của vật chất là gì. Vâng, thật tiếc vì anh ta chưa hiểu được điều: “Anh em hãy biết rằng không phải nhờ những của chóng hư nát như vàng hay bạc mà anh em đã được cứu thoát khỏi lối sống phù phiếm do cha ông anh em truyền lại.” (1 P 1,18) Hơn nữa, con người như một bình sành dễ vỡ. Một lúc nào đó, bỗng chợt anh ta bị một tai nạn gì hay mang cơn bệnh gì, thì thử hỏi rằng, của cải nhiều vô kể có đi theo với anh ta xuống hầm mộ không? Tất cả những của cải dù có lớn kếch sù đến mấy cũng không thể “mua được chiếc hỏa tiễn chở” anh ta lên Trời.
- Ngoài ra, anh ta còn thiếu thái độ bình tâm. Thái độ bình tâm coi Chúa và thánh ý Chúa là trên hết, đến nỗi: “chúng ta không ước muốn sức khỏe hơn bệnh tật, giàu sang hơn nghèo khổ, danh vọng hơn nhục nhã, sống lâu hơn chết yểu và tương tự thế đối với mọi sự khác, nhưng chỉ ước muốn và lựa chọn cái gì dẫn đưa chúng ta tới cứu cánh của mình hơn cả.” (Linh Thao số 23)
- Thái độ bình tâm này giúp chúng ta biết hướng con tim của mình về trời. Hướng con tim về trời nghĩa là chúng ta biết lo lắng những điều lớn hơn cả sự sống của mình, lớn hơn cả của cải, sự nghiệp, gia đình và bạn vè, lớn hơn cả những lời hứa hẹn và dự định tương lai. Theo Henri J. M. Nouwen, các điều đó là những điều thuộc về Thiên Chúa: Sự thật, tình yêu, niềm tin, ánh sáng và thánh ý của Chúa. Chừng nào chúng ta còn hướng con tim mình về những điều này, thì lý trí của chúng ta sẽ không còn nghĩ đến những “chuyện vớ vẩn”, những sự vật hấp dẫn chúng ta, đến nỗi chúng ta luôn muốn có, nhưng thực sự thì chúng ta chẳng cần đến chúng. Chừng nào chúng ta còn hướng về chân lý, ánh sáng và sự sống của Thiên Chúa là tình yêu, cũng như đi tìm thánh ý Ngài, thì chúng ta còn tham dự vào trong cộng đoàn của Thiên Chúa. Đấng luôn hiện diện ở đó ngay trong lúc này. Chính Ngài sẽ ban tặng cho chúng ta những gì chúng ta thực sự cần tới. Như thế, thì những lo lắng cuộc đời của chúng ta trở thành lời cầu nguyện, và những cảm giác bất lực của chúng ta sẽ được biến đổi và thánh hóa trong sức mạnh của Thần Khí Thiên Chúa.
- Thực thế, nếu chúng ta hướng lòng mình vào của cải, vào những lo toan làm sao được sung sướng tiện nghi hơn, nhiều tiền của hơn để hưởng thụ, thì chúng ta vẫn không thể làm cho cuộc sống của mình dài thêm một gang tấc nào cả. Vì thế, điều khôn ngoan cần có ở đây, là không chỉ mong sao cho được sống sung sướng trên nhung lụa, mà còn dám bỏ nhung lụa để chạy đến và nép vào lòng của Thiên Chúa; dám bỏ tất cả, để tự do hoàn toàn trên đường làm con trai con gái của Thiên Chúa, Đấng sẽ đem lại cho chúng ta sự sống đời đời làm gia nghiệp.
- Nói thế, nhưng không phải như vậy là chúng ta không còn “tham lam” của cải, và bám chặt vào chúng, và ngày ngày lo toan sao có thêm nhiều hơn nữa. Khuynh hướng này vẫn ở đó trong chúng ta. Như vậy, chúng ta sống trong tình trạng “què quặt”. Một đàng là vậy, đàng khác thì lại mong ước điều khác hẳn. Vâng, chúng ta không bao giờ thoát khỏi cái ước muốn của chúng ta, và thoát khỏi lòng tham muốn có thêm của cải, để trở nên con người tự do thực sự. Có lẽ hiểu được điều đó mà Tagore đã lên tiếng: “Ước muốn trong tôi nhiều vô kể và tiếng nói tôi than nghe não nuột, thảm thương.” (Lời dâng, 14)
Trong tình trạng “què quặt” này, Henri J. M. Nouwen đã khuyên chúng ta biết luôn trở về và biết ý thức hướng trọn tâm hồn mình về với Chúa, Đấng Tốt Lành vô cùng. Ở bên Ngài chứ không phải ở bên cạnh “đống của cải”, chúng ta có thể thảnh thơi và mỉm cười về chính cái ích kỷ của mình, lòng tham vô đáy của mình, và song song luôn mở đôi mắt mình và đôi tai mình cho sự bắt đầu mới, bắt đầu tập sống tinh thần từ bỏ, tinh thần làm con cái Thiên Chúa, những người con thực sự tự do trên đường theo Thầy, và sống tinh thần của Thầy. Và khi đi trên con đường của Đức Kitô, chúng ta không cần phải lo lắng quá đỗi cho chính mình. Vì “Ngày lại ngày người làm tôi xứng đáng với tặng vật lớn lao giản đơn người ban, mà chẳng cần để tôi xin hỏi – này bầu trời, ánh sáng, này xác thần, này trí tuệ, này cuộc đời – cứu tôi khỏi những hiểm nguy của vũng lầy ước muốn.” (Lời dâng, 14)
23 Đức Giêsu rảo mắt nhìn chung quanh, rồi nói với các môn đệ: “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao! “24 Nghe Người nói thế, các môn đệ sững sờ. Nhưng Người lại tiếp: “Các con ơi, vào được Nước Thiên Chúa thật khó biết bao!25 Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” 26 Các ông lại càng sửng sốt hơn nữa và nói với nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?”
- Khi anh chàng thanh niên bỏ đi, Giêsu liền rao mắt nhìn chung quanh và nói với các môn đệ. Cái nhìn chung quanh của Giêsu chính là cái nhìn giáo dục, cái nhìn dạy bảo những môn đệ gần gũi với Ngài nhất. Ngài dạy bảo điều gì? “Những người có của thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Chắc chắn rằng, việc vào Nước Trời là một quà tặng của Thiên Chúa ban, nhưng không vì thế mà có nghĩa là sẽ dễ dàng nhận được món quà này. Trở về lại với Mc 9, 43.45.47, chúng ta sẽ thấy Giêsu đã nói mạnh bạo như thế nào. Vâng, “thà chột mắt mà được vào Nước Thiên Chúa còn hơn là có đủ hai mắt mà bị ném vào hoả ngục.” (Mc 9,47)
Trước những lời của Giêsu, các môn đệ sững sờ. Vâng, không ngạc nhiên sờ sững sao được, khi hiểu được cửa vào Nước Thiên Chúa đâu phải là cánh cửa rộng thênh thang, mà chính là cánh cửa hẹp: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7,13-14)
Trở về với Mác-cô, chúng ta thấy cánh cửa hẹp của Nước Trời Giêsu đã so sánh với cánh cửa “lỗ kim”. Cánh cửa rất nhỏ tại bức tường vào thành Giê-ru-sa-lem. Thật là tương phản biết bao, khi con lạc đà đứng trước “lỗ kim” này.
Nghe tới hình ảnh so sánh rất tương phản của Giêsu, các môn đệ lại sững sỡ hơn nữa, và các ông đã hỏi nhau: “Thế thì ai có thể được cứu?” Câu hỏi này của các môn đệ được Giêsu trả lời như sau:
27 Đức Giêsu nhìn thẳng vào các ông và nói: “Đối với loài người thì không thể được, nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.”
Câu trả lời của Giêsu có hai vế. Vế đầu tiên là: ““Đối với loài người thì không thể được.” Vế này chỉ là phần phụ. Vế thứ hai chính là điều mà Giêsu muốn nói rõ: “nhưng đối với Thiên Chúa thì không phải thế, vì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể được.” Ở đây, chúng ta nhớ lại câu chuyện của bà Sa-ra, đã không tin vào lời của Chúa hứa cho bà sẽ sinh con dù tuổi đã cao. Sau đó, Chúa đã hiện ra với bà và ông Áp-ra-ham, và Ngài đã nói rằng: “Nào có điều gì kỳ diệu vượt sức ĐỨC CHÚA?” (St 18,14). Còn Gióp, dù bị rơi vào trong hoàn cảnh đau khổ, nhưng ông vẫn tin tưởng vào Chúa, Đấng sẽ cứu thoát. Ông đã cầu nguyện như sau: “Con biết rằng việc gì Ngài cũng làm được, không có gì Ngài đã định trước mà lại không thành tựu.” (G 42,2). Thực vậy, cuối cùng “ ĐỨC CHÚA đã khôi phục tài sản cho ông Gióp...ĐỨC CHÚA đã tăng gấp đôi những gì ông Gióp đã có trước kia.” (G 42, 10)
Chữ “nhưng” nổi tiếng mà Đức Giêsu nhắc đến ở đây thật có ý nghĩa sâu sa. Chữ “nhưng” đó Thiên Chúa đã nói với Sa-ra, khi bà thầm cười, như cười hình ảnh con lạc đà với lỗ kim. Chữ “nhưng” đó Gióp đã hiểu rõ ràng, nên đã không thầm cười, mà đầy tin tưởng cầu nguyện với Gia-vê Thiên Chúa, Đấng chắc chắn sẽ cứu độ ông. Và chữ “nhưng” này còn được làm nổi bật nơi Áp-ra-ham, chồng của bà Sa-ra: “ Mặc dầu không còn gì để trông cậy, ông vẫn trông cậy và vững tin, do đó ông đã trở thành tổ phụ nhiều dân tộc, như lời Thiên Chúa phán: Dòng dõi ngươi sẽ đông đảo như thế. Ông đã gần một trăm tuổi, nhưng ông vẫn vững tin không nao núng, khi nghĩ rằng thân xác ông cũng như dạ bà Xa-ra đều đã chết. Ông đã chẳng mất niềm tin, chẳng chút nghi ngờ lời Thiên Chúa hứa; trái lại, nhờ niềm tin, ông đã nên vững mạnh và tôn vinh Thiên Chúa, vì ông hoàn toàn xác tín rằng: điều gì Thiên Chúa đã hứa thì Người cũng có đủ quyền năng thực hiện. Bởi thế, ông được kể là người công chính.” (Rm 4, 18-22)
Trở về lại với cuộc đời thường ngày, nhiều lần tôi cũng đọc được chữ “nhưng” này trong một số cuộc đời. Vâng, có cuộc đời bị thế lực sữ dữ đe dọa và hãm hiếp, nhưng dù vậy người anh chị em đó vẫn luôn bám vào Chúa, vì tin rằng, sự dữ dù lớn đến thế nào, nhưng vẫn không lớn bằng tình yêu của Chúa. Còn cuộc đời khác, bị đồng tiền hãm hại, bóc lột, nhấn chìm xuống vực sâu, nhưng vẫn can đảm vươn lên, không nằm chết dưới bóng đêm trong hố sâu thăm thẳm kia, vì người anh chị em đó tin rằng, đồng tiền dù có giá, dù con người ai ai cũng cần đến, nhưng nó không là ông chủ của mình, mà Ông Chủ đích thực của đời người là Thiên Chúa, đấng mạnh mẽ hơn đồng tiền nhiều lắm. Vâng, dù một số người cứ tưởng rằng: “Có tiền mua tiên cũng được”, nhưng họ đã lầm to, dù trả giá cao đến mấy, họ vẫn không bao giờ mua Chúa được đâu. Còn cuộc đời khác thì đang quằn quại đau đớn, vì bị người thân yêu nhất của mình bỏ rơi, cái đau thê thảm nhất, nhưng dù sao thì người anh chị em đó trong cơn đau vẫn không đánh mất niềm hy vọng, không đánh mất niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, vào Thần Khí của Ngài, Đấng có thể thúc đẩy một tâm ác phải lên đường trở về với chính lộ, với chánh niệm, trở về lại với tình yêu nhân từ của Chúa, và từ đó trở về với mái ấm mà mình đã lỡ dại một lần bỏ rơi và đi hoang.
Thực, dù con người và thế giới này có bất lực hoàn toàn, “nhưng” đối với Thiên Chúa, thì mọi sự đều có thể được.
28 Ông Phê-rô lên tiếng thưa Người: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!”
Câu 28 này nối tiếp với câu chuyện anh chàng thanh niên hỏi Chúa, và ở đây Phêrô xuất hiện như là người đại diện cho các anh em. Ông lên tiếng hỏi Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy!” Một cách nào đó, Mác-cô đã đặt câu chuyện của Phêrô ở đây tương phản với câu chuyện của người thanh niên, đã không dám bỏ mọi sự theo Chúa. Song song với Mác-cô, câu hỏi của Phêrô trong phúc âm Mát-thêu rõ hơn một chút: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” Đây là câu hỏi mà các nhà chú giải thường giải thích theo cái nhìn “công trạng và phần thưởng”, tương hợp với suy nghĩ của các Ráp-bi. Theo Adolf Pohl, thì Giêsu đã đón nhận câu hỏi của Phêrô một cách bao dung. Ngài cũng đã trả lời Phêrô rõ ràng, nhưng câu trả lời này không theo suy nghĩ của các thầy Ráp-bi, cũng theo suy nghĩ mang tính cách luân lý, mà là một lời hứa:
29 Đức Giêsu đáp: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, 30 mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau.
- Trước hết, đọc kỹ hai câu này, chúng ta thấy Mác-cô trong câu 30, đề cập đến những gì các môn đệ nhận được ngay bây giờ, thì lại không nhắc đến cha, mà chỉ là mẹ và anh chị em. Theo Pesch, thì ở đây trong cái nhìn của Giêsu, chỉ có một cha trên trời mà thôi, và Ngài muốn hướng mọi người về Cha: “Anh em cũng đừng gọi ai dưới đất này là cha của anh em, vì anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời.” (Mt 23,9). Cha trên trời chình là “nguồn gốc mọi gia tộc trên trời dưới đất.” (Ep 3,15) Và trong câu 30, Giêsu nhắc đến sự ngược đãi, có nghĩa là Giêsu hướng về sự bắt bớ mà các môn đệ sẽ hứng chịu, khi thi hành sứ vụ truyền giáo trong thời giáo hội tiên khởi
- Ngoài ra, câu trả lời của Giêsu nhắc nhớ đến sự đòi hỏi của Ngài giành cho những ai muốn theo Ngài: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” (Mc 1, 16), và “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.” (Mc 8, 34b-35) Như vậy, động lực đầu tiên thúc đẩy các môn đệ từ bỏ là theo Giêsu, và động lực thứ hai là vì Tin Mừng, Tin Mừng mà Giêsu rao giảng: “Đức Giêsu đến miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa.” Người nói: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.” (Mc 1,14-15)
Những gì các môn đệ bỏ lại đàng sau đều là những con người gần gũi, và những nhu cầu rất cần thiết cho đời sống thường ngày. Đó là nhà cửa, là gia đình... Nhưng đâu phải vậy mà các ông phải sống vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Cuộc đời của các ông giờ đây là cuộc đời của Đức Kitô, một cuộc đời của người gieo giống đem hạt giống Tin Mừng rải khắp mọi nơi, một cuộc đời đến với những anh chị em nghèo khổ, là cuộc đời luôn cất lời để rao giảng về Thiên Chúa là tình yêu, là Đấng cứu độ tất cả mọi người. Chính trong sứ vụ cao quý này, mà các ông đã nhận lại được biết bao nhiêu. Vâng, lời nói của Giêsu: “ngay bây giờ” là lời nói rất đúng. Nếu ngồi chiêm ngắm cuộc đời của những người chân tu theo Chúa thực sự, và sống hoàn toàn cho Tin Mừng, chúng ta sẽ nhận ra ngay ở đời này họ đã nhận được biết bao nhiêu là nhà cửa, là ruộng đất. Rồi cả cha mẹ, lẫn anh chị em, con cái nữa. Mà tất cả lại là “gấp trăm” nữa chứ! Cái “gấp trăm” này tương hợp với con số tăng trưởng 30, 60 và 100 của dụ ngôn người gieo giống (ss. Mc 4, 1-20)
Những người từ bỏ hoàn toàn giờ đã được lại tất cả và còn nhiều hơn thế nữa. Đó là mẹ Tê-rê-sa, người mẹ có biết bao nhiêu con cái nghèo nàn. Là Frere Roger có biết bao người trẻ là môn đệ, và con mình. Và điều quý báu nhất là Mẹ Tê-rê-sa và Frère Roger trở nên những người anh chị em của Đức Kitô: “Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi.” (Mc 3,35).
Cả hai chẳng thiếu thốn nhà cửa và ruộng đất. Nhà cửa ở khắp mọi nơi trên thế giới, ruộng đất tại mọi ngõ nghách của trái đất này. Không chỉ thế, món quà lớn nhất mà Giêsu hứa ban đó là “sự sống vĩnh cửu ở đời sau.” Sự sống mà anh chàng thanh niên đã ao ước. Sự sống ở bên Thiên Chúa, trong tương quan gần gũi với Người, tương quan như cha với con vậy. Sự sống thông hiệp với tất cả các thiên thần, các thánh và các anh chị em, những người con yêu dấu của Chúa ở trên thiên quốc.
Một cách nào đó, Thiên Quốc đã được bắt đầu ngay từ bây giờ, nơi các môn đệ của Đức Kitô đang sống vì Chúa và vì Tin Mừng. Nơi đó, các ông đã trở nên những người anh em ở bên Đức Kitô.
31 Quả thật, nhiều kẻ đứng đầu sẽ phải xuống hàng chót, còn những kẻ đứng chót sẽ được lên hàng đầu.”
Câu này thường xuất hiện trong phúc âm nhất lãm. Lúc thì trong bối cảnh này, lúc thì trong bối cảnh khác, và có những chủ đích khác nhau. Như trong dụ ngôn thợ làm vườn nho trong Mt 20, 1-6 hay trong Lc 13,30, khi Đức Giêsu khi lên Giê-ru-salem, đã rao giảng trên đường, và Ngài đã nhắc đến điều này: “Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.”
Còn trong đoạn Tin Mừng của chúng ta, thì lời của Đức Kitô mang âm thanh thật an ủi. Trong sự sụp đổ của ngày cánh chung, tất cả kẻ chết sẽ chỗi dậy, người nghèo khó sẽ được tặng ban, kẻ đói khát sẽ được no thỏa, người buồn sầu sẽ được ủi an, ké bé nhỏ sẽ trở thành “người lớn”, người đau yếu sẽ mạnh khỏe, kẻ bị tù đày sẽ được giải thoát, và người rốt hết sẽ nên trước hết.
Ngoài ra, với câu 31 này, Mác-cô muốn nêu bật chủ đề mà ông muốn nói trong đoạn 10, 17-31. Đó là chủ đề trở về và theo chân Chúa. Vâng, những ai nhờ giàu có, địa vị, và quyền lực mà trở nên những người trước hết, thì họ sẽ trở nên người cuối hết trong ngày cánh chung, vì họ đã không từ bỏ được của cải, địa vị và quyền lực. Còn những ai trong cuộc sống này chẳng có gì cả, và cũng không là ai nổi tiếng và danh giá cả, mà chỉ là người môn đệ đơn sơ của Đức Kitô, những người ngồi ở chỗ cuối cùng trong “căn phòng thế giới” này, thì họ sẽ trở thành những người trước hết trong “căn phòng Thiên Quốc”, với sự sống vĩnh cữu.
Tham khảo
- Rudolf Pesch, Das Markusevangelium, Herder Verlarg, Freiburg 2000. Sonderausgabe, Band II/2, S.135-147
- Adolf Pohl, Das Evangelium des Markus, R. Brockhaus Verlag Wuppertal 2005, Wuppertaler Studienbibel NT 1, S. 376-386
- Hermann L. Strack und Paul Billerbeck, Kommentar zum NT aus Talmud und Midrasch, C.H.Beck Munchen, 8. Aufl., Band III, S. 161.
- Carlo Maria Martini, Mein spirituelles Worterbuch, Pattloch Verlag, Ausburg 1998, Begriff: “Armut”
- Henri J. M. Nouwen, Dem vertrauen, der mich halt. Das Gebet ins Leben nehmen. Herder Verlag, Freiburg Basel Wien 2003
- Anselm Grun, Der Weg durch die Wuste. Vier-Turme-Verlag, Munsterschwarzach 2001.
- Gitanjali RABINDRANATH TAGORE, LỜI DÂNG, Đình Khoan chuyển ngữ, nguồn
- Hình về cửa “lỗ kim” từ: http://www.godsplan-today.com/0_Images/ISNeedlesEye.jpg
53.Đức Giêsu giáo huấn về của cải--Lm. FX. Vũ Phan Long
1.- Ngữ cảnh
Trong chuỗi các sự cố xảy ra liên can đến dân chúng và giáo huấn ban cho các môn đệ, phân đoạn này phù hợp với Mc 10,1-12. Cũng như trong trường hợp ấy, ở đây, phần giáo huấn cho các môn đệ đã được thêm vào sau, bởi vì ta thấy truyện người giàu có (cc. 17-22) tự nó đã kết thúc và được khoanh vùng rõ ràng.
2.- Bố cục
Bản văn này có thể chia thành ba phần:
1) Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (10,17-22);
2) Gíáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (10,23-27);
3) Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (10,28-30).
3.- Vài điểm chú giải
- Đức Giêsu vừa lên đường (17): Ekporeuomenon autou eis hodon, ở dạng “thuộc-cách tuyệt đối” (absolute genitive), một lối hành văn rất quen thuộc của Mc.
- có một người chạy đến: Chỉ khi đến cuối câu truyện, ta mới biết anh này là một người giàu (10,22). Không có một ghi chú nào về tuổi của anh (x. Mt 19,20).
- quỳ xuống: Cử chỉ này cho thấy người này hết sức kính trọng Đức Giêsu (x. 1,40).
- Thưa Thầy nhân lành: Lời xưng hô kiểu này rất hiếm trong Do Thái giáo thời Đức Giêsu, cho dù từ “nhân lành” thường được áp dụng cho Thiên Chúa ở trong Cựu Ước (x. Tv 117/118,1; 1 Sb 16,34; 2 Sb 5,13). Nói chung, người Do Thái cho rằng chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng được coi là “nhân lành”, còn không ai khác là “tốt” cả (x. Rm 7,18). Tuy vậy, khẳng định này cũng không tuyệt đối, bởi vì thọ tạo cũng được mô tả là “tốt” (St 1,31). Phaolô cũng nói như thế về Lề Luật trong Rm 7,12.16. Đức Giêsu cũng có nói đến người “tốt” và kẻ “xấu”.
- tôi phải làm gì: Người này lấy mình làm điểm chuẩn: “tôi cần làm gì để thủ đắc sự sống đời đời”.
- sự sống đời đời (x. 10,30): Đây là công thức của Đn 12,2 (LXX), có thể hiểu là sự sống sau khi sống lại, không nhất thiết hàm ý “bất tử”. Có thể coi như đồng nghĩa với “Nước Thiên Chúa” (x. 9,43-47).
- Không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa (18): Không thể giải thích là có một vực thẳm giữa Đức Giêsu và Thiên Chúa, vì như thế thì quá mâu thuẫn với truyền thống Tin Mừng. Có thể coi đây là một phản ứng của Đức Giêsu nhằm trắc nghiệm người ấy hoặc một phương thức sư phạm nhằm gián tiếp giới thiệu về mình như là Con Người.
- anh biết các điều răn (19): Loạt các điều răn trong bài phần lớn được rút từ phần hai của Thập Điều (Xh 20,12-17; Đnl 5,16-21), là phần nói về những quan hệ giữa người với người.
- đem lòng yêu mến (21; thì quá khứ aorist của agapaô): Hẳn là Đức Giêsu thấy anh này đơn sơ chân thành nỗ lực tìm cách quan hệ với Thiên Chúa nên đã tận tình giữ các điều răn; Người “đem lòng yêu mến” anh. Tình thương này đi đến chỗ gọi anh làm môn đệ.
- Anh chỉ thiếu có một điều: Dù anh đã cam đoan là giữ tất cả các điều răn từ thuở bé, Đức Giêsu bảo rằng anh vẫn “còn thiếu” (hystereô).
- hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo: Câu này nên hiểu như một thách đố Đức Giêsu đề ra cho anh này hơn là một nguyên tắc chung của đời sống Kitô hữu hoặc thậm chí, nền tảng của một bậc sống đạo cao hơn. Người ấy không được hiểu rằng mình chỉ cần làm một điều tốt hơn, là được thừa hưởng sự sống đời đời! Đức Giêsu yêu cầu anh bỏ hết mọi điểm tựa an toàn để tín nhiệm vào bản thân và sứ vụ của Người: “Rồi hãy đến theo tôi”.
- anh ta có quá nhiều của cải (22): Anh đã hỏi, nhưng câu trả lời của Đức Giêsu thật quá khó đối với anh.
- các môn đệ sững sờ (24): Các ông sững sờ kinh ngạc bởi vì Đức Giêsu vừa nhận định rất tiêu cực về của cải, trong khi các ông trung thành với truyền thống Do Thái giáo, coi của cải là một dấu chỉ về phúc lành của Thiên Chúa, với điều kiện là bố thí cho người nghèo. Thật ra, cái khó không nằm ở chính của cải, nhưng những cám dỗ chúng gây ra.
- con lạc đà …. lỗ kim (25): Mặc dù trong quá khứ, các nhà giảng thuyết và chú giải đã tìm ra một cái cửa nhỏ bên cạnh một cái cổng lớn ở tường thành Giêrusalem, mà một con lạc đà không thể đi qua, và mặc dù có một vài thủ bản nhỏ đọc là kamilos (sợi dây thừng) thay vì kamêlos (con lạc đà), chúng ta phải kết luận rằng đây là một ví dụ về lối nói ngoa, thậm xưng (x. Mt 23,24; Lc 6,41-42).
- đối với Thiên Chúa, mọi sự đều có thể được (27): Trước khi nói câu này, Đức Giêsu “nhìn thẳng vào các ông”, một công thức riêng của Mc để nêu bật tầm quan trọng của câu nói sau. Đức Giêsu nhấn mạnh tới quyền năng của Thiên Chúa và sự ký thác cậy dựa vào Thiên Chúa để được cứu độ.
- chúng con đã lìa bỏ mọi sự mà theo Thầy (28): “Lìa bỏ” (aphêkamen) ở thì quá khứ aorist, diễn tả một hành vi đã hoàn tất, còn “theo” (ekolouthêkamen) ở thì vị hoàn, để diễn tả một hành vi còn đang thực hiện.
- vì Tin Mừng (29): Chi tiết của riêng Mc, nhằm đồng hoá Đức Giêsu với Tin Mừng.
- sự ngược đãi (“bách hại”, 30): Đây cũng là một xác định riêng của Mc, để nói rằng bước theo Đức Kitô, là phải chấp nhận bị bách hại như Thầy mình đã từng bị bách hại.
- mà bây giờ, ngay ở đời này… và sự sống đời đời ở đời sau (30): Đức Giêsu hứa ban phần thưởng không chỉ vào đời sau nhưng ngay vào lúc này, khi các môn đệ được hưởng một tình bằng hữu phong phú về mặt xã hội và về mặt tôn giáo.
4.- Ý nghĩa của bản văn
* Cuộc gặp gỡ của Đức Giêsu với người giàu có (17-22)
Điều gì thật sự có giá trị? Điều gì thạt sự có ý nghĩa? Cuộc sống hiện tại kết thúc với cái chết. Người giàu đến găp Đức Giêsu xác tín rằng có một sự sống đời đời. Anh có nhiều của cải, anh biết cách lo liệu cho cuộc sống trần thế, nhưng cảm thấy có trách nhiệm đối với cuộc sống tương lai. Anh muốn sống cuộc sống trần gian thế nào để không mất chỗ trong cuộc sống vĩnh cửu. Anh rất tin tưởng đến gặp Đức Giêsu, và chờ đợi nhận được những lời khuyên tốt. Đức Giêsu chỉ cho anh các điều răn: ai muốn tôn trọng ý muốn của Thiên Chúa, thì đang ở trên đường dẫn tới sự sống đời đời. Người đến gặp Đức Giêsu đây đang đi đúng đường: anh đã giữ các điều răn từ thuở nhỏ. Lạ lùng là Đức Giêsu không cổ võ cách sống của anh mà bảo anh về, Người lại bảo anh tự giải thoát khỏi mọi của cải và đến đi theo Người. Người chỉ cho anh thấy một nôi dung và một lối sống hoàn toàn mới: anh phải đi theo Người mãi mãi, lắng nghe lời Người nói, nhìn xem các công việc Người làm, có đầy Thần Khí của Người, ở lại mãi mãi với Người, chia sẻ lối sống của Người. Sự hiệp thông liên tục với Người đưa anh đến chỗ hiểu thế giới và đời sống của Đức Giêsu và chuẩn bị cho anh đi vào trong cuộc sống đời đời, nghĩa là cuộc sống trong Nước Thiên Chúa, trong sự hiệp thông với Thiên Chúa.
Ở đây Đức Giêsu khẳng định rằng con đường mà Người đang theo được hướng dẫn bởi thánh ý Thiên Chúa cũng một cách trực tiếp và đảm bảo như các điều răn. Và Người cũng khẳng định rằng chính Người có khả năng dẫn đưa tuyệt đối chắc chắn đến sự sống đời đời. Và Đức Giêsu mời gọi anh làm cử chỉ như các môn đệ đầu tiên (x. 1,16-20; 10,28-30). Nhưng người giàu đã không hiểu lời mời gọi của Đức Giêsu là Tin Mừng; anh muốn vừa bám vào của cải vừa đi theo Đức Giêsu. Sự kiện phải chọn lựa làm cho anh buồn rầu.
* Giáo huấn các môn đệ về sự khó khăn của việc từ bỏ (23-27)
Đức Giêsu không nói ỡm ờ về sự khó khăn trong việc từ bỏ của cải. Thái độ sửng sốt của các môn đệ là dịp để Người nhắc lại giáo huấn: đến được Nước Thiên Chúa là chuyện khó khăn. Sự kiện các môn đệ được gọi là “con” (chỉ có ở đây trong TM Mc) cho hiểu rằng lời khẳng định được nhắm trực tiếp cho họ. Nhưng Đức Giêsu cất đi cho họ nỗi lo âu về tương lai khi qui hướng họ về Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, có những câu với nọi dung như thế: G 42,2; x. St 18,14; Dcr 18,6.
* Giáo huấn về phần thưởng dành cho người môn đệ (28-30)
Trong câu trả lời cho Phêrô, Đức Giêsu cho thấy là người ta có thể đạt được sự sống này nếu liên kết với bản thân Người. Người nào siêu thoát với những liên hệ với của cải và với gia đình mình, mà gắn bó với Đức Giêsu, thì sẽ thấy mở ra trước mắt một chân trời các quan hệ bao la hơn. Một người đi vào trong gia đình những người đã liên kết với Đức Giêsu, thì gặp lại những của cải và các người thân thuộc của mình, nhờ đó đạt được một cuộc sống mới mẻ và phong phú hơn; đồng thời người ấy lại đang ở trên con đường chắc chắn đưa tới sự sống đời đời. Câu trả lời của Đức Giêsu hàm chứa Tin Mừng. Người cho thấy rằng nhờ trung gian là bản thân Người, người ta có thể đạt được sự sống hoàn toàn mới mẻ, một sự sống có giá trị không thể triệt tiêu.
+ Kết luận
Khuôn khổ trong đó bản văn hôm nay được đặt vào khiến chúng ta phải lưu ý: đây là những điều xảy ra trong cuộc hành trình Đức Giêsu tiến về Giêrusalem để ở đó, Người cảm nhận sự từ bỏ đau đớn nhất, tức là cái chết. Giữa lần loan báo Thương Khó lần hai (9,30-31) và lần ba (10,32-34), chủ đề “Con đường” thúc bách chúng ta xem xét những điều kiện để theo Đức Giêsu và để được vào Nước Thiên Chúa: đó là sẵn sàng mở lòng ra đón tiếp, đồng thời sẵn lòng siêu thoát mọi sự để đi theo Chúa.
5.- Gợi ý suy niệm
1. Tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa có thể đưa đến những thiệt thòi trong cuộc sống hiện tại, nhưng nối kết chúng ta với ý muốn của Thiên Chúa, tức là với chính Thiên Chúa. Như thế, nền móng của sự sống vĩnh cửu đã được củng cố. Quả thật, chỉ từ sự kết hợp với Thiên Chúa, là Đấng Sống vĩnh cửu và tuyệt đối, mới trào vọt ra sự sống đời đời.
2. Mọi người được yêu cầu đặt việc bước theo Đức Giêsu, vì Người và vì Tin Mừng, trước tất cả mọi sự, thậm chí trước chính bản thân mình và sự trọng kính của người đương thời (x. 8,34-38). Tính mới mẻ triệt để của lời Đức Giêsu kêu gọi đi theo Người không hệ tại lời mời từ bỏ, nhưng hệ tại khả năng kết dệt một liên hệ mới, có được một nội dung mới cho cuộc sống.
3. Lời kêu gọi của Đức Giêsu là Tin Mừng và thật ra là một đặc quyền cao cả: bởi vì, chẳng hạn, đặc quyền này đã không được ban cho người ở Ghêrasa sau khi đã được giải thoát khỏi ma quỷ (5,18t). Đức Giêsu mời gọi chúng ta tách mình khỏi của cải không phải để rồi chỉ còn hai bàn tay trắng, nhưng để chúng ta trở nên tự do và có khả năng liên kết với Người.
4. Ta chỉ có thể đạt tới sự sống đời đời nhờ đức tin, nhờ liên kết vô điều kiện và đầy tin tưởng vào Người. Nhờ hiệp thông với Đức Giêsu và với gia đình Người, ta nhận được sự sống đời đời như một ân huệ. Dây liên kết với Đức Giêsu không bị hủy diệt bởi cái chết.
54.Sự chọn lựa khôn ngoan--Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
Một đám cưới sang trọng tiêu tốn hết ba triệu rưỡi đô la để chỉ tồn tại không quá 15 năm là đám cưới của công nương Diana và hoàng tử Charles. Một chiếc nhẫn trị giá đến 205 ngàn đô la để chỉ ngự trị trên bàn tay quí phái của Diana không quá năm tiếng đồng hồ là chiếc nhẫn mà nhà triệu phú Dodi Fayer đã tặng cho công nương trong đêm định mệnh. Tai nạn bất ngờ sảy ra. Diana đi về thế giới bên kia. Không mang theo được đồng đô la nào. Chiếc nhẫn kim cương đắt giá cũng được tháo ra trao lại cho gia đình Spencer.
Nằm trong quan tài, Diana với đôi tay không nhẫn cưới và cũng chẳng có nhẫn kim cương. Điều kỳ lạ là trên đôi tay ấy người ta có thấy một cỗ tràng hạt do Mẹ Têrêsa trao tặng trong một lần tiếp xúc. Phải chăng:
Kiếp ngắn dài, một mộ bia
Xoay vần cát bụi ngày lìa dương gian
Dừng chân đếm túi hành trang
Những gì còn lại, chuỗi vàng lời kinh?
(Lm. Trần Cao Tường)
Phải chăng những người có trách nhiệm sau cùng trên thi hài của công nương đã muốn nói với mọi người: tiền bạc, kim cương, danh dự, vật chất, sang giàu, thế gian… không phải là hành trang cho một cuộc sống hạnh phúc đời đời, nhưng là những mầm sống yêu thương và những giá trị thiêng liêng mà Mẹ Têrêsa, qua bộ tràng hạt, đã trao lại cho Diana và thế giới như một lời nhắn nhủ?
Hạnh phúc sung mãn và trường tồn không thể tìm thấy trong sự sang giàu của thế gian. Thánh kinh đã khẳng định điều đó. Cả ba Phúc âm Nhất lãm đều ghi nhận: một ngày kia khi Chúa Giêsu đang trên đường đi về Giêrusalem để bước vào cuộc khổ nạn hầu mang lại ơn cứu độ và hạnh phúc cho muôn người, thì một chàng thanh niên giàu có “chạy” đến. Anh ta quì xuống trước mặt Đức Giêsu và thưa: “Lạy thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sống đời đời làm cơ nghiệp.” Chắc hẳn câu hỏi của anh thanh niên đã làm bối rối và sửng sốt cho không ít người: cứ tưởng “có tiền mua tiên cũng được,” đàng này trong con người còn có một thứ mắc hơn tiên đến nỗi có tiền chưa chắc đã mua được. Đấy chính là một khát vọng vô biên.
Vì là khát vọng vô biên nên chắc chắn không một thực tại hữu biên nào trên thế gian này có thể lấp đầy. Dù đó là xác thịt, kiến thức, giàu sang hay bất cứ thứ gì… ngoại trừ Thiên Chúa. Chỉ có Thiên Chúa, Đấng Vô Biên, mới có thể thoả mãn cái khát vọng vô biên nơi lòng con người. Chính Thánh Augustinô, sau khi trải qua biết bao kinh nghiệm tìm kiếm đối tượng cho khát vọng vô biên nơi lòng mình, đã thốt lên:
Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi
Hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.
Trước những trăn trở không câu trả lời, người thanh niên giàu có thấy được Đức Giêsu như một cứu cánh. Anh đã “chạy” đến với Ngài. Chạy là thái độ của khao khát, nôn nóng kiếm tìm chân lý, trái nghịch với thái độ thẫn thờ, bàng quang, chẳng thiết tha.
Trước tâm tình và ước nguyện của chàng thanh niên, Đức Giêsu đã làm một cuộc phỏng vấn liên quan đến các giới răn: ngươi không được giết người, không được ngoại tình, không được trộm cắp, không làm chứng gian, không…. Và người đó đáp lại: “Thưa Thầy, những điều đó tôi đã giữ từ thuở còn thơ.” Nghe thế Đức Giêsu bảo anh ta: “Ngươi còn thiếu một điều. Có gì thì hãy đem bán mà cho kẻ nghèo. Đoạn hãy đến theo Ta” (Mc 10:21).
Thật kỳ lạ! Sống không giết người, không trộm cắp, không ngoại tình, không bất công, không gian dối, ấy thế mà Chúa Giêsu còn bảo là chưa đủ. Chàng thanh niên giữ các giới răn khá là trọn vẹn mà còn bị cho là thiếu. Không biết đời tôi từng phạm điều này, lỗi nghịch điều kia, chắc là còn thiếu nhiều lắm!
Thế nên không thể cho rằng tôi sống đàng hoàng, không phạm 10 điều răn Đức Chúa Trời, chẳng để sót sáu điều răn Hội Thánh, tôi không làm hại ai, không gây tổn thương cho người nào là bảo đảm vào thiên đàng 100% rồi đâu. Nếu chỉ không điều này, không điều kia mà đủ tiêu chuẩn để sống hạnh phúc đời đời thì cần gì theo Chúa. Theo vô vi cũng được vậy. Song người ta cần phải có. Đó là có yêu thương, có quảng đại, có trao ban, có thứ tha, có cho đi chính mình như Đức Giêsu.
“Hãy đến mà theo Ta” cũng có nghĩa là bước theo Ngài trên nẻo đường dâng hiến đời mình cho sự sống tha nhân. Và chỉ khi trao ban dâng hiến như thế con người mới tìm thấy ý nghĩa và hạnh phúc thật sự cho cuộc đời.
Nong nả đi tìm câu trả lời cho đâu là ý nghĩa của cuộc sống, ấy thế mà khi nhận được lời giải đáp, chàng thanh niên lại sa sầm nét mặt, bỏ đi buồn rầu. Thánh kinh cho biết “vì anh ta có nhiều của” (Mc 10:22).
Bước theo Đức Giêsu đòi hỏi một thái độ vươn mình trên những gì là của cải vật chất. Bởi vì “không ai có thể làm tôi hai chủ: hoặc nó sẽ ghét người này mà mến người kia, hoặc tha thiết với chủ này mà khinh màng chủ nọ. Các ngươi không thể làm tôi Thiên Chúa và Tiền của được.” Ấy thế mà, nếu thành tâm xét lại, thì hình như trong đời tôi vẫn còn đó những khoảnh khắc vừa mang danh Kitô hữu lại vừa xem tiền bạc như lẽ sống. Phải chăng vừa theo Chúa, tôi vừa tự biến mình làm “con vật kinh tế,” thậm chí có khi còn giành giật, lừa gạt, chà đạp, sát phạt kẻ khác… vì đồng tiền.
Bao lâu chỉ biết thu về mà không hề trao ban, người ta sẽ cứ mãi “sầm mặt xuống, buồn rầu.” Khi nào biết san sẻ cho kẻ nghèo khó, người ta sẽ lớn lên trong tình yêu và tiếng cười. Đã có một thời nhà tỉ phú George Soros than thở: “Tôi không biết mình đang giàu hay đang nghèo; đang làm chủ số phận hay nô lệ cho thành công. Bởi vì để thành công tôi phải làm việc như một con chó. Để giàu có tôi phải chịu cảnh bất an liên tục.” Nhưng rồi sau những công việc từ thiện bác ái, George đã tươi cười chia sẻ: “Chỉ từ khi biết yêu thương, đời tôi mới bắt đầu nếm được mùi hạnh phúc và sung túc thật sự.”
Cha Albert Marie thuộc dòng khổ tu Soligay ở Bỉ cũng có một kinh nghiệm tương tự. Trước khi vào dòng, ngài từng là một chính khách triệu phú với danh xưng Van Cruyssen. Trong đại chiến thế giới, ngài là một sĩ quan mang cấp bậc đại úy, với sáu huy chương và đệ nhất Bắc đẩu Bội tinh chói ngời trên ngực áo. Nhưng giờ đây những huy chương và bội tinh ấy lại được đặt trước bàn thờ kính Trái Tim Chúa Giêsu trong tu viện.
Trong dịp ngài tuyên khấn, có rất nhiều vị dân biểu, chủ tịch và phó chủ tịch thượng viện, cũng như chủ tịch hiệp hội giới trẻ Công giáo Bỉ quốc đến tham dự. Sau lễ nghi, vị tân khấn đã chia sẽ tâm tình với những người hiện diện: “Cha Albert Marie sung sướng và hạnh phúc hơn nhà triệu phú Van Cruyssen nhiều.”
Yêu thương và san sẻ cuộc đời cho kẻ khó nghèo chính là điều kiện tất yếu mà những ai muốn trở thành môn đệ chân chính của Đức Kitô đều phải thực thi. Yêu thương san sẻ không hệ tại nơi tiền bạc của cải, song là ở tất cả những gì mình có. Đức Giêsu đã bảo: “Hãy đi bán tất cả những gì ngươi có mà cho kẻ nghèo.” Người nghèo là người túng thiếu-không chỉ thiếu về của cải, nhưng còn có thể thiếu về giáo lý, kiến thức, sức lực, cảm thông, tha thứ, tiếng ca, nụ cười….
Vậy nếu trong gia đình, nơi giáo xứ, cộng đoàn, hay tại sở làm của tôi vẫn còn những người thiếu thốn như thế, liệu tôi có can đảm đáp trả lời mời gọi của Đức Kitô-“Hãy cho, và ngươi sẽ có một kho tàng trên trời”-hay tôi sẽ cúi mặt, bỏ đi, buồn rầu.
Chọn lựa bước theo Đức Kitô là một chọn lựa quyết liệt và rướm máu. Nhưng đó lại chính là một lựa chọn khôn ngoan và đáng giá vô cùng.
55.Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm. Bênađô Nguyễn Tiến Huân
Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó
Chúng ta chú ý đoạn đầu bài Phúc Âm hôm nay là "cái ông giàu có" tới hỏi Chúa Giêsu xem phải làm gì để được sống đời đời này, đã thực hiện cặn kẽ từ nhỏ tất cả những việc tiêu cực phải giữ như: không giết người, không ngoại tình, không trộm cắp, không chứng gian, không quịt người khác... Nhưng về phương diện tích cực chỉ có một điều duy nhất phải làm là "bán hết của cải giúp người nghèo khó rồi tới theo Chúa" (Mc 10,21) thì người ấy đã và vẫn không muốn làm. Do đó Chúa Giêsu mới tiếc cho ông ta: "Người giàu có khó vào nước thiên đàng biết bao" (Mc 10,23). Sau đó Ngài còn nói mạnh thêm: "Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu có vào nước thiên đàng" (Mc 10,25).
Vậy kể như là người giàu có thì không thể vào nước thiên đàng được. Điều đó đúng. Nhưng phải hiểu thế nào là giàu có? Giàu có là những người có nhiều của cải tài sản vật chất, đó là dĩ nhiên. Nhưng điều quan trọng Chúa Giêsu có ý nhấn mạnh là lòng ham ước của cải. Nói khác là sự ham hố say mê vật chất mà quên phụng sự Chúa, là sự nô lệ của cải, coi của cải vật chất là cùng đích là chúa tể. Chính tinh thần nô lệ và coi của cải vật chất là chúa tể này làm ta không còn tìm Chúa, không còn tìm hạnh phúc thiên đàng thì làm sao ta có thể được Chúa, được hạnh phúc thiên đàng. Không thể vào nước thiên đàng được, như vậy là tất nhiên, bởi không tìm không muốn chứ không phải tại Chúa không muốn cho họ vào.
Vì thế không phải chỉ những ai giàu có mà cả những kẻ nghèo xác xơ nhưng để tinh thần ham mê của cải vật chất làm quên Chúa, quên hạnh phúc thiên đàng thì cũng vẫn không thể vào nước thiên đàng được. Trái lại những ai tuy giàu có vật chất nhưng không để lòng ham hố của cải cản trở việc tìm Chúa, tìm hạnh phúc thiên đàng mà chỉ dùng của cải như phương tiện để làm những việc đó thì vẫn vào thiên đàng được. Đó chính là cái chìa khóa để người giàu vào thiên đàng. Đó chính là bí quyết làm cho người giàu có thành nghèo khó trước mặt Chúa. Đó cũng chính là điều mà Chúa Giêsu nói: "Điều loài người không làm được thì Thiên Chúa làm được" (c. 27): Sự giàu có mà trong đó con người làm chủ thì không thể, nhưng để Thiên Chúa làm chủ thì lại có thể được. Vì thế Chúa mới nói "Phúc cho những ai có tinh thần nghèo khó vì nước Trời là của họ" (Mt 5,3).
Ở đây chúng ta cũng lại cần lưu ý: Việc từ bỏ của cải, nếu cần, luôn là một chứng minh của tinh thần nghèo khó bên trong. Đó cũng là cái trắc nghiệm mà Chúa Giêsu đã thử đối với cái ông giàu có trên kia: ông ta không muốn bỏ của cải gia tài mình, vậy ông không có tinh thần nghèo khó thực. Của cải giàu sang vật chất tự nó không xấu, không đáng trách. Cái xấu, cái đáng trách chính là tính ham mê, đến nô lệ của cải mà quên Chúa.
Lạy Chúa, con quyết dùng của cải vật chất mà, "mua lấy nước thiên đàng" (Lc 16,9) vì "Được lợi lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì ích gì!" (Mt 16,26)
56.Phần thưởng--Lm. Vũ Đình Tường
Ngày nay làm bất cứ công việc gì cũng có thưởng, kể cả đi mua hàng hóa ngoài chợ cũng có thưởng. Phần thưởng núp bóng dưới nhiều hình thức khác nhau. Ở trường đơn giản đóng dấu vào tay học sinh, ở nhà thưởng cái kẹo, cuối năm tên trên bảng danh dự. Ngoài xã hội thưởng cho vé bớt giá xăng dầu, mua đủ số lần được bớt dăm ba phần trăm. Phần thưởng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống. Người ta làm vì thưởng, vui nhờ được thưởng. Phần thưởng khuyến khích làm việc tích cực hơn với mục đích rõ ràng. Chúng ảnh hưởng đến tâm lí con người và thúc đẩy con người làm công việc đó. Thành công thì vui, thất bại thì buồn như thế phần hưởng ảnh hưởng đến tình cảm vui buồn của cuộc sống hàng ngày. Người giầu có trong bài Phúc Âm hôm nay cũng mong được thưởng. Anh giầu có trọng luật lệ nên anh giữ trọn lề luật và hãnh diện về việc không phạm luật của mình.
Giầu có trần thế anh cảm thấy không yên tâm, vẫn thấy thiếu sao đó nên anh đến gặp Đức Kitô hỏi Ngài làm cách nào để anh được cảm thấy ấm lòng, bình yên trong tâm hồn. Đức Kitô vạch cho anh con đường bảo đảm phần thưởng trường sinh. Nghe xong anh không vui, buồn rầu bỏ đi. Đối với anh cái giá cho phần thưởng trường sinh quá lớn, lớn hơn cả gia tài. Chúng ta không biết rõ gia tài của anh giá trị ra sao, Phúc âm cho biết anh rất giầu và không muốn mất cái giầu có đó nên anh buồn rầu bỏ đi. Trọng luật cùng nghĩa với trọng tình nghĩa. Đức Kitô có lần cho biết tất cả mọi lề luật tóm gọn trong hai điều răn đó là mến Chúa và yêu người. Người ta có thể giữ kĩ các luật, mến Chúa hết lòng nhưng lại coi thường anh em, coi nhẹ luật yêu thương. Trọng Thiên Chúa nhưng lại khinh người có khác nào tử tế với cha và xử tệ với con. Đối với Thiên Chúa ngoài mến Chúa ra luật yêu thương là luật quan trọng nhất, con người lại bỏ qua hay coi nhẹ. Anh nhà giầu coi trọng luật lệ nhưng coi nhẹ việc giúp người nghèo túng. Đức Kitô nhắc anh cần làm tốt điều đó, luật yêu thương.
Ngày nay nhiều thương gia sống theo cách thức anh nhà giầu. Thành công, nổi tiếng, tự làm chủ, không bị lệ thuộc ai là điều các thương gia đang nhắm đến. Thành công và thành danh thì cứ tiếp tục tiến bước, dại gì mà thay đổi. Con người kinh tế muốn hoàn toàn tự lập và độc lập, không muốn dưới quyền ai và không muốn bắt chước ai và cũng không cho ai bắt chước cách thức dẫn họ đến thành công. Họ có thể gia nhập nhóm thành công để tạo thêm thế lực, nhưng họ vẫn độc lập làm ăn riêng rẽ và sống cho mình. Lối suy nghĩ này trái với đường lối Phúc Âm là chung sống, chia sẽ và hỗ trợ nhau. Phúc âm kêu gọi sinh hoạt cộng đồng, cùng hy sinh, cùng nhau phục vụ bởi tất cả đều là anh chị em, đều là con cái Thiên Chúa.
Cuộc sống ảnh hưởng bởi văn hoá ta đang sống và văn hoá đó thể hiện qua cuộc sống. Anh nhà giầu sống trong văn hoá của người giầu và anh quen với lối sống đó. Bán cả gia tài phân phát cho người nghèo để sống cuộc sống nay đói, mai khát là điều anh không thể làm, không hiểu. Anh thiếu văn hoá Phúc Âm trong cuộc sống bởi văn hoá đó kêu gọi đặt trọn niềm tin vào Chúa, sống hy sinh và phục vụ. Bởi thiếu văn hoá này mà anh không thể đáp lại điều Đức Kitô mời gọi. Muốn có loại văn hoá này anh cần để Phúc âm thấm nhập vào tâm hồn và muốn được thấm nhập thì phải từ bỏ văn hoá giầu sang để chung sống, cảm thông và hiểu như cầu người mình đang phục vụ.
Đức Kitô cho biết ai trọng của cải hơn con người thì không thể làm môn đệ Ngài. Ai trọng của cải hơn sự sống thì chưa sẵn sàng phục vụ nước Trời.
57.Bán trời--Lm. Vũ Đình Tường
Kitô hữu đôi khi khuyến khích nhau tích trữ ân sủng nước trời qua các câu "mua nước trời; mua thiên đàng; sắm gia tài bất diệt; ngân hàng thiên quốc".
Trên đời hễ có kẻ bán là có người mua, mại cả nước trời. Cách ví von dễ hiểu nhưng rất tai hại, gây hiểu lầm nguy hiểm cho đức tin. Kitô giáo có nhiều từ diễn tả tâm linh, tu đức và bác ái tốt hơn là các câu nêu trên. Dùng từ đơn giản diễn tả Nước Trời một sự thật cao quý, trọng đại là một nghệ thuật. Dùng sai mất nghệ thuật, sai ý muốn diễn tả, đưa tới hiểu lầm cho cả tín hữu lẫn kẻ tìm hiểu đạo. Những câu thắc mắc có thể của cải, vật chất mua nước trời kẻ nghèo lấy gì mua vì không có của. Vật chất mua được nước trời thì giải thích thế nào về mầu nhiệm thập giá. Đức Kitô có cần xuống thế để cứu chuộc nhân loại. Thiên đàng cho kẻ giầu; hỏa ngục cho kẻ nghèo. Hỏa ngục ồn ào hơn vì kẻ nghèo nhiều hơn kẻ giầu. Cần tránh cách ví von nguy hiểm đó.
Nước trời không thể mua sắm, không sang nhượng, không ai có để bán, cũng chẳng ai đủ xứng đáng để mua. Không thể bán thứ mình không làm chủ. Nước trời là vô giá nên không thể buôn, bán. Giá trị nước trời vô biên, không thể đo lường. Vật chất, tiền tài, con người làm chủ, mỗi thứ có giá trị riêng của nó. Mọi giá trị vật chất đều giới hạn nên không thể dùng để so sánh, chưa nói đến buôn bán. Khi so sánh của cải, vật chất lời khuyên thường là: hãy coi thường của cải vì chúng mau hư, chóng mục; khi nói về nước trời thì lại ví von mua nước trời. Dùng vật tầm thường mua của cao trọng là điều không thể xảy ra.
Nói đến buôn bán con người nghĩ đến của cải, vật chất. Ngôn từ dùng cho việc buôn bán, thương mại, trao đổi hàng hóa. Ngôn từ thương mại không thích hợp để diễn tả nước trời, thiên đàng, vĩnh cửu.
Phúc Âm xác quyết một điều là không thể dùng của cải để mua nước trời. Chuyện anh thanh niên giầu có lại coi trọng luật lệ trả lời cho vấn đề đang bàn thảo. Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?'
Chúa đưa mắt nhìn anh trìu mến nhắc khéo. 'Anh chỉ thiếu có một điều'. Thoáng nghe thấy nhẹ nhàng. Thiếu có một điều mà cần bán hết gia tài. Khó tin. Chúa nhìn anh bằng cái nhìn trìu mến. Đúng thế vì anh quỳ trước mặt Chúa, nơi công cộng, đông người. Điều này mấy ai làm được. Chúa mến anh vì anh chân thành, anh hiểu lầm giữa giữ đạo và hành đạo. Trong anh có niềm tự hào vì tuân giữ các lề luật, không phải mới đây mà là từ nhỏ. Đáng tự hào lắm chứ.
Anh thiếu một điều. Anh giữ đạo có phân nửa. Để thành tông đồ anh cần thực thi nửa kia. Giữ đạo là điều một; hành đạo là điều hai. Người thanh niên có điều một; thiếu điều hai. Nói rõ hơn anh thiếu hẳn phân nửa lề luật Chúa truyền tức là phần hành đạo. Tất cả lề luật trong đạo tóm gọn trong hai điều "mến Chúa, yêu người" (Mc 12,34). Anh mến Chúa nhưng chưa yêu người. Chúa nhắc mến Chúa suông chưa đủ; phải thực hành giới răn yêu người như thế mới giữ trọn lề luật. Chúa đề nghị anh bán tài sản cho người nghèo là một trong nhiều cách thực hiện lòng bác ái.
Bán hết gia tài chia cho người nghèo. Chúa kêu gọi người thanh niên giầu có hãy sống chung với anh em, đừng phân biệt giai cấp giầu nghèo. Môn đăng hộ đối không phải là lối sống Tin Mừng, tinh thần Phúc Âm.
Chúng ta trở lại câu: Lậy Thầy nhân lành. Ý tưởng con người dù tốt lành đến mấy cũng bất toàn. Anh thanh niên giầu có kia giữ trọn lề luật từ tấm bé. Lầm tưởng như thế là nhân lành. Chúa nhìn anh trìu mến vì tấm lòng chân thành của anh.
Anh thành thật, ngây thơ đáng thương hơn đáng trách. Với anh, giữ trọn lề luật là trở nên trọn lành, có được sự sống đời đời. Nghĩ và tin như thế. Chúa nhắc anh giữ trọn lề luật từ tấm bé rất tốt nhưng chưa trọn lành đâu. Vì thế Chúa nói: không có ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa. Có nhiều của, giữ lề luật anh thấy an tâm cho là như thế là đủ. Chúa dậy như thế chưa đủ vì còn thiếu tình thương. Giữ luật là sống cho riêng anh. Chúa gọi anh sống cho tha nhân. Anh từ chối lời mời đó. Anh đâu biết chu toàn lề luật chưa chắc có tự do. Lề luật không cứu được con người.
Khi Chúa sửa sai hẳn phải có vấn đề. Chúa hỏi sao anh nói Tôi là nhân lành. Dường như có ẩn ý trong câu nói của người thanh niên. Nếu không nằm trong câu hỏi thì tiềm ẩn trong câu đáp. Có thể anh hiểu giữ trọn lề luật là trở nên nhân lành nên anh hãnh diện thưa cùng Chúa tôi tuân giữ từ thuở nhỏ. Chúa cho biết không ai nhân lành cả, trừ một mình Thiên Chúa.
Liền sau đó Chúa dậy anh về giới luật yêu thương. Bán những gì anh có mà cho người nghèo. Thực hành điều đó anh sẽ được một kho tàng trên trời. Kho tàng trên trời không mua bằng vật chất, của cải mà là tình thương và lòng mến trong thời gian sống tại thế.
Điểm cuối, người thanh niên giầu có kia coi Chúa như một vị thầy. Có lẽ điều anh muốn là Chúa xác nhận công việc anh đang làm là đúng, con đường anh đang đi là phải, đường đó giúp anh trở nên 'nhân lành'. Trở nên nhân lành vịn vào lề luật. Chúa không xác định điều đó lại còn cho biết anh còn thiếu, chưa giữ đúng luật. Điều anh mong đợi không toại nguyện, việc anh làm không được ca khen, chỉ nhận được cái nhìn trìu mến. Hẳn nhiên mặt anh xìu xuống, không còn tươi tỉnh như khi đến. Anh buồn rầu bỏ đi. Không tin Chúa nên không đáp lại lời Chúa. Anh đâu biết có những luật để giữ nhưng có những luật để thực hành. Luật thực hành Chúa muốn nói đến là luật yêu thương và luật bác ái. Luật này không phải để giữ mà phải thực hành, sống bác ái.
Ai muốn trở thành môn đệ Chúa người đó phải sống tinh thần yêu thương, thực hành đức ái trong đời sống hàng ngày. Luật lệ làm cho ta sống yên ổn nhưng luật không ban sự sống.
58.Chúa Nhật 28 Thường Niên--Lm Vincent Âu Quốc Thanh
Người đời thường dùng tiền để đo lường mức độ tình yêu hoặc sự thân thiết với nhau. Ví dụ, nếu có người bạn quen sơ lập gia đình và lịch sự gửi thiệp hồng thì người được mời cũng phải lịch sự gửi thiệp chúc mừng với ngân phiếu khoảng 50 Mỹ kim. Nếu đi ăn tiệc ở California, thì tấm ngân phiếu nầy chỉ gỡ huề cho Anh Chị mới cưới thôi. Nếu cô dâu hoặc chú rể là người bạn thân thì người đi dự tiệc cưới sẽ phải mừng ít là một hình cụ Tổng Thống Adam (100 đô). Nếu Chú bác, ông và, cha mẹ thì phải cho đi mấy cụ mới hợp tình nghĩa.
Qua thí dụ trên, chúng ta thấy rằng tình thân thiết giữa người đi dự tiệc cưới và cô dâu chú rễ càng mạnh mẽ thì người ta càng dễ thoát ly tiền của, càng dễ cho tiền của cách quãng đại
Trong bài Phúc âm hôm nay Chúa Giêsu cũng muốn dùng tiền để đo lòng chàng thanh hiên giầu có. Dựa trên những lời của chàng thanh niên, chúng ta thấy tình thân thiết của chàng và Thiên Chúa thuộc vào hàng trên trung bình. Là một người Israel đạo hạnh biết kính sợ Thiên Chúa từ tấm bé, chàng không phạm tội tà dâm, không giết người, không làm chứng gian và không lường gạt. Có lẽ chàng cũng đã dâng cúng cho Thiên Chúa 10% những hoa lợi hàng năm. Tuy nhiên, khi Chúa Giêsu đòi chàng phải bán hết gia tài và phân phát cho người nghèo và theo Ngài với hai bàn tay trắng thì chàng đã buồn rầu bỏ đi. Đồng tiền liền khúc ruột; thật khó cắt bỏ lòng quyến luyến tiền của.
Nhưng khước từ tiền của lại là một điều kiện không có không được để theo Chúa. Khi theo Chúa, người môn đệ không dựa vào tiền của nhưng phải tin tưởng sức mạnh tuyệt đối của Thiên Chúa. Môn đệ của Chúa Kitô không chủ trương - có tiền chẳng mạnh thì bạo, hay - có tiền chán vạn người hầu, có bấc có dầu chán vạn kẻ khêu. Người chủ trương mạnh vì tiền sẽ khó vào nước Trời vì lòng họ khó có thể hiền lành và khiêm nhượng. Lời Chúa hôm nay cảnh tỉnh chúng ta: lòng mê man tiền của là một chướng ngại vật rất to lớn cho những người muốn làm môn đệ đích thực của Chúa Giêsu. Lòng yêu chuộng tiền của càng lớn lên thì lòng yêu Chúa càng kém đi.
Có nhiều người môn đệ của Chúa Kitô đang phải đấm ngực ăn năn vì lòng mê tham tiền của. Có lẽ chúng ta không can đảm bỏ đi như chàng thanh niên vì sợ người đời chê cười là hèn nhát. Chúng ta vẫn theo bước Chúa Kitô và vẫn mang danh là Kitô hữu, nhưng cuộc sống thực tế của chúng ta có lẽ cũng đáng làm cho chúng ta phải buồn rầu vì đã không dám bán hết của cải để theo Chúa Giêsu với một trái tim không chia sẻ.
Nhiều bạn trẻ sẵn lòng bỏ ra mấy chụd Mỹ kim để dẫn bồ đi coi xinê, nghe nhạc, hay ăn tại Red Lobster nhưng lại thấy tiếc khi bỏ cho nhà thờ mấy đô la. Vì thế mới có câu: Some people pay tithes to the waitress but tip to God (Một số người đóng tiền thập phân cho cô chạy bàn nhưng cho Chúa tiền lẻ (tiền tip). Còn những bậc người lớn đã theo Chúa Kitô lâu năm, thử hỏi lòng ta đã thoát ly tiền của được bao nhiêu. Hay lại mắc phải tật càng già càng thích tích trữ mọi thứ đồ dùng. Lỡ nói nói luôn kẻo mang tiếng kỳ thị từng lớp người. Ngay cả những tu sĩ và linh mục là những người hứa sống đời sống nghèo của Phúc âm cũng cần phải buồn rầu, ăn năn vì đã không sống xứng đáng với những ơn Chúa đã ban. Tu sĩ mà lại thích giầy Nike hay Addidas quá đáng; linh mục mà thích chơi xe xì-bo (sport car) loại mới nhất; thất khó hiểu và khó coi làm sao. Có lẽ có đấng sẽ chữa rằng Chúa ban lại gấp trăm ở đời này lẫn đời sau mà. Xin Chúa là Đấng thấu suốt và đo lường mọi tình cảm trong tâm hồn minh xét cho chúng con. Lòng ta tôn thờ kính yêu Thiên Chúa hay thần tài?
59.Chúa Giê-Su, Đấng Khôn Ngoan Thiên Chúa ở giữa loài người--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Khôn ngoan là “quà tặng” thần linh, con người phải ra công tìm kiếm bằng mọi phương tiện Chúa ban, mới hy vọng sở hữu đức khôn ngoan thiêng thánh hướng dẫn trong mọi sự, hầu đạt tới sự sống muôn đời.
Sách Các Vua ghi lại lời cầu khấn của Salomon khi vừa mới đăng quang. Ông cầu nguyện: Lạy Chúa, tôi tớ Chúa đây chỉ là một đứa trẻ, hiểu biết nông cạn, không thể cai trị một dân đông đảo như này. Tôi chỉ xin cho được khôn ngoan để cai trị dân cho phải đạo. Lời cầu xin đã được nhận lời, Chúa hiện đến cùng ông trong giấc mơ và phán bảo: vì ngươi không xin cho được danh, lợi, thú, được sống lâu dài hay mạng sống quân thù, mà chỉ xin cho được khôn ngoan, thì đây, Ta ban cho ngươi sự khôn ngoan trước ngươi chưa ai có và sau ngươi cũng chẳng ai bằng, ngay cả những gì ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi. Salomon được coi là vị vua khôn ngoan bậc nhất trong lịch sử cứu độ.
Salomon khôn ngoan là vì ông biết cầu xin, còn đây có Đấng khôn ngoan hơn Salomon bội phần: Chúa Giê-su, Đấng là chính sự khôn ngoan của Thiên Chúa, nhập thể làm người, ở cùng, dạy dỗ, dẫn đưa chúng ta vào trong chân lý toàn vẹn, hội nhập vào gia đình Ba Ngôi, để được sống và sống dồi dào.
Bài đọc I, trích sách Khôn ngoan, sưu tập những lời dạy của các hiền nhân Israel. Đối với các ngài, sự khôn ngoan đích thực là nhận biết chân lý, là ơn kính sợ Chúa Trời.
Khôn ngoan thần linh không đến bởi kinh nghiệm cuộc sống, mà do Chúa tặng ban, do Chúa mạc khải. Đó là sự khôn ngoan của “bàn quỳ”, của phủ phục tôn thờ, nghĩa là sự khiêm tốn cầu xin, để được thấu hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa và ơn cứu độ: “Lạy Chúa, xin rộng ban cho con đức khôn ngoan hằng ngự bên tòa Chúa” (Kn 9, 4).
Bài sách thánh diễn tả niềm vui tươi phấn khởi của người nhận ra được chân giá trị của khôn ngoan, nên sẵn sàng đánh đổi tất cả, ra công tìm kiếm. Họ là người sớm nhận ra kho tàng chôn giấu trong ruộng, viên ngọc quý bấy lâu tìm kiếm, vui mừng bán đi tất cả những gì mình có để mua sắm cho được.
Đức khôn ngoan quý trọng hơn trân châu, ngọc bảo, vàng, bạc đem so với nó chỉ như cát bụi, rơm rác...
Ý tưởng khôn ngoan lời sách thánh vừa tuyên đọc nhằm trình bày Ngôi Lời Khôn Ngoan của Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian vào thời viên mãn, để mạc khải mầu nhiệm Nước Thiên Chúa cho những ai khao khát kiếm tìm.
Bài Phúc Âm hôm nay mở lối cho tất cả những ai khao khát kiếm tìm Đức Khôn ngoan.
Người thanh niên giầu có tìm gặp Chúa Giê-su, xin được chỉ dẫn con đường nên trọn lành, giúp anh đạt tới sự sống đời đời.
Nhắc tới người thanh niên giầu có, Ma-cô muốn nói với độc giả rằng: của cải không phải là cùng đích, vẫn còn một điều quan trọng hơn gấp bội “sự sống đời đời”.
Người thanh niên đã có một nếp sống nhân bản đạo đức khá hoàn hảo: “Thưa Thầy, mọi giới răn, tôi đã tuôn giữ từ thuở nhỏ” (Mc 10, 20).
Tuy nhiên, để gia nhập Nước Chúa, đời sống công chính tự nhiên, nhân bản chưa đủ, nó mới chỉ như mảnh đất tốt chuẩn bị cho hạt giống Tin Mừng, điều cần là Lời Chúa phải được vãi gieo.
Chúa Giê-su gieo vào tâm hồn người thanh niên giầu có hạt giống yêu thương, bác ái sẻ chia, Người mời gọi: “Con chỉ còn thiếu một điều, đi bán những gì con có mà cho người nghèo, con sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo Ta” (Mc 10, 21).
Thật ra, đây không phải là một đòi hỏi, đơn giản chỉ là một mời gọi đặt căn bản trên một nguyên lý hài hòa, cân bằng: “Vét cạn để đong đầy”. Một cái bình chứa đầy tới miệng sẽ không thể thêm vào bất cứ thứ gì, nó sẽ tràn ra, chỉ khi đổ đi hết mới có thể tiếp nhận rượu mới. Tâm hồn con người cũng vậy, nếu chất đầy mọi ước muốn: tham, sân, si, thì lấy chỗ đâu cho lời cứu độ lọt vào. Cần bán đi và bán đi tất cả, mới có khoảng trống để tiếp nhận Tin Mừng của Chúa.
Qua câu truyện của người thanh niên giầu có, Chúa cũng mời gọi mỗi người chúng ta thu tích lời hằng sống là Tin Mừng cứu độ.
Chúng ta có dám mạnh dạn bán những gì mình đang có là tính hư nết xấu, là tham lam, ích kỷ, là ganh tỵ, ngông cuồng, là bất công, dối trá và mọi thứ tệ đoan, nhất quyết mặc lấy Chúa Giê-su, nên đồng hình đồng dạng với Ngài, thu tích cho đầy kho tàng trên trời không ?
Tôi nghĩ câu trả lời và hành động chuẩn chỉ tích cực phù hợp với Tin Mừng luôn là một thách đố, phải có ơn Chúa mới có thể đáp ứng lời mời gọi đầy tính “biện chứng” của Chúa Giê-su trong Tin Mừng hôm nay.
Bài đọc II diễn giải Lời Chúa như một bản xét mình: lời khôn ngoan của Chúa phơi bày sự thật hiển nhiên của tâm hồn và không ai có thể quanh co, né tránh mạc khải. Lời Chúa phán xét tức thì hành vi nhân linh, quen gọi là tiếng nói lương tâm: làm lành được lương tâm tán thưởng, ngược lại, sẽ bị lương tâm giày vò, cắn rứt.
Tác giải thư Do Thái gọi là sự xuyên thấu, Lời Chúa phân rẽ tâm hồn với thể xác, tâm linh với vật chất, thánh thiện với tội lỗi. Tất cả đều trần trụi, phơi bày trước mặt Đấng có quyền đòi chúng ta trả lẽ.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa mời gọi chúng ta:
Một là: Siêng năng học hỏi, gẫm suy Lời Chúa, vì đó là sự khôn ngoan của Trời. Sự khôn ngoan làm cho chúng ta nhận biết Chúa và dốc lòng yêu mến Chúa hết lòng, hết trí khôn, hết cả sức lực, đồng thời, cũng yêu mến anh chị em như chính mình, nhờ đó, người tín hữu có khả năng thực thi ý Chúa, đáng được Chúa chúc phúc và ban ơn.
Hai là: Sống tinh thần hoán cải tận căn, hoán cải không ngừng. Nhờ hoán cải theo Tin Mừng, chúng ta tiếp nhận sự khôn ngoan, không theo kiểu thế gian, cầu lợi lộc, tiền tài, danh vọng, nhưng sống theo Thánh Thần hướng dẫn: công chính, bình an, hy vọng, hiệp thông, cùng nhau bồi đắp nền văn minh tình thương giữa các dân tộc.
Tiếp nhận Tin Mừng bằng hoán cải, thực thi ý Chúa, là người khôn ngoan, xây nhà trên nền đá vững vàng, dù cho sóng cồn gào thét, bão tố bủa vây, cũng không hề hấn gì, vì có Chúa là nơi ẩn náu, cậy dựa, đỡ nâng.
Xin Chúa thương nâng đỡ và chúc lành cho mỗi người chúng ta. Amen!
60.Đi tìm kho tàng--Lm. John Nguyễn
Tiền...!
Ngồi buồn tự hỏi thế gian
Đồng tiền sức mạnh vô vàn phải chăng?
Cuộc sống đang rất thăng bằng
Vì tiền xáo trộn lăng nhăng hết rồi
Giờ đây như kẻ điên khùng
Mắt thì trợn ngược, mồm phùng to ra...
Sự khát khao và mong muốn được giàu có nơi mỗi con người chẳng bao giờ ngừng. Điều này đúng với tự nhiên bản chất con người. Nhưng, đối với chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng thì khác với những người giàu có ngày hôm nay, anh ta lại muốn đi gặp Chúa Giêsu và hỏi Ngài: “Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?” Chúa Giêsu chỉ cho anh ta một cách là: “Anh hãy đi bán hết của cải tài sản đem cho người nghèo, anh sẽ được kho tàng trên trời, rồi đi theo Ta”. Thật, Ngài đưa ra một quy luật quá khó cho anh nhà giàu này. Thế là anh ta buồn rầu và bỏ đi, vì anh có nhiều của cải. Làm sao anh ta có thể bỏ được khi anh ta đang có bạc tỷ, nhà cao cửa rộng, và được nhiều người cung phụng! Anh ta chẳng dại gì bỏ đi của cải mình đang sở hũu. Một nhà kinh tế thì đầu óc phải tính sao cho có lợi chứ! Nghe Chúa Giêsu nói thế, anh ta bỏ đi và quay trở về với thế giới tiền bạc của anh ta. Chúng ta thấy tham vọng và mục đích của người giàu có này là không chỉ được sự sống đời này mà là cả sự sống đời sau nữa. Nhưng cái kết cuộc thì toàn thất bại, vì anh ta không thể vượt qua được sức mạnh và quyến rũ của đồng tiền.
Cho dù anh ta là người giữ luật và sống đạo rất chặt chẽ, anh ta không làm hại ai, không tham lam của ai, không phê bình chỉ trích ai, không ngoại tình lăng nhăng, anh vẫn thờ cha kính rất mẫu mực. Tất cả mọi việc anh ta giữ rất tốt. Chúng ta thấy điều đó đáng quý của đạo làm người. Nhưng nếu xét theo hình thức giữ đạo của anh ta chỉ dừng lại hình thức giữ đạo, chứ chưa hành đạo. Giàu có nhưng không biết chia sẻ với người nghèo khổ. Khi nghe câu hỏi câu trả lời của Chúa Giêsu, chúng ta cho thấy rõ con người thật của anh ta, và anh ta bỏ đi, vì đụng chạm tới thẳm sâu lòng tham vọng của anh ta.
Sau đó, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh đó để nói với các môn đệ: “Những người giàu có thì khó vào Nước Thiên Chúa biết bao!” Khi nghe Chúa Giêsu nói điều này, thì không chỉ các môn đệ ngạc nhiên mà ngay cả chúng ta và các nhà tỷ phú hôm nay sẽ nghĩ gì.? Điều này có vẻ trái ngược với ước muốn và tham vọng của con người trong thời đại này. Khi người ta đang từng ngày từng giờ để chạy theo và tìm kiếm cho thật nhiều tiền, để được vinh thăng cuộc đời. Nhưng giàu có mà biết cho đi thì mang lại gấp bội. Chúa không muốn chúng ta nghèo khổ, nhưng Chúa cần chúng ta phải biết cho đi và chia sẻ với anh chị em mình. Vì chẳng ai mang được gì khi ta nhắm mắt xuôi tay, thì những công phúc ta làm được khi còn sống là hành trang và ân phúc đời sau. Thiêng đàng chẳng ở đâu xa nó ngay chính cuộc sống mỗi ngày chúng ta đang sống trên trần gian này.
Ngay cả thánh Phêrô cũng phải lên tiếng rằng: “Thầy coi, chúng con đã bỏ mọi sự để đi theo Thầy!” Phêrô phản ứng vì sợ mình không được cứu độ, không được sự sống đời đời. Thế thì, con người ngày nay có còn khát khao muốn được Thiên Chúa cứu độ như thánh Phê-rô không? Ngài nói: “Chúng con bỏ hết mọi sự để đi theo Thầy” hay “Bỏ Thầy con biết theo ai?”. Có lẽ, chúng ta cần có những giây phút thinh lặng để hỏi lại chính mình. Chúng ta đã bỏ gì và đang mang gì để đi theo Chúa? Chúng ta đi tìm kho tàng ở đâu?. Sau khi lìa khỏi đời này, mỗi người chúng ta có được mang gì theo không?. Thưa anh chị em! Có nhiều thứ để chúng ta chọn lựa, nhiều nơi để chúng ta đi, nhưng chỉ có một nơi mà tất cả mọi người chúng ta cùng đi chung một con đường, đó là con đường ra nghĩa trang và nằm dưới mấm mộ. Ngày hôm nay, người ta có hàng tỷ trong tay, nhưng ngày mai trong tay chẳng nắm đồng nào cũng chẳng mang cái nhà, chuyến xe, khi ta nhắm mắt lìa đời. Chỉ còn lại một chút tình, một chút nghĩa, một chút cử chỉ bác ái yêu thương đọng lại trong những người thân, những người chúng ta yêu thương, quý trọng và chăm sóc khi ta còn sống. Tất cả là của Chúa, thuộc về Chúa, Ngài là Chủ, là Đấng sáng tạo và ban cho chúng ta hưởng dùng, Ngài có quyền lấy lại tất cả khi ta đi hết con đường cuộc đời.
Nếu Lời Chúa hôm nay đối nghịch với ý tưởng và suy nghĩ của con người, nhưng là lời nhắc nhớ thiết thực nhất. Đây chính là chân lý mà Thiên Chúa đã mạc khải cho nhân loại, đó là quy luật sống cho những ai tin vào Ngài, tin vào sự sống vĩnh cữu. Nơi đó của cải sẽ không bị mục nát hay bị hư mất. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần chú ý thêm về ý nghĩa của sự giàu và nghèo của Tin Mừng. Chúa Giêsu không bảo các con cứ sống nghèo túng và đau khổ cho đến chết thì sẽ được cứu độ và lên thiêng đàng, nhưng cái nghèo ở đây, chính là sống tinh thần nghèo khó. Tinh thần nghèo khó nơi Mẹ Maria là khiêm nhường, bác ái, đơn sơ và khó nghèo. Khi chúng ta sống tinh thần nghèo khó là lúc chúng ta biết yêu thương, chia sẻ và cảm thông với anh em của mình. Sự quan tâm yêu thương giúp đỡ, chính là giới răn của Chúa “Kính Chúa yêu người”. Chúa Giêsu không bảo anh thanh niên giàu có bán hết của cải để kinh doanh đầu tư tích lũy, mà là đem cho người nghèo. Trong khi đó, anh chàng thanh niên kia chỉ muốn giàu có và tích lũy nhiều thêm của cái cho bản thân. Phải chăng hình ảnh chàng thanh niên giàu có trong Tin mừng hôm nay chính là biểu tượng và hình ảnh của nhiều người trong chúng ta!.
Tiền đâu phải là tất cả
Nghiên cứu tiền mới biết đến tiền
Không phải tiền như tiên mình nghĩ
Đô la Mỹ cũng như Việt nam đồng
Nó chỉ là một tờ giấy không
Trông chờ nó cuộc đời sẽ khổ
Để cho nó công cụ tuyệt vời
Là làm phương tiện trong cuộc sống
Tống suy nghĩ tiền là tất cả.
Để kết thúc bài suy niệm hôm nay, chúng ta cần đến trở lại với những lời chỉ dẫn của sách Khôn ngoan đã viết:
“Tôi coi của cải chẳng là gì so với Đức khôn ngoan.
Đối với tôi, trân châu bảo ngọc chẳng sánh được với Đức khôn ngoan,
vì vàng trên cả thế giới, so với Đức khôn ngoan cũng chỉ là cát bụi,
và bạc so với Đức khôn ngoan cũng kể như bùn đất...”
Lạy Chúa, xin cho chúng con đức khôn ngoan của Chúa, để chúng con biết chọn lựa nh