+ Chúa Nhật 17/03/2024 – CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY năm B. – Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
- In trang này
- Lượt xem: 5,671
- Ngày đăng: 16/03/2024 10:00:00
Hạt lúa thối đi, sinh nhiều bông hạt.
17/03 – CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY năm B.
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt".
Lời Chúa: Ga 12, 20-33
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, trong số những người lên dự lễ, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp Philipphê quê ở Bêtania, xứ Galilêa, và nói với ông rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Ðức Giêsu". Philipphê đi nói với Anrê, rồi Anrê và Philipphê đến thưa Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu đáp: "Ðã đến giờ Con Người được tôn vinh.
Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt.
Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời. Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha".
Lúc đó có tiếng từ trời phán: "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Ðám đông đứng đó nghe thấy và nói đó là tiếng sấm. Kẻ khác lại rằng: "Một thiên thần nói với Ngài". Chúa Giêsu đáp: "Tiếng đó phán ra không phải vì Ta, nhưng vì các ngươi. Chính bây giờ là lúc thế gian bị xét xử, bây giờ là lúc thủ lãnh thế gian bị khai trừ và khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Người nói thế để chỉ Người phải chết cách nào.
* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ link CGKPV
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY B
Lời Chúa: Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33
MỤC LỤC
1. Hạt lúa trơ trọi--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
2. Giờ được tôn vinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
3. Hạt lúa mục nát--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
4. Hạt lúa mì rơi xuống đất mà thối đi --TGM Giuse Nguyễn Năng
5. “Huyền nhiệm sự sống”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
6. Xin tôn vinh danh Cha--GM. Phêrô Kiều Công Tùng
7. Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
8. Vinh quang nơi Thập Giá--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
9. Cố gắng thi hành tình yêu Đức Kitô--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
10. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
11. Giờ Con Người được tôn vinh--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
12. Đã đến giờ Con Người được tôn vinh--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNI--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
13. Từ bỏ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.
14. Vượt qua sự chết để vào cõi sống--Lm. Đan Vinh
15. Giao Ước Mới--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
16. Bài học vâng phục--Anmai, CSsR
17. Giờ Con Người được tôn vinh--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
18. Hạt lúa mì mục nát--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
19. Quy luật sự sống--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
20. Trao ban là nhận lãnh--Lm. Ignatiô Trần Ngà
21. Hạt lúa gieo vào lòng đất--‘Cùng Đọc Tin Mừng”--Lm. Ignatiô Trần Ngà
22. Cho đi thì còn, giữ lại thì mất--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
23. Chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu--Lm. Quốc Toản, CRM
24. Hành trình tự hủy--Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
25. Sống đẹp giữa đời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
26. Hạt lúa chết đi--AM Trần Bình An
27. Hạt giống vô sinh hay hữu sinh?--AM Trần Bình An
28. Hạt lúa mì gieo vào lòng đất--Lm. Giuse Phạm Quốc Phong
29. Giờ đã điểm--Lm. Vũ Đình Tường
30. Con người--Lm. Vũ Đình Tường
31. Nếu hạt giống chết đi--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
32. Mùa gặt tươi tốt--Lm. Hồng Phúc
33. Giao Ước và những ràng buộc--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
34. Hạt lúa mì mục nát, trổ sinh hoa trái--Lm. Trần Bình Trọng
35. Hạt lúa mì mục nát đi, mới trổ sinh bông trái--Lm. Trần Bình Trọng
36. Thuốc bất tử--Lm. Trịnh Ngọc Danh
37. Hạt lúa mì--Lm. Phạm Quốc Hưng
38. Theo Chúa trở nên hạt lúa--MINH HỌA LỜI CHÚA--HN sưu tầm--thanhlinh.net
39. Hạt lúa phải được vùi xuống đất để sinh nhiều bông hạt--Lm. Vũ Thái Hoà
40. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
41. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
42. Dẫu là Con Thiên Chúa--Lm. Xuân Hy Vọng
43. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
44. Chết để sống--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
45. Giao Ước vĩnh cửu được ký kết trong thập giá Đức Kitô--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
46. Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu--Lm. Lâm Thái Sơn
47. Hạt lúa mì gieo xuống đất--Lm Nguyễn Minh Hùng
49. Giá trị của đau khổ--Lm. Minh Vận
50. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
51. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Hữu An
52. Khát khao gặp Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
53. Con đường hạt lúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
54. Chính khi hiến thân là khi nhận lãnh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
55. Giao ước tình thương--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
56. Chết là khởi đầu đời sống mới--Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
57. Mục nát đi để trổ sinh dồi dào bông hạt--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
58. Xin tôn vinh Danh Cha--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
59. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
60. Học Yêu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
61. Chuyện tình có hậu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
62. Bước đường theo Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
63. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”--Gs. Phạm Văn Lưỡng
64. Lẽ sống chết--Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
65. Nếu hạt lúa chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác--Lm. Trầm Phúc
66. Thề hứa--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
67. Chuyện sống – chết--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
68. Hạt lúa chết đi--Lm Mark Link, SJ
70. Để được ơn nghĩa Chúa, cần chết đi con người tội lỗi--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ
71. Ánh sáng của Thập Giá--Lm. FX. Vũ Phan Long
72. Giờ của Chúa Giêsu (12,20-36)--Alain Marchabour
73. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Noel Quesson
74. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Fiches Dominicales
75. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
76. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--William Barclay
77. Sự yếu đuối của con người--Flor Mc Carthy
78. Tôi sẽ lôi kéo mọi người--Yvon Daigneaut
79. Chúng ta đang sống ở giờ nào?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest
80. Thiên Chúa cứu chuộc thế gian bằng tình yêu--Noel Quesson
81. Phục vụ tha nhân, như Chúa Giêsu phục vụ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn
82. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành
89. Hạt giống sinh hoa kết quả
93. Ta là sự sống lại và là sự sống
97. Con đường Thập Giá mà Chúa Giêsu đã đi qua
103. Hạt giống vâng phục--Huệ Minh
104. Mầu nhiệm tự hủy--Lm. Micae Võ Thành Nhân
1.Hạt lúa trơ trọi--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm
"Nếu hạt lúa rơi vào lòng đất, mà không chết đi
thì nó vẫn trơ trọi một mình.
Còn nếu nó chết đi thì mới sinh nhiều bông hạt"
Chẳng ai trong chúng ta ngạc nhiên khi nghe câu trên.
Đó là luật tự nhiên chi phối cây cỏ,
nhưng lắm khi tôi thấy khó áp dụng cho mình.
Tại sao tôi phải chết để người khác được sống?
Chết để sinh nhiều bông hạt ư?
Nhưng nhiều bông hạt có ích gì, khi chính tôi bị tan vỡ?
Chính vì thế tôi không muốn chết như hạt lúa.
Tôi chấp nhận trơ trọi một mình.
Tôi cô đơn với tôi, để được yên ổn.
Tôi sợ mất mát, vì mất mát đem lại đớn đau,
nên tôi tìm đủ cách để giữ lại những gì tôi có, những gì tôi là.
Tiếc thay, lúc giữ được tất cả tôi lại thấy mình mất tất cả,
vì mất ý nghĩa của cuộc sống.
Tôi như con thú chỉ biết chăm lo cho bộ lông của mình.
Dần dần qua những kinh nghiệm đau thương, tôi mới nhận ra rằng:
chỉ có một cách giữ chặt, đó là buông ra và trao hiến.
Tôi bắt đầu được khi chấp nhận mất.
Sự sống đời đời đã bắt đầu, hạnh phúc đã hé nụ
ngay lúc này, ngay ở đây, cho tôi.
Như con ốc sên, chỉ bò được khi chui ra khỏi vỏ,
tôi chỉ giàu có và triển nở mọi mặt
khi quảng đại ra khỏi lớp vỏ của mình,
ra khỏi những bận tâm, tính toán, xây đắp cho mình,
để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Lời kinh Hòa Bình lại vang vọng trong tôi:
"Vì chính khi hiến thân, là khi được nhận lãnh,
chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân..."
Nhưng hiến thân, quên mình, hy sinh, từ bỏ,
đón lấy cái chết như hạt lúa vùi sâu,
những điều đó đã làm chính Đức Giêsu dao động.
"Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến Thầy biết nói gì đây?
Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này chăng?
Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. “(c. 27)
Đã có những giây phút giằng co, ngần ngại,
đã có những cuộc chiến Vườn Dầu ở trong tôi.
Nếu tôi kiên trì tỉnh thức và cầu nguyện,
tôi sẽ thắng được nỗi sợ bị thua thiệt, mất mát.
Sau nhiều lần dám liều mất tất cả
để rồi ngỡ ngàng thấy mình được lại quá nhiều,
tôi sẽ dễ dàng chọn cái mất trước mắt
như con đường dẫn đến cái được vĩnh hằng.
Xin Đức Giêsu bị đóng đinh kéo tôi lên với Ngài,
kéo tôi lên khỏi đất, kéo tôi ra khỏi tôi.
Gợi Ý Chia Sẻ
Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu,
khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng
chúng con ít khi nghĩ đến những hại giống đã âm thầm chịu nát tan
để trao cho đời cây lúa trĩu hạt.
Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay
là do sự hy sinh quên mình của người đi trước,
của các nhà nghiên cứu, các người rao giảng,
của ông bà, cha mẹ, thầy cô,
của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc.
Đã có những con người sống như hạt lúa,
để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân.
Nhờ công ơn bao người, chúng con được làm hạt lúa.
Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ
để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình,
nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ.
Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày.
Để chọn tha nhân và Thiên Chúa,
chúng con phải chết cho chính mình.
Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua
đi từ cõi chết đến nguồn sống,
đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở
trước Đấng Tuyệt Đối và tha nhân. Amen.
2.Giờ được tôn vinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, S.J.
Suy Niệm
Trong Tin Mừng Gioan, khi cuộc Khổ nạn gần kề,
Đức Giêsu nói về bình an như quà tặng cho các môn đệ.
“Thầy để lại bình an cho các con,
Thầy ban bình an của Thầy cho các con” (Ga 14,27; 16,33).
Khi phục sinh và hiện ra cho các môn đệ đang đóng cửa,
Chúa Giêsu cũng ba lần chúc họ bình an (Ga 20,19.21.26).
Bình an thì ngược với xao xuyến,
nên Đức Giêsu cũng hay dặn các môn đệ:
“Lòng anh em đừng xao xuyến hay sợ hãi!” (Ga 14,1.27).
Những lời trấn an trên đây của Đức Giêsu
dễ khiến ta tưởng Ngài suốt đời chẳng một lần xao xuyến.
Thật ra, Tin Mừng Gioan kể Đức Giêsu xao xuyến ba lần.
Ngài xao xuyến trước cái chết của Ladarô (Ga,11,33).
Ngài xao xuyến khi nói về sự phản bội của Giuđa (Ga 13,21).
Và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài cũng xao xuyến
trước cái chết sắp đến của chính mình (Ga 12,27).
Ngài biết Giờ của Ngài đã đến (Ga 12,23).
Giờ Ngài được Cha tôn vinh
cũng là giờ Ngài được giương cao trên thập giá.
Đức Giêsu linh cảm về cái chết sắp đến của mình (Ga 12,33).
Điều đó khiến Ngài xao xuyến, đến nỗi không biết phải nói gì.
Nhưng Đức Giêsu trong Tin Mừng Gioan có sự khác biệt.
Ngài không xin Cha cất chén đắng để tránh cho mình cái chết.
Ngài tự đặt câu hỏi và tự trả lời:
“Con mà xin Cha cứu con khỏi Giờ này ư? Không đâu!
Bởi lẽ vì mục đích này mà Con đến với Giờ này” (Ga 12,27).
Đức Giêsu đã nhiều lần nói Giờ chưa đến (Ga 2,4; 7,30; 8,20).
Ngài mong Giờ ấy đến, và nay Giờ đã đến.
Xao xuyến và sợ hãi không làm Ngài thoái lui,
vì Ngài biết Cha là chủ của Giờ này.
Không để cái chết làm mình suy sụp, không để xao xuyến lấn át,
Đức Giêsu nhìn cuộc Khổ Nạn với cái nhìn lạc quan hy vọng.
Ngài ví mình như hạt lúa, rơi vào trong đất.
Cái chết của một hạt lúa là điều kiện để tạo ra muôn hạt khác.
Ngài chấp nhận cái chết và từ khước giữ sự toàn vẹn cho mình.
Hạt lúa giống sẽ biến đi để nhiều hạt khác xuất hiện.
Thật ra, cái chết không làm Ngài bị biến đi hay mất đi.
Trái lại, đó là cách Ngài giữ được mạng sống (Ga 12,24-25).
Ai coi thường mạng sống ở đời này, sẽ giữ được nó cho đời sau.
Đức Giêsu không coi cái chết là dấu chấm hết hay chấm than.
Ngài coi đó là cửa mở vào sự sống vĩnh cửu.
Đức Giêsu biết mình là Ánh sáng đến trong thế gian.
Khi Giờ đến, có lúc Ánh sáng ấy như mất đi (Ga 12,35-36; 9,4-5).
Satan thủ lãnh thế gian và bóng tối có vẻ thắng thế,
kỳ thực nó “không làm gì được Thầy” (Ga 14,30).
Hơn nữa, đã đến lúc nó “sắp bị tống ra ngoài” (Ga 12,31).
Cái chết nhục nhã trên thập giá là sự giương cao lên khỏi đất.
Cái chết này có sức hút mãnh liệt vì là cái chết của Ngôi Lời.
Cái chết của Con Một Thiên Chúa có sức nâng kỳ diệu,
kéo mọi người lên với Ngài chẳng trừ ai (Ga 12,32),
vì Ngài muốn những ai theo Ngài được ở bên Ngài mãi mãi.
“Thầy ở đâu, họ cũng ở đó” (Ga 12,26).
Cái chết của Đức Giêsu cho ta được ở bên Ngài trong nhà Cha.
Cuộc sống người kitô hữu không tránh khỏi những cái chết,
chết mỗi ngày như hạt lúa mục nát, nằm sâu trong đất.
Cuộc sống người kitô hữu không tránh khỏi bị xao xuyến,
khi đứng trước thế lực của bóng tối, của bạo quyền.
Nhưng Đức Giêsu cho chúng ta sự kiên định, bất khuất,
để luôn hy vọng và không bao giờ bỏ cuộc vì sợ hãi.
CẦU NGUYỆN
Lạy Chúa Giê su,
Trước khi con tìm Chúa, Chúa đã đi tìm con.
Trước khi con thấy Chúa, Chúa đã nhìn thấy con.
Trước khi con theo Chúa, Chúa đã đi theo con.
Trước khi con yêu Chúa, Chúa đã yêu mến con.
Trước khi con thuộc về Chúa, Chúa đã thuộc về con.
Trước khi con phụng sự Chúa, Chúa đã phục vụ con.
Trước khi con từ bỏ mình vì Chúa,
Chúa đã nộp mình vì con.
Trước khi con sống và chết cho Chúa,
Chúa đã sống và chết cho con.
Trước khi Chúa đòi con đặt Chúa lên trên hết,
Chúa đã coi con là hạnh phúc tuyệt vời của Chúa.
Lạy Chúa Giêsu là Thầy của con,
Chúa luôn đi trước con.
Chúa làm trước khi Chúa dạy.
Con hiểu rằng mọi điều Chúa đòi hỏi nơi con
chỉ vì hạnh phúc vĩnh cửu của con thôi.
Xin cho con đón nhận những cắt tỉa của Chúa
với lòng biết ơn và rất nhiều tình yêu. Amen.
3.Hạt lúa mục nát--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt
Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn lên những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến… Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: “Mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn… Làm sao mình có thể cho búp non xòe lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ… Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng với đời sống cây cỏ. Muốn có thóc lúa trong mùa gặt, ta phải ném hết lúa giống xuống ruộng trong mùa gieo. Muốn có rau xanh trong bữa ăn, ta phải đổ hết hạt giống xuống vườn. Cứ khư khư hạt giống trong kho, ta sẽ chẳng có rau, cũng chẳng có thóc. Hạt giống gieo xuống cứ nằm trơ trơ trên mặt đất sẽ chẳng ích lợi gì. Nó phải chịu vùi sâu trong lòng đất, hút lấy nước, tắm trong phân bón, mục nát đi thì mới mọc lên thành cây mới, sinh nhiều hoa quả.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này đúng đối với đời sống tự nhiên của con người. Mục nát ở đây có nghĩa là phải chịu vất vả khó nhọc. Người nông dân muốn có một mùa gặt bội thu, phải thức khuya dậy sớm, dầm mưa dãi nắng chăm chỉ cầy bừa. Người học sinh muốn đỗ đạt vinh quang, phải từ bỏ những giờ vui chơi với bạn bè, đêm đêm chong đèn miệt mài kinh sử.
Mục nát ở đây cũng có nghĩa là phải chịu đau đớn với những từ bỏ. Bào thai muốn phát triển thành một con người, phải từ bỏ lòng mẹ nơi nó được cưu mang an toàn. Em bé muốn nên người phải từ bỏ cha mẹ và những người thân để vào trường học tập. Học sinh muốn phát triển cao phải từ bỏ trường làng đầy kỷ niệm đẹp tuổi thơ để ra tỉnh, lên đại học. Thanh niên thiếu nữ đến tuổi trưởng thành cũng phải từ bỏ cha mẹ, từ bỏ mái ấm gia đình để sống tự lập trong đời sống tu trì hoặc trong đời sống hôn nhân. Đời sống con người là một chuỗi dài những từ bỏ. Từ bỏ nào cũng gây đớn đau. Nhưng chính nhờ những từ bỏ đau đớn ấy mà người ta lớn lên thành người. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà gia đình và xã hội luôn phát triển. Chính nhờ những từ bỏ ấy mà cuộc sống trở nên tươi đẹp, phong phú và ý nghĩa hơn.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Điều này tuyệt đối đúng với đời sống thiêng liêng. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình.
Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những con người. Những đồ vật, những nơi chốn lôi kéo ta phạm tội. Những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy như gắn chặt vào ta, như là một phần đời sống của ta. Dứt bỏ những con người ấy, những đồ vật ấy, những nơi chốn ấy khiến ta đau đớn như chết đi một phần đời mình. Đó là những mất mát to lớn. Nhưng nếu ta chấp nhận những “cái mất” hiện tại, ta sẽ có những “cái được” trong tương lại. Nếu ta dám chấp nhận những “cái mất” chóng qua, ta sẽ có những “cái được” vĩnh cửu.
Đời sống thiêng liêng hệ tại việc kết hợp với Chúa. Ta chỉ kết hợp trọn vẹn với Chúa khi ta từ bỏ ý riêng mình để làm theo ý Chúa. từ bỏ ý riêng nhiều khi là một cuộc chiến đấu khốc liệt với chính bản thân mình. Hãy nhìn Đức Giêsu trong vườn Giệt-si-ma-ni. Cuộc chiến đấu từ bỏ ý riêng để làm theo ý Chúa Cha khiến Người đau đớn đến đổ mồ hôi máu ra. Nhưng chính nhờ từ bỏ ý riêng mà ta trở nên con yêu dấu của Chúa. Chính nhờ làm theo ý Chúa mà ta trổ sinh hoa trái. Từ bỏ bản thân, ta đi đến đích điểm đời mình là được kết hiệp với Chúa. Bấy giờ ta có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Chúa sống trong tôi”. Ta chịu mất bản thân mình để được chính Chúa. Ta chịu mất điều tầm thường để được điều cao cả. Ta chịu mất trần gian để được thiên đàng.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng, chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên Chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm Vượt Qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước Đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen. (Manna 85).
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1- Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào nơi vĩnh cửu. Đối với bạn, sự từ bỏ nào khó hơn cả.
2- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống cây có?
3- Hạt giống phải mục nát mới trổ sinh bông hạt. Bạn hiểu điều này thế nào trong đời sống thiêng liêng?
4- Chúa Giêsu đã là hạt giống chịu mục nát đi. Bạn hiểu điều này thế nào?
4.Hạt lúa mì rơi xuống đất mà thối đi --TGM Giuse Nguyễn Năng
Suy niệm: Ðức Giêsu dù biết chắc sứ mệnh Thiên Chúa Cha muốn Ngài thực hiện là đi con đường Thập Giá, con đường đau khổ. Nhưng vì sống kiếp con người mỏng dòn, bản tính yếu đuối. Ðức Giêsu vẫn cảm thấy xao xuyến, bối rối khi chén đắng gần kề. Trong những giây phút đó, Ðức Giêsu đã không ngừng hướng nhìn lên Cha, cầu khẩn, phó thác mọi sự trong tay Cha.
Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, phải chăng cuộc đời chỉ có ý nghĩa, chỉ có giá trị khi con người biết sống quên mình, biết nghĩ đến tha nhân?
Vâng, nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không thối đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình. Nhưng nếu nó thối đi, sẽ sinh nhiều bông hoa. Ước gì cuộc đời chúng con là hạt lúa được chôn vùi - chôn vùi chính mình, để nẩy sinh nhiều bông hạt yêu thương cho Chúa, cho tha nhân. Amen.
Ghi nhớ: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt”.
5.“Huyền nhiệm sự sống”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên
Sự sống quanh ta thật huyền nhiệm. Từ con người đến muôn vật cỏ cây, mỗi loài mỗi kiểu, hết thảy đều mang trong mình sự sống. Nhờ sự sống mà muôn loài tăng trưởng và hoạt động. Tuy vậy, một điều xem ra là nghịch lý, đó là sự sống không dừng lại khi ta chết, nhưng lúc chết đi lại là lúc khởi đầu sự sống mới. Lời Chúa hôm nay muốn khẳng định với chúng ta điều ấy.
Mùa Chay cũng được gọi là Mùa Thương Khó, vì đây là thời điểm giúp chúng ta suy niệm cuộc khổ nạn và sự chết của Đức Giêsu. Chúng ta tôn vinh thập giá là phương tiện qua đó Đức Giêsu giới thiệu tình thương yêu vô bờ bến của Chúa Cha. Đức Giêsu đã hiến chính bản thân mình làm của lễ dâng lên Đức Chúa Cha, xin ơn tha tội cho loài người. Sự sống và hạnh phúc của con người được phát sinh và tuôn chảy từ cây thập giá, tức là từ sự chết của Chúa Giêsu. Ơn cứu độ dồi dào như mạch suối trào tuôn từ chính vết thương ở cạnh sườn của Người. Chính từ vết thương này phát sinh Giáo Hội và các Bí tích. Hai ngàn năm nay, Đấng chịu khổ hình trên thập giá đã lôi kéo biết bao người ra khỏi tối tăm để đến với ánh sáng, ra khỏi tội lỗi để đạt tới sự thánh thiện, ra khỏi hận thù để thực thi đức yêu thương.
Khi nói về hạt lúa mục nát, Chúa Giêsu muốn nói về cái chết của chính mình. Người không bị tiêu diệt do sự chết. Trái lại, như hạt lúa chấp nhận mục nát rồi nảy mầm kết trái, Người cũng sẽ trỗi dạy từ nấm mồ để ban sự sống cho con người. Giáo lý Công giáo dạy chúng ta: sự chết của Chúa Giêsu mang ơn cứu độ cho loài người. Người đã chết để chúng ta được sống. Người đã trở nên nô lệ để chúng ta được tự do. Người đã dùng cây thập giá để cứu độ trần gian, xóa bỏ bản án nguyên tội. Thập giá vừa nói với ta về tình yêu Thiên Chúa, vừa dạy ta biết sống vì người khác để đem niềm vui và hạnh phúc cho tha nhân.
Như thế, triết lý “hạt lúa mục nát” được đề nghị cho tất cả những ai muốn cất bước theo Đức Giêsu. Sự hy sinh này, nhìn theo lăng kính trần gian, lại là những nghịch lý:
– Sẵn sàng hy sinh mạng sống thì sẽ giữ được nó mãi mãi
– Khư khư giữ lấy nó, sẽ bị mất muôn đời.
– Vào giờ phút Chúa chịu khổ nạn và chết trên thập giá, cũng là lúc Người được tôn vinh.
– Khi thủ lãnh thế gian tưởng chừng như chiến thắng, chính là lúc nó bị đánh bại.
– Con Người bị treo trên thập giá, cô đơn đau khổ, lại có thể quy tụ muôn dân.
Nếu hạt lúa vẫn nằm yên bất động sau khi được gieo xuống thì niềm trông đợi của bác nông phu sẽ trở nên vô vọng. Nếu thân xác Đức Giêsu vẫn cứ tồn tại trong nấm mồ, thì nhân vật Giêsu sẽ chẳng còn gì để nói với chúng ta. Chính từ hạt lúa mục nát mà ta thấy sự sống mới; chính nhờ ngôi mộ trống mà chúng ta thấy niềm hy vọng.
Hạt-Lúa-Giêsu đã mục nát để phục sinh và đâm bông kết trái. Hạt lúa ấy đã trở nên bánh ăn để nuôi dưỡng chúng ta.
Hình ảnh hạt lúa mì cũng chứa đựng giáo huấn của Chúa Giêsu về định mệnh con người. Thiên Chúa dựng nên con người để cho họ được sống và được hạnh phúc, chứ không phải để chấm dứt với nấm mộ cô đơn lạnh lẽo nơi đồng hoang. Dưới nhãn quan của người Kitô hữu, sự chết là một cửa ngõ để họ bước vào đời sau. Đó là lý do tại sao người Kitô hữu đặt cây thập giá trên mỗi nấm mồ của người thân. Tuy vậy, hạnh phúc vĩnh cửu chỉ dành cho người công chính, tức là những ai mến Chúa yêu người.
Không phải đợi đến khi chết mới được hưởng hạnh phúc Chúa ban. Lời Chúa hôm nay như một lời hứa phục hồi ngay ngày hôm nay, trong cuộc sống hiện tại. Ý tưởng này được diễn tả trong bài đọc trích sách ngôn sứ Giêrêmia: “Mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Ta, vì Ta sẽ tha tội ác của chúng, và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng”. Đây là những lời an ủi của Chúa đối với dân Do Thái trong bối cảnh gian nan và tuyệt vọng. Chúa hứa với họ sẽ giúp họ hồi sinh. Mặc dù trong bối cảnh tăm tối, Chúa sẽ ban cho họ một tương lai sán lạn huy hoàng.
Thời đại huy hoàng mà Chúa đã hứa qua lời ngôn sứ Giêrêmia đã được thực hiện khi Chúa giải phóng dân Người khỏi cảnh lưu đày. Nhưng đặc biệt hơn nữa, thời đại huy hoàng ấy, Thiên Chúa đã thực hiện trong Đức Giêsu Kitô, qua cái chết và sự phục sinh của Người. Tác giả thư Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Người” (Bài đọc II).
Huyền nhiệm sự sống mời gọi chúng ta nhận ra Đức Giêsu là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Huyền nhiệm ấy cũng nhắc nhớ chúng ta, hãy biến đổi mỗi ngày trong hành trình phụng sự Chúa, để sự sống siêu nhiên lớn dần trong cuộc đời trần gian. Để được như thế, con người cũ phải chấp nhận chết đi. Đó chính là thông điệp của giáo huấn qua hình ảnh hạt lúa mì.
6.Xin tôn vinh danh Cha--GM. Phêrô Kiều Công Tùng
Trước khi bước vào Tuần Thánh, Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay Giáo Hội lập lại nguyện ước của những người Hy Lạp ngày xưa: “Chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” để nhắc nhở chúng ta đâu là đích đến của chặng đường Mùa Chay mà chúng ta đang trải qua.
Những người Hy Lạp tìm gặp Đức Giêsu chắc không phải chỉ để chiêm ngưỡng Người mà thôi, vì như thế họ đâu cần đến Philípphê làm người môi giới. Rõ ràng là họ còn muốn đi xa hơn việc nhìn ngắm, họ muốn được gặp gỡ và trò chuyện với Chúa. Có thể nói, họ đang ở trên một hành trình Đức Tin. Diễn từ của Đức Giêsu ngay sau đó về “cái mất” và “cái được” như muốn dẫn họ đi xa hơn trong cuộc hành trình: “Hạt lúa gieo vào lòng đất... nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12, 24-25). Chân lý xem ra nghịch lý ấy đã được minh chứng bằng chính cuộc đời Đức Giêsu, Hạt Giống đem lại Mùa Cứu Độ.
Trong những câu kế tiếp, thánh Gioan như muốn đặt các yếu tố của cả hai sự kiện Chúa hấp hối và Chúa Hiển Dung của Phúc Âm Nhất Lãm trong cùng một trình thuật. Những lời của Chúa Giêsu “Bây giờ, linh hồn Thầy xao xuyến... Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12, 27) như đang làm vang lên những lời Người nói với môn đệ và cầu xin cùng Chúa Cha trong Vườn Cây Dầu. Tiếng vọng từ trời “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa” (Ga 12, 28) không còn là lời giới thiệu của Chúa Cha trên đỉnh Ta-bo mà đã trở thành lời chuẩn nhận cho sự dâng hiến tuyệt vời của Người Con, lời tôn vinh “Hạt Lúa” đã chấp nhận chết đi. Ở giữa những yếu tố đó, Thánh Gioan còn khéo léo xen vào một lời nguyện với tâm tình phó thác: “Chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”.
Tác giả A. Marchadour nhận xét: những lời ấy vang lên như “một bản tóm lược Kinh Lạy Cha” vậy. Lời kinh được dâng lên với một thái độ vâng phục hoàn toàn, thái độ đã làm nên ý nghĩa cho cái chết của Đức Giêsu, như lời thư gửi tín hữu Do Thái: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5, 8–9).
Rõ ràng tiến trình từ khi “hạt giống” được gieo xuống cho đến khi đem lại mùa màng, hay từ khi là “hạt bụi” cho đến lúc trở thành “cát bụi tuyệt vời” phải trải qua rất nhiều hy sinh, từ bỏ và cả chết đi nữa. Chính Đức Giêsu khi ở trong hoàn cảnh ấy đã phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy xao xuyến!” Và Người cũng chỉ cho chúng ta rằng tỉnh thức và kiên trì cầu nguyện lúc này thật cần thiết. Việc kết hợp cùng Thiên Chúa trong kinh nguyện sẽ đem lại cho người ta một sức mạnh phi thường lướt thắng những nỗi sợ bị thua thiệt mất mát. Kinh Lạy Cha mà Đức Giêsu dạy chính là bảo bối cho người Kitô hữu, là nhịp cầu giữa “mất” và “được”, giữa “xao xuyến” và “tôn vinh”.
Qua bài diễn từ, Chúa Giêsu như muốn nói với những người Hy Lạp và với cả chúng ta hôm nay rằng muốn gặp Người, ta phải hướng mắt nhìn lên Đấng được tôn vinh khi đã chấp nhận chết đi. Điều này có nghĩa là mọi cái nhìn về Đức Giêsu khi Người chưa được tôn vinh đều là không đầy đủ, nếu không nói là ảo tưởng. Ý nghĩa cuộc đời trần thế của ta cũng được soi sáng từ đó: chính bằng cách mở lòng ra với Lời Chúa và những đòi hỏi quyết liệt của Người, vượt thắng khuynh hướng vị kỷ muốn giữ lại tất cả cho bản thân, mà người ta mới có thể tiến đến gần Thiên Chúa, sau khi đã nỗ lực để Danh Cha được tôn vinh bằng một cuộc sống hoàn toàn vâng phục theo Thánh Ý Cha.
Dù muốn hay không thì cuộc sống một đời người luôn gặp những điều trái ý, khó khăn, nghịch cảnh. Có người đã nhìn khá bi quan về cuộc sống ấy như là “chốn bể dâu” hay “nơi khổ ải”. Còn Thánh Phaolô lại tuyên bố: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ” (2Cr 6, 2). Phải chăng ông đã học được cái nhìn lạc quan từ lời kinh của Đức Giêsu: “Chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Chớ gì mỗi Kitô hữu chúng ta, những môn đệ đang lần bước đi theo Thầy Giêsu trên hành trình Đức Tin cũng có những lời “Kinh Lạy Cha biến cách” cho riêng mình.
7.Bây giờ tâm hồn Ta xao xuyến--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm
Đức Giêsu là một người hoàn toàn như tất cả mọi người. Trong cuộc sống trần thế, Ngài cũng sợ hãi, bồi hồi xao xuyến, khóc lóc cầu xin Thiên Chúa giải phóng Ngài khỏi chết. Tuy nhiên, Đức Giêsu là Con Thiên Chúa; nơi Ngài, con người nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương con người vô cùng.
I. Tâm hồn Ta bồi hồi xao xuyến
Đức Giêsu biết những gì đang chờ đợi Ngài. Cái chết đang đến gần khi Ngài quyết định lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua. Là người Do Thái, theo luật phải lên Yêrusalem dự lễ Vượt Qua; nhưng nếu lên, chắc sẽ chết vì những người lãnh đạo tôn giáo đang ghét, nên sẽ giết Ngài. Đức Giêsu phải chọn lựa. Các tông đồ cũng ý thức điều này. Theo các ông thì không nên lên Yêrusalem dịp này: “Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?” (Ga. 11,8). Nhưng nếu Thầy quyết định đi, thì các tông đồ cư xử làm sao? Thomas khuyến khích các bạn: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga. 11,16). Có những người trong chúng ta có kinh nghiệm chọn lựa trong những tình huống tương tự, và đã chọn điều phải chọn cho dù nguy hiểm đến cả tính mạng.
Một vài người Hylạp gốc Do Thái về dự lễ muốn gặp Đức Giêsu. Họ cậy nhờ Philíp để được gặp Đức Giêsu. Philíp đã nói với Anrê; và cả hai đã đến nói với Đức Giêsu. Trong hoàn cảnh bình thường, có lẽ cứ dẫn họ đến gặp Đức Giêsu, tuy nhiên trong hoàn cảnh này, hai môn đệ ý thức cần phải hỏi ý kiến Đức Giêsu, vì có thể có những hậu quả xấu không lường được. “Giờ đã đến”. Giờ mà làm Đức Giêsu lo sợ, bối rối xao xuyến. Đồng ý cho họ gặp, là dường như “chọn chấp nhận cái chết”. Có nên xuất hiện như Đấng người ta chờ đợi không? Có nên cho họ gặp không? Đức Giêsu đã chấp nhận cái chết. Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không chết đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì sẽ sinh nhiều bông hạt” (Ga. 12, 24). Ngài chọn điều sinh lợi cho nhiều người, cho dù phải chết.
Ông già Aleazar không muốn giả bộ ăn thịt heo để khỏi chết, vì nếu sống mà làm gương xấu thì sống làm gì (2Mac. 6, 18-31)? Yoan Tẩy Giả phản đối Hêrôđê khi ông lấy vợ của anh; dĩ nhiên khi phản đối những người có quyền hành như vậy, ông biết điều gì có thể xảy tới cho mình; tuy vậy, ông đã phản đối Hêrôđê. Yoan Tẩy Giả đã chọn nói điều phải nói, cho dù phải chết. Hôm nay Đức Giêsu cũng đã chọn lựa điều tương tự. Đứng trước chọn lựa này, Đức Giêsu bồi hồi xao xuyến như bao người khác.
II. Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc
Đức Giêsu là người như mọi người. Ngài đã làm nghề để kiếm sống, nuôi mình và nuôi mẹ. Ngài cũng bị cái đói hành hạ như bất cứ ai bị đói (Mt. 21, 18). Ngài bị đói khủng khiếp đến độ muốn biến đá thành bánh. Chỉ khi bị đói cùng cực, người ta mới bị cám dỗ mơ tưởng như vậy. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ “nổi tiếng”, vì vậy cám dỗ nhẩy từ trên đỉnh đền thờ đã đến trong đầu Đức Giêsu. Đức Giêsu cũng bị cám dỗ có quyền hành để bắt mọi sự phải theo ý mình. Chỉ satan mới có cách hành xử không tôn trọng tự do của con người; còn Thiên Chúa, Ngài luôn tôn trọng tự do của con người, ngay cả khi con người dùng tự do để chống đối Ngài.
Đức Giêsu đã phải chọn lựa liên lỉ trong cuộc sống. Ngài đã chống lại cám dỗ, trong hoang địa (Mt. 4, 1-11) và trong cuộc sống thường ngày, cả qua những người theo Ngài (Mt.16, 22-23; Ga.11, 8). Ngài cũng sợ toát mồ hôi, và sợ đến độ toát mồ hôi máu: “Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc. 22,44). Thư gởi tín hữu Do Thái nói Đức Giêsu không chỉ sợ toát mồ hôi máu, mà còn khóc lóc rơi lệ cầu xin Thiên Chúa cứu Ngài khỏi chết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết” (Dt. 5,7).
Đức Giêsu thật sự là người như mỗi người chúng ta. Không có cám dỗ nào con người bị mà Ngài không bị. Không có ai bị cám dỗ mãnh liệt như Ngài. Ngài cũng học vâng phục, và chấp nhận vâng phục ngay cả phải chết. Ngài bị cám dỗ cả về đức tin: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc. 15,34). Khi bị cám dỗ về đức tin, Ngài đã phó thác cho Thiên Chúa tương lai và vận mạng của Ngài. Đức Giêsu gần và giống mỗi người hơn người ta tưởng.
III. Ta viết luật của Ta trong tim chúng
Thiên Chúa đã ký giao ước với con người, để bảo vệ con người. Qua dấu chỉ cầu vồng, Thiên Chúa giao ước với Noe và tất cả tạo vật, để không bao giờ dùng lụt hồng thủy tiêu diệt con người nữa; qua thập giới tại núi Sinai, Thiên Chúa giao ước với dân Do Thái, để làm dân Do Thái thành dân tư tế, thành dân riêng của Thiên Chúa. Thiên Chúa loan báo qua tiên tri Giêrêmia, Ngài sẽ ký kết với dân một giao ước mới, và Ngài sẽ khắc ghi luật Ngài trong tim con người, để không ai phải dạy ai về Thiên Chúa nữa. Đức Giêsu chính là giao ước mới: “Rồi cùng một thể thức ấy, Ngài cầm lấy chén đầy rượu, tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: tất cả các con cầm lấy mà uống, này là chén máu Thầy, máu giao ước mới, sẽ đổ ra cho các con và nhiều người được tha tội”.
Qua Đức Giêsu, Thiên Chúa giao ước ở với và yêu thương con người mãi mãi. Đức Giêsu vừa là dấu chỉ giao ước, vừa là diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người, vừa là bảo đảm Thánh Thần hiện diện nơi con người. “Anh em không biết anh em là đền thờ của Thiên Chúa, và Thánh Thần Thiên Chúa ngự trong anh em sao” (1Cor.3, 16)? Thánh Thần Tình Yêu đang ngự trong tâm hồn, trong tim mỗi người.
Nhờ Đức Giêsu và Thánh Thần, con người nhận ra Thiên Chúa là tình yêu. Con người được gọi để sống yêu thương. Chính khi yêu thương, con người trở nên giống Thiên Chúa, và được chia sẻ hạnh phúc với Thiên Chúa, cho dù người đó ở bất cứ đâu. Chính khi yêu thương, con người gặp gỡ Thiên Chúa, và cảm nghiệm hạnh phúc. Đây là điều có vẻ mâu thuẫn, nhưng đó là sự thật, và được biểu lộ qua cái chết của các anh hùng tử đạo và cái chết của Đức Giêsu.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Theo bạn, Đức Giêsu giống bạn ở điểm nào, và khác bạn ở điểm nào?
2. Bạn có cảm nghiệm Thiên Chúa ở với bạn không? Nếu được xin chia sẻ.
8.Vinh quang nơi Thập Giá--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm
A. DẪN NHẬP.
Con người có nhu cầu cần phải yêu và được yêu, chỉ trừ khi chết mới hết yêu. Sống mà được yêu thương là hạnh phúc. Con người mà được Thiên Chúa yêu thương thì còn hạnh phúc nào bằng. Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và loài người là một giao ước tình yêu, nhưng nhiều lần loài người đã phá vỡ giao ước ấy, nghĩa là chối bỏ, không chấp nhận tình yêu ấy nữa. Nhưng Thiên Chúa vẫn không nản lòng, Ngài đã nhờ các tiên tri loan báo cho loài người biết là Ngài sẽ ký kết một giao ước mới và vĩnh cửu. Và để cho ai nấy được rõ, Ngài đã muốn giao ước được ký trong máu Con của Ngài đổ ra trên thập giá. Chính Đức Giêsu đã nói:”Không có tình yêu nào lớn hơn mối tình của kẻ chết vì người mình yêu”. Ngài đã chết cho chúng ta. Giờ khổ nạn của Chúa là giờ của tình yêu mà Ngài đã loan báo trước, đồng thời cũng là giờ Ngài được tôn vinh.
Phụng vụ hôm nay nhắc cho chúng ta phải thi hành giao ước tình yêu mà Chúa đã ký kết với chúng ta trong máu Con của Ngài trên thập giá. Đáp lại tình yêu cao vời ấy, chúng ta hãy đón nhận “giờ” của Chúa là giờ của ta chúng ta, nghĩa là chúng ta sẵn sàng đón nhận những gian nan thử thách, thi hành thánh ý Chúa, chu toàn giữ lề luật Chúa như lời Chúa nói qua miệng tiên tri:”Ta sẽ đặt lề luật Ta trong lòng chúng, Ta sẽ ghi khắc luật đó vào trái tim chúng”.
B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.
+ Bài đọc 1: Gr 31,31-34.
Khi dân Do thái thoát ách nô lệ của Ai cập, Thiên Chúa đã ký kết với dân một Giao ước ở chân núi Sinai, qua trung gian ông Maisen. Theo đó, Thiên Chúa sẽ là Chúa của họ và bảo vệ họ, còn họ là dân riêng của Ngài, họ phải trung thành phụng sự Ngài là Chúa tể duy nhất. Giao ước đó đã được khắc lên hai bia đá.
Nhưng qua thời gian, dân Chúa đã phản bội Ngài, phá bỏ Giao ước đã ký kết, và kết quả là họ bị quân địch đến tàn phá đất nước, dân chúng phải đi lưu đầy ở Babylon.
Tuy thế, Tiên tri Giêrêmia loan báo cho họ biết Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới với dân Ngài. Giao ước đó sẽ không còn ghi trên bia đá nữa, mà khắc ghi ngay trong lòng họ. Giao ước này là giao ước tình yêu. Để cho ai nấy được rõ, Ngài đã muốn cho giao ước này được ký kết trong máu của Con Ngài đổ ra trên thập giá. Giao ước mới và vĩnh cửu này nói lên tình thương lớn lao và sự tha thứ không bờ bến của Ngài:”Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lầm lỗi của chúng nữa”(Gr 31,34).
+ Bài đọc 2: Dt 5,7-9.
Đức Giêsu Kitô với thân phận làm người đã hoàn toàn tuân phục thánh ý Chúa Cha, Ngài đã sẵn lòng chịu đau khổ đến mức tận cùng để cứu chuộc loài người bằng chính máu mình đổ ra trên thập giá. Tác giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là “căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
+ Bài Tin mừng: Ga 12,20-33.
Nhân cơ hội có sự hiện diện của mấy người ngoại giáo gốc Hy lạp muốn gặp Đức Giêsu để tìm hiểu về Ngài, hoặc muốn trình bầy điều gì đó, nhân dịp này Ngài nói với họ về“Giờ của Ngài”. Giờ của Ngài tức là lúc Ngài bị treo trên thập giá, giờ mà Ngài được tôn vinh.
Nói theo ngôn ngữ người đời thì đó là một điều nghịch lý, nhưng với cái nhìn đức tin, thì đó lại là một niềm vinh dự vì qua cái nhục trong một thời gian vắn, một cái nhục vô lý, Đức Giêsu sẽ chiến thắng vẻ vang nhờ cuộc phục sinh của Ngài, cũng như hạt lúa gieo vào lòng đất phải chết đi mới sinh được nhiều hạt khác:”Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Ta”(Ga 12,33).
C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.
Vinh quang trong khổ nhục
I. ĐỨC GIÊSU ĐƯỢC TÔN VINH.
Đức Giêsu nói:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”(Ga 12,22). Ngài được tôn vinh như thế nào? Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng sự giầu sang, danh vọng, quyền thế, vinh quang thế gian, Ngài được tôn vinh chính lúc bị treo trên thập giá vì Ngài đã vâng theo thánh ý Cha Ngài, Ngài chiến thắng vẻ vang trong khổ nhục.
1. Giờ của Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã cầu nguyện cùng Cha:”Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đến”. Giờ này là giờ nào? Phải chăng là lúc ký giao ước mới trong máu của Ngài đổ ra trên thập giá? Đúng như vậy!
Lịch sử cứu độ qua các mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và nhân loại, ta thấy có nhiều giao ước đã được thay đổi: Từ giao ước Adong (St 3,15), với Noe (St 9,1-17), với Abraham (St 17,1-27) đến lời hứa giao ước mới mà Thiên Chúa dùng tiên tri Giêrêmia loan báo (Gr 31,31-34): tất cả những lời giao ước đó đều thấy thực hiện viên mãn trong GIỜ của Đức Giêsu. Giao ước mới quả đã thực hiện lời Thiên Chúa hứa với nguyên tổ (St 315) đem lại chiến thắng cho con người, và tái lập tương quan mật thiết giữa Thiên Chúa và loài người.
Đức Giêsu nói:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Những lần khác, Đức Giêsu nhắc đến “Giờ chưa đến”(Ga 2,4; 7,30; 8,20), nhưng ở đây Ngài lại nói đến “Giờ đã đến”. Vậy “Giờ” ở đây không phải là giờ vinh quang cho bằng là “Giờ hiến tế” đem lại vinh quang cho Ngài: Giờ vinh quang của Con Người là giờ tử nạn và phục sinh của Ngài.
2. Sự vâng phục của Đức Giêsu.
Khi chấp nhận mục nát như hạt giống gieo vào lòng đất với cuộc Vượt Qua trên thập giá, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn mầu nhiệm tự hủy nơi bản thân mình. Mầu nhiệm này đã bắt đầu bằng việc Nhập Thể và kéo dài trong suốt cuộc sống của Ngài. Sự tự hủy này trước hết, hệ tại ở sự vâng phục hoàn toàn của Đức Giêsu trước thánh ý của Chúa Cha. Tâm tình tuân phục đó của Đức Giêsu cũng được tỏ lộ cách cụ thể qua lời Ngài thưa với Chúa Cha, mà chúng ta vừa nghe trong bài Tin mừng hôm nay:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này. Nhưng chính vì thế mà Con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin làm vinh danh Cha”
Mặc dù luôn đặt ý Cha trên hết mọi sự, nhưng trong bản tính của một con người, đứng trước con đường thập giá, Đức Giêsu cũng không khỏi sợ hãi, xao xuyến, ngần ngại. Ngài sợ hãi vì trước mắt, thập giá chính là “một điều điên rồ đối với dân ngoại, là cớ vấp phạm cho người Do thái”(1 Cr 1,23). Vì thế, khi biết rằng sắp đến “giờ” của Ngài, Đức Giêsu đã phải thốt lên:”Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Lắng nghe lời tâm sự tha thiết tự đáy lòng của Đức Giêsu, chúng ta thấy rằng: sống vâng phục không phải là một điều dễ dàng. Sự vâng phục này đòi hỏi Đức Giêsu một sự cố gắng, kiên trì để vượt qua bản thân, sẵn sàng đón nhận các biến cố vui buồn Thiên Chúa gửi đến từng ngày trong cuộc sống; hay nói cách khác, Đức Giêsu cũng đã phải học để có thể sống vâng phục, như lời tác giả thư Do thái viết:”Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài (Đức Giêsu) đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu”. Thế nhưng, chính nhờ sự vâng phục trọn vẹn đó mà Đức Giêsu khi hoàn tất”Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
3. Đức Giêsu chấp nhận thập giá.
Với tư cách là con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng cảm thấy sợ hãi trước đau khổ. Trong vuờn Cây Dầu Ngài cũng đã xao xuyến (x. Mt 26,38) và phải kêu xin cùng Cha:”Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho Con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha”(Mt 26.39). Theo tính tự nhiên, Đức Giêsu muốn trốn tránh sự đau khổ, nhưng Ngài lại muốn tuân theo thánh ý Cha để cho Cha định liệu. Và ý của Chúa Cha là muốn cho Con Ngài chịu chết trên thập gia để cứu chuộc nhân loại.
Bài Tin mừng hôm nay cho ta thấy rõ quan niệm của Chúa đối với đau khổ, đối với mọi thánh giá trên đời.
Đức Giêsu dùng cây thánh giá như bậc thang tới vinh quang “Per Crucem ad lucem”. Quan niệm đó mới nhìn qua là một nghịch lý, song Ngài đã giải thích bằng một dụ ngôn vắn tắt và đầy ý nghĩa: dụ ngôn hạt giống:”Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất, mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thôi đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất và ai ghét mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga 12,24).
Cây thánh giá còn là phương tiện chinh phục. Ngài cho biết, Ngài được giương lên cao thì cũng sẽ có nhiều người cùng được lên cao với Ngài:”Phần Ta, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên với Ta”(Ga 12,32). Lịch sử đã chứng minh cho lời Chúa. Biết bao người đã tin theo Ngài vì cái chết đau thương đầy tình thương xót của Ngài. Biết bao người đã bỏ tất cả và cảm mến tấm lòng thương xót của Ngài. Thập giá Chúa đã in sâu vào trong lòng người ta.
Truyện: Ông đóng khố cởi trần.
Người ta kể rằng: Tin mừng Chúa được gieo rắc tại Nhật bản từ hồi thế kỷ 16 do các vị thừa sai ngoại quốc đem đến. Giáo hội Nhật tuy còn non trẻ mà đã bị cấm cách giết hại. Các vị thừa sai, vị thì bị giết, vị thì phải trục xuất, không còn một vị thừa sai nào ở lại để tiếp tục dạy giáo lý, củng cố đức tin cho họ. Ai cũng tưởng rằng Giáo hội Nhật bản đã bị xoá sổ vì suốt trong ba trăm năm không còn ai đến dạy dỗ họ. Nhưng không ngờ, khi các nhà thừa sai được phép truyền giáo lại ở Nhật, có người xưng mình là Kitô hữu. Khi được hỏi về giáo lý thì họ mù tịt, chẳng hiểu biết gì. Nhưng khi được hỏi là họ thờ ai, thì họ đã mạnh dạn thưa:”Thờ ông đóng khố cởi trần trên thập giá”!
II. CHÚNG TA SẼ ĐƯỢC TÔN VINH.
Những người theo Đức Kitô sẽ được tôn vinh, nhưng muốn được tôn vinh thì cũng phải có điều kiện, phải nói được như thánh Phaolô: vinh quang của ta là thánh giá Đức Kitô. Chúng ta sẽ tìm được vinh quang trong sự tự hủy, trong việc cho đi và chấp nhận thánh giá trong đời.
1. Sống theo con đường tự hủy.
Thánh Phaolô đã vinh tụng Đức Giêsu trong bài thánh ca:”Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Ngài lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chất trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).
Đức Giêsu đã tự chọn lấy cái chết để chiếm lấy sự sống. Mới nghe thì ai cũng cho là phi lý vì chết và sống trái ngược nhau, làm sao có thể dung hòa được, nhưng chết và sống không hẳn là hai điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống có thể sống được là nhờ sự chết. Ta có thể đưa ra vài ví dụ:
- Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới trở thành chất bổ dưỡng cho cây.
- Nơi sinh vật: các thức ăn phải “tiêu” mới “hoá” thành lương thực.
- Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa mầu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
- Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.
Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta.
(Carôlô, Sợi chỉ đỏ, năm B, tr 165)
Theo như Flor McCarthy thì “Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,
- mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.
- mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.
- mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi.
- mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh.
Nói một cách cụ thể để áp dụng vào cuộc sống, chúng ta thử đưa ra vài trường hợp cho việc tự hủy, tức là bỏ ý riêng của mình đi để theo ý Chúa:
- Giả sử cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự trợ giúp ở bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều ấy. Như vậy “bắt ý riêng chết đi” có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
- Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế “chết cho ý riêng”có nghĩa là nhìn nhận vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
- Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người ấy. Thì “Chết cho ý riêng mình” có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và lại tiếp tục dùng tình thương cử xử với y. Không ai nói rằng: Chết cho ý riêng mình là điều dễ dàng.
(M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 97
2. Sống là phải biết cho đi.
Với con đường tự hủy, Đức Giêsu đã chứng minh một chân lý xem ra có vẻ nghịch lý:”Cho là nhận” và “Chết là con đường đưa tới sự sống”. Thật vậy, với kinh nghiệm thường ngày, chúng ta cũng có thể nhận ra điều này. Mỗi khi chúng ta mở bàn tay để cho là lúc chúng ta có thể nhận được, và sẽ trở nên phong phú. Còn nếu chúng ta cứ nắm bàn tay lại để giữ cho chính mình, thì cũng đồng thời, chúng ta không có thể đón nhận được bất cứ điều gì. Như thế chúng ta sẽ trở nên nghèo nàn và cô đơn.
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hoá khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giầu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có là phải cho ra hay cho đi.
Cảm nghiệm sâu sắc chân lý từ mầu nhiệm tự hủy của Đức Giêsu, thánh Phanxicô Assisi, trong lời kinh Hoà bình, đã ca lên:”Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời”.
Truyện: Thánh Maximilien Kolbe.
Cha Maximilien Kolbe làm gương cho chúng ta về cung cách sống của người môn đệ Chúa: Một buổi sáng cuối tháng 7 năm 1941 tại trại tập trung Oswiccim của Đức quốc xã, có một người vượt ngục, 10 người khác bị xử thay vào. Các nạn nhân run rẩy bước ra, đứng không vững, khiếp đảm, không dám kêu la, trừ một người kêu ré lên “Ôi vợ và các con tôi”.
Hàng trăm dẫy tù nhân xếp hàng dài im thin thít, hú hồn vì chưa phải tên mình, không một ai dám cựa quậy. Bỗng từ dẫy tù nhân bên trái, một người gầy guộc rời hàng bước về phía viên trại trưởng. Mọi người nín thở: chuyện chưa từng có! Viên trưởng trại đặt tay lên súng:
- Anh muốn gì?
- Tôi muốn chết thay một người trong bọn họ.
Viên trưởng trại sửng sốt. Y tưởng mình nghe lầm. Nhưng không, người kia thực sự xin được chết thay cho kẻ có vợ và các con đang đợi ở nhà. Sau mấy câu gượng gạo, viên trưởng trại nhượng bộ, chấp nhận lời yêu cầu. Kẻ tình nguyện đo chính là Maximilien Kolbe, một Linh mục công giáo. Cha đã được Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II phong thánh ngày 10.10.1982.
3. Chấp nhận thánh giá trong đời.
Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau. Bài Tin mừng hôm nay giúp chúng ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết:”Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Và Ngài cho biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh. Hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh:”Thầy bảo thật anh em, nếu hạt giống gieo xuống đất... “Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác:”Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của một cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có thể chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Do đó, chết là điều kiện tất yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Người ta nói không sai:
Có khó mới có miếng ăn,
Không dưng ai bỗng đem phần chia cho.
(Ca dao)
Trong Kinh thánh có rất nhiều câu nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó có vài câu chúng ta thường nghe như:
“Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng,
Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6).
hoặc:
“Nếu ta cùng chết với Ngài, nếu chúng ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
Truyện: Thập giá chỉ đường.
Phi trường quốc tế Pensylvania là một trong những sân bay lớn nhất, hiện đại nhất trong các sân bay của Hoa kỳ. Cách sân bay chỉ khoảng cây số có một ngôi thánh đường nằm đúng vào hướng bay cuối một trong những phi đạo nhộn nhịp đón nhiều chuyến bay nhất.
Sợ tháp chuông có thể gây nguy hiểm cho các máy bay mỗi lần đáp xuống phi đạo, toàn thể giáo dân ở đây đã đồng lòng quyết định sẽ đặt trên đỉûnh tháp chuông một bóng đèn nê-ông lớn bằng hình cây thánh giá. Từ đó, mỗi lần chuẩn bị đáp xuống phi đạo vào ban đêm, các phi công đều dựa vào ánh sáng tỏa ra từ cây thánh giá như thể đó là một ngọn hải đăng chỉ đường cho các con tầu cập bến an toàn.
“Lạy Chúa Giêsu, Thánh giá Chúa là một mầu nhiệm mà lý trí chúng con khó hiểu, và đứng trước mầu nhiệm này, tình cảm chúng con hoảng sợ và khước từ. Xin Chúa ban ánh sáng soi dẫn ý nghĩa cho chúng con. Xin ban cho chúng con nghị lực chấp nhận nó với tất cả những đòi hỏi của nó. Xin ban cho chúng con vui sống mầu nhiệm ấy với Chúa, ngõ hầu Nước Cha trị đến trong chúng con và khắp trần gian đến muôn thuở muôn đời”. Amen.
9.Cố gắng thi hành tình yêu Đức Kitô--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái
Một đêm giông bão gió thổi mọi hướng, mưa rơi như thác đổ. Một người đàn ông đứng tuổi, cùng bà vợ ghé tới một bàn giấy một khách sạn nhỏ ở Philadephia. Như biện hộ cho mình, ông ta hỏi: “Xin anh làm ơn cho chúng tôi một phòng? Mọi khách sạn lớn đều hết phòng rồi”.
- Thưa ông tất cả các phòng đã có người thuê. Người thư ký trả lời – Nhưng tôi không nỡ để ông bà đi mưa vào lúc một giờ sáng.
- Anh nói chi?
- Ông bà có thể ngủ tại phòng tôi .
- Nhưng anh ngủ ở đâu? Ông khách hỏi.
- Ôi, tôi sẽ tìm được - Người thư ký trả lời, đứng lo lắng về tôi.
Sáng hôm sau khi ông khách trả tiền phòng, ông nói với người thanh niên đã dành phòng cho ông khách: “Anh là một người quản lý có khả năng làm chủ một khách sạn lớn nhất Hoa Kỳ. Có thể một ngày nào đó tôi sẽ xây một cái cho anh.
Hai năm sau, người thư ký trẻ nhận được một bức thư có kèm một vé khứ hồi đi Newyork và một danh thiếp của người khách trong đêm giông bão khi xưa, mời người thư ký đến gặp ông tại thành phố lớn Newyork. Người khách năm xưa dẫn người thư ký đến góc phố giữa đại lộ số 5 và đường phố số 34. Chỉ ngôi nhà lầu cao, mới, ông nói: “Đây là khách sạn tôi đã xây để anh quan lý”. Không nói nên lời, người thanh niên Gheorge C. Boldt, ấp úng câu cám ơn. Mạnh thường quân của anh là ông William Waldorf Astoria. Khách sạn này là khách sạn chu đáo nhất thời đó, mang tên Waldorf Astoria.
Đây là một bằng chứng cảm động về điều mà Đức Giêsu nói với chúng ta trong bài Tin Mừng hôm nay: “... Hạt giống chết đi, nó sẽ sinh nhiều hoa trái”. Gheorge Boldt chôn vùi tiện nghi, ấm cúng bằng cách nhường căn phòng của anh. Sự hy sinh đó đã nẩy mầm và đem lại phần thưởng. Gheorge Boldt được quản lý một khách sạn nổi tiếng nhất thế giới.
Một hạt giống phải chết trước khi có thể sinh hoa trái, điều đó cũng đúng trên bình diện thiêng liêng. Chúng ta, những người tin theo Chúa Giêsu biết rằng: mọi cố gắng hy sinh, thống hối, từ bỏ tiện nghi sẽ sinh hoa trái, nhất là khi những cố gắng ấy được thi hành vì tình yêu đức Kitô vì tình yêu bác ái đối với đồng loại như trường hợp trong câu chuyện hôm nay.
Chúa Giêsu đã chuẩn bị những kẻ tin theo Ngài bằng lễ hy sinh tối cao. Người n để thân mình bị nát tan trong khổ nạn và chết trên thập giá, bị chôn vùi trong mồ. Để rồi đem lại vinh quang và hoa trái phục sinh. Sự chết, sự mai táng và sự phục sinh ấy chúng ta lập lại trên bàn thờ đây, trong giờ này.
Mùa chay còn lại hai tuần nữa, chưa quá muộn để chúng ta tự “chôn vùi” mình, từ bỏ vì đức Kitô và vì anh chị em trong đức Kitô.
Bạn hãy khám phá lời của đức Kitô trong Tin Mừng hôm nay rõ ràng, xác thực cho bạn: “Hạt giống của sự hy sinh đem lại kết quả quí giá. Cùng với Chúa trong hy sinh của Người, bạn sẽ ỡ cùng với Người khi Người đemlại niềm vui và chiến thắng trong mùa Phục sinh.
Xin Chúa chúc lành bạn.
10.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái
Chủ Đề: Ý thức trước về ý nghĩa và giá trị của việc Đức Giêsu chịu nạn
I. Dẫn vào Thánh lễ
Hôm nay là Chúa nhật cuối cùng của Mùa Chay, tuần sau sẽ là Tuần Thánh. Để giúp chúng ta vào Tuần Thánh một cách sốt sắng, hôm nay Phụng vụ Lời Chúa giúp chúng ta thấy được ý nghĩa và giá trị việc chịu nạn sắp tới của Đức Giêsu.
II. Gợi ý sám hối
Chính vì tội lỗi chúng ta mà Đức Giêsu đã phải chịu chết cách đau đớn và nhục nhã trên Thánh Giá.
Đức Giêsu đã lấy chính máu mình để thiết lập Giao ước mới giữa Thiên Chúa với loài người. Thế mà chúng ta thường xuyên vi phạm Giao ước ấy.
Đức Giêsu đã dùng Thập giá để cứu chuộc chúng ta. Thế mà chúng ta không yêu mến những thánh giá hằng ngày của chúng ta.
III. Lời Chúa
1. Bài đọc I: Gr 31,31-34
Ngày xưa ở Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập Giao ước với dân Israel, theo đó Ngài hứa là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá.
Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, dẫn đến hậu quả là họ phải bị mất nước và bị lưu đày.
Ngôn sứ Giêrêmia loan báo Thiên Chúa sẽ lập một giao ước mới: Giao ước mới này không ghi trên đá mà ghi tận đáy lòng con người; tinh thần của Giao ước này là tình thương và tha thứ: "Mọi người từ lớn chí nhỏ đều nhìn biết Ta" và "Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng".
Đức Giêsu là Đấng thực hiện lời tiên báo đó.
2. Đáp ca: Tv 50
Trong tâm tình chân thành sám hối, tác giả Tv 50 nài xin Chúa một mặt tẩy sạch các tội lỗi của mình, và mặt khác tạo cho mình một quả tim mới.
Một quả tim mới để khắc ghi Giao ước mới. Đó cũng là tâm tình hợp với lời tiên báo của Giêrêmia.
3. Tin Mừng: Ga 12,20-33
Đức Giêsu đang nghĩ tới việc Ngài sẽ chịu nạn chịu chết để cứu độ loài người. Việc một số người Hy Lạp - tức là người ngoại - xin gặp Ngài khiến Ngài ý thức rằng giờ cứu độ ấy đã điểm. vì thế mặc dù tâm hồn Ngài xao xuyến nhưng Ngài cũng hân hoan tuyên bố "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Khi nào Ta được đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta". Nghĩa là Đức Giêsu coi cái chết của Ngài là vinh quang cho Ngài và nguồn cứu độ cho mọi người.
4. Bài đọc II: Dt 5,7-9
Tác giả thư Do thái hiểu rằng cuộc chịu nạn của Đức Giêsu là "căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài".
IV. Gợi ý giảng
* 1. Biện chứng giữa chết và sống
Chết và sống không hẳn là 2 điều luôn đối nghịch nhau, nhiều khi chúng liên kết hỗ trợ nhau: sự chết nuôi sự sống và sự sống sống được là nhờ sự chết. Vài thí dụ:
Nơi thực vật: những thứ được dùng làm phân bón phải chết đi thì mới thành chất bổ dưỡng cho cây.
Nơi sinh vật: các thức ăn phải "tiêu" mới "hóa" thành lương thực.
Trong cõi nhân sinh: những người già chết đi để nhường đất và hoa màu của đất cho các thế hệ sau dùng đó mà sống.
Ngọn nến: sáp nến phải chảy ra và bị đốt thì ánh sáng mới bùng lên.
Trong bài Tin Mừng này, Đức Giêsu nói: hạt lúa có thối đi thì cây lúa mới nẩy mầm.
Đức Giêsu chết để cho con người sống. Sự chết của Ngài là nguồn sự sống cho chúng ta.
* 2. "Đã đến Giờ Con Người được tôn vinh"
"Giờ" này không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ trong dòng thời gian, không đo bằng đồng hồ, không tính theo toán học gồm 60 phút, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng đánh dấu bắt đầu một thời đại mới sẽ kéo dài đến mãi mãi.
Đó là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao giữa loài người với Thiên Chúa được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống dồi dào của Thiên Chúa được chuyển thông dào dạt cho loài người.
Chính vì thế, Đức Giêsu nói "Đã đến giờ con người được tôn vinh". "Con người" đây vừa là Đức Giêsu mà cũng vừa là loài người, vì mọi người đều là "con người". Chẳng những Đức Giêsu được tôn vinh mà mọi người cũng được tôn vinh nhờ cái chết của Đức Giêsu trên thập giá.
* 3. Các vai trong vỡ tuồng thập giá
Đoạn Tin Mừng hôm nay giúp ta thấy rõ những người có liên hệ trong cái chết của Đức Giêsu.
Hai vai chính là Chúa Cha và Đức Giêsu: Đức Giêsu thưa "Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha"; và tiếng từ trời vọng xuống "Ta đã làm vinh danh Ta và Ta còn làm vinh danh Ta nữa". Cuộc đối thoại bằng những lời lẽ cao siêu này vượt quá tầm hiểu biết của những người có mặt ở đấy hôm đó. Vì thế có người cho là tiếng sấm và có người cho là tiếng thiên thần. Cái chết của Đức Giêsu là kết quả của một sự đối thoại và thỏa thuận giữa Chúa Cha và Đức Giêsu để thực hiện chương trình yêu thương của Thiên Chúa đối với loài người.
Nhưng loài người cũng có liên quan: Đức Giêsu nói "Tiếng đó phát ra không phải vì Ta mà vì các ngươi" -- Cuộc đối thoại trên là một mặc khải cho loài người: Tuy họ không hiểu tại sao Đức Giêsu chết, cũng chẳng hiểu tại sao chết mà là tôn vinh, nhưng họ được nói cho biết cái chết ấy là vì họ và cho họ.
Do đó, đương nhiên mỗi người cũng có liên hệ: "Hãy theo Ta. Ta ở đâu thì kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó. Ai phụng sự Ta thì Cha Ta sẽ tôn vinh nó" à Thập giá là con đường dẫn đến tôn vinh. Mỗi người chúng ta có đi theo Đức Giêsu trên con đường thập giá thì mới đến được chỗ Đức Giêsu ở và mới được tôn vinh như Ngài.
* 4. Hạt lúa mì mục nát.
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu người Do thái; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn học tuyên bố: "Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ". Đoàn tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan nói: "Mười trong số những người này phải trả nợ". Lập tức tên sĩ quan duyệt qua hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: "Tôi xin chết thay cho người này". Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: "Tại sao muốn chết?" Maximilien Kolbe điềm tỉnh trả lời: "Tôi là linh mục Công giáo".
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày 18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
*
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt' (Ga.12,24) Để có một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào. Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đành rằng chết để sinh nhiều bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em? Động lực nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải đáp: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả Anthony Padovano viết: "Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết".
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người: "Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22,40). Cầu nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta, nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đường.
*
Lạy Chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")
* 5. Chết đang khi sống
Nhiều người coi sống và chết là hai sự việc nối tiếp nhau: khi không còn sống nữa thì chết. Nghĩ như thế là vì người ta chỉ biết có mỗi một sự sống, là sự sống của thể xác, và cũng chỉ biết có mỗi một sự chết, cũng là sự chết của thể xác.
Thực ra, sống và chết là hai việc đi song song với nhau trong cùng một đời người. Bởi vì có tới hai sự sống và hai sự chết: sự sống chết của con người thể xác và sự sống chết của con người đích thực. Câu nói của Đức Giêsu trong đoạn Tin Mừng này hàm chứa hai sự sống chết đó: "Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời". Nói cách khác cho dễ hiểu hơn: ai cố bám víu vào sự sống của con người thể xác thì sẽ đánh mất sự sống của con người đích thực; còn ai dám để cho sự sống của con người thể xác chết đi thì đồng thời bồi dưỡng cho sự sống của con người đích thực.
Bởi đó, có người dám nói: "Chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn". Thực vậy,
mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi.
mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi.
mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung bạo chết đi.
mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Con người tội lỗi chết dần đi thì con người đích thực được dựng nên giống hình ảnh Chúa dần dần sống mạnh. (Viết theo Flor McCarthy)
* 6. Tâm sự của Đức Giêsu
Tôi cảm động vì lời Đức Giêsu thổ lộ tâm sự: "Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến".
Đức Giêsu đã tâm sự rất thật thà. Ngài nói thật với các môn đệ rằng Ngài xao xuyến trước cái chết sắp tới. Không phải vì Ngài đã từng khuyến khích họ mạnh dạn hy sinh mà nay Ngài phải che dấu cảm xúc xao xuyến của mình. Ngài cũng không muốn làm bộ anh hùng bất khuất. Cảm thấy thế nào, Ngài nói thế đó.
Tôi cũng muốn tìm hiểu xem vì sao mà Ngài xao xuyến.
Chắc hẳn Ngài xao xuyến vì không cam tâm chịu chết. Một con người mới 30 tuổi đang tràn đầy sức sống mà phải chết ư?
Ngài còn xao xuyến hơn vì phải chết cách đau đớn. Chết đóng đinh trên thập giá là khổ hình tàn bạo nhất trong các hình thức xử tử.
Nhưng Ngài xao xuyến sâu xa hơn nữa là vì sự nhục nhã khi phải chịu xử tử như thế. Gần giống như một võ sĩ vô địch mà phải nhận chỉ thị phải thua một võ sĩ hạng thấp hơn mình, không chỉ phải thua bằng tính điểm mà còn phải thua bằng "knock out" nhục nhã. Ngài chết như thế thì những kẻ thù ghét Ngài sẽ hả hê như thế nào? Và những môn đệ thân yêu của Ngài sẽ hoang mang như thế nào?
Bởi vậy, Đức Giêsu đã thốt lên lời van xin: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này". Tuy thế, Ngài mau mắn thưa tiếp: "Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha".
Đức Giêsu thật tội nghiệp! mà cũng rất đáng phục!
V. Lời nguyện cho mọi người
Chủ tế: Anh chị em thân mến, trước ngưỡng cửa cuộc tử nạn và tôn vinh của Đức Giêsu, Hội thánh muốn giúp chúng ta hiểu rằng Đức Giêsu đã trở nên như hạt lúa mì bị chết đi để sinh nhiều hạt khác. Chúng ta cùng dâng lên Chúa những lời cầu sau đây:
1. Đức Giêsu đã dạy: nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình / Chúng ta cầu xin Chúa cho Hội thánh trong lòng thế giới / không khép kín để tự vệ / nhưng sẵn sàng dấn thân phục vụ mọi người.
2. Đức Giêsu đã dạy: "Khi Tôi được treo lên, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi". Chúng ta cầu xin Chúa cho các thủ lãnh trên thế giới đừng ai từ chối hoặc chống lại công trình cứu độ do tình thương của Chúa.
3. Đức Giêsu đã dạy: "Hạt lúa có chết đi, thì mới sinh được nhiều hạt khác" / Chúng ta cầu xin Chúa cho những người tàn tật ốm đau, già yếu, bị tù đày / biết dùng đau khổ mình đang chịu để sinh ích lợi cho nhiều người khác.
4. Đức Giêsu đã dạy: "Thầy ở đâu thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ được ở đó" / Chúng ta cầu xin cho anh chị em trong họ đạo chúng ta biết noi gương phục vụ của Chúa / để luôn quan tâm chu toàn mọi trách nhiệm của mình trong gia đình, trong họ đạo và trong xã hội.
Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã hy sinh mạng sống để chúng con được sống thật. Xin Chúa đánh tan thói ích kỷ, sợ khó, và nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con, để chúng con trở thành môn đệ thực sự của Chúa, biết sẵn sàng hy sinh phục vụ mọi người chung quanh chúng con. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.
VI. Trong Thánh lễ
Trước kinh Lạy Cha: Qua kinh Lạy Cha, chúng ta sắp cầu xin cho "Nước Cha trị đến. Ý Cha thể hiện". Nước Thiên Chúa đến nhờ thập giá Đức Giêsu; Ý Thiên Chúa được thể hiện trọn vẹn nhất nơi Đức Giêsu và khi Ngài chịu chết trên thập giá. Chúng ta hãy hợp một lòng một ý với Đức Giêsu trên Thập giá để dâng lên Chúa Cha những lời cầu xin trên.
Chúc bình an: Đức Giêsu đã chịu chết để hòa giải con người với nhau. Vậy lẽ nào chúng ta vẫn giữ mãi hận thù? Qua việc chúc bình an, anh chị em hãy thực lòng làm hòa với nhau.
VII. Giải tán
Trong Thánh lễ hôm nay Đức Giêsu đã dạy "Ai phụng sự Ta hãy theo Ta, và Ta ở đâu kẻ phụng sự Ta cũng sẽ ở đó". Tuần này, anh chị em hãy phụng sự Chúa, hãy đi theo Chúa, để có thể ở nơi Chúa ở.
11.Giờ Con Người được tôn vinh--Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Lời Chúa chúng ta vừa nghe mở ra cho chúng ta những viễn tượng hết sức mới mẻ về ý nghĩa và giá trị có liên quan đến việc chịu nạn chịu chết của Chúa Giêsu sắp tới và về những đòi hỏi Chúa muốn những ai đi theo Chúa phải chấp nhận.
1. Có thể nói khi Chúa bộc lộ những lời rất chân thành còn được ghi lại trong bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu đang hướng về cái chết sắp tới mà Ngài phải chịu.
Ngài sẽ phải chết nhưng cái chết của Ngài sẽ đem lại cái gì cho nhân loại?
Thông thường chúng ta thấy chết là chấm hết mọi sự.
Còn đối với Chúa cái chết không những không chấm dứt mà còn đưa cuộc đời của Ngài lên một tầm cao mới. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga 12,23).
“Giờ” ở đây không phải là một khoảnh khắc chiếm một chỗ xác định rõ ràng trong dòng thời gian, mà là một thời điểm vô cùng quan trọng. Nó đánh dấu sự khởi đầu một thời đại mới sẽ kéo dài đến mãi mãi.
Giờ ở đây chính là lúc Đức Giêsu bước lên Thập giá. Khi đó mọi trục trặc vướng víu trong liên hệ giữa loài người với Thiên Chúa được tháo gỡ hết, tương giao giữa loài người với Thiên Chúa sẽ được thông suốt, nhờ thế tình thương và sức sống dồi dào của Thiên Chúa sẽ được chuyển thông dào dạt cho loài người.
Như vậy chết đối với Chúa chính là lúc được tôn vinh và Chúa còn cho cả con người được tôn vinh với Chúa “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi.” (Ga 12,32).
Chúng ta tìm được bài học nào ở đây?
Tôi tưởng bài học quí giá nhất mà chúng ta học được từ Chúa ở trong hoàn cảnh này là biết nhìn ra những giá trị nơi những cái mà người đời cho là tầm thường. Khi đối diện với cây Thập Giá, người đời cho đó là một hình phạt đáng nguyền rủa nhưng Chúa Giêsu đã nhìn nó như một phương tiện mang lại ơn cứu rỗi.
Một cậu bé 10 tuổi quyết định học môn võ Judo cho dù cánh tay trái của cậu đã mất trong một tai nạn xe hơi. Cậu theo học judo với một võ sư Nhật. Vì tin rằng mình đã học tập rất chuyên cần và tiến bộ nên cậu vô cùng thắc mắc tại sao sau ba tháng tập luyện mà thầy chỉ dạy cho mình mỗi một thế võ duy nhất.
Cuối cùng, không kiên nhẫn nổi nữa, cậu bé hỏi thầy:
- Thưa thầy, chẳng lẽ con không thể học được các thế võ khác sao?
Ông trả lời:
- Đây là thế võ duy nhất thầy dạy con, và đây cũng chính là thế võ duy nhất mà con cần phải học.
Tuy không hiểu hết lời thầy nhưng tin tưởng ở thầy, cậu bé tiếp tục tập luyện.
Nhiều tháng sau, võ sư dẫn cậu đến tham dự một cuộc thi Judo. Cậu bé rất ngạc nhiên khi thấy mình thắng dễ dàng trong hai trận đầu. Trận thứ ba khó khăn hơn nhưng sau một hồi, đối phương mất kiên nhẫn trong các đòn tấn công, cậu bé đã khéo léo sử dụng thể võ và chiến thắng. Vẫn chưa hết ngạc nhiên vì thành công của mình, cậu tự tin bước vào trận chung kết.
Lần này đối thủ của cậu là một võ sinh cao lớn, to khỏe và dày dạn kinh nghiệm. Vào trận không lâu, cậu bé đã liên tiếp trúng đòn và hoàn toàn bị đối phương áp đảo. Hết hiệp đầu, sợ cậu bé bị thương, trọng tài ra hiệu để kết thúc trận đấu sớm nhưng người thầy của cậu không đồng ý:
- Cứ để cậu bé tiếp tục. - Võ sư yêu cầu.
Ngay sau khi trận đấu bắt đầu lại, đối phương phạm phải sai lầm nghiêm trọng: anh ta coi thường đối thủ và mất cảnh giác. Ngay lập tức cậu bé dùng thể võ duy nhất của mình quật ngã đối phương và khóa chặt anh ta trên sàn. Cậu bé đã đoạt chức vô địch.
Trên đường về, hai thầy trò ôn lại các thế đánh trong từng trận đấu. Lúc này cậu bé mới thu hết can đảm nói ra điều ám ảnh trong đầu mình bấy lâu nay:
- Thưa thầy, làm sao con có thể trở thành vô địch chỉ với một thế võ như thế?
- Con chiến thắng vì hai lý do. - Người thầy trả lời - Lý do thứ nhất, con gần như đã làm chủ được một trong những cú đánh hiểm và hiệu quả nhất của môn võ này. Lý do thứ hai, cách duy nhất mà đối thủ của con phá được thể võ đó là họ phải giữ chặt cánh tay trái của con lại - mà con lại không có tay trái.
Trong cuộc sống đôi khi một điểm yếu của ai đó lại trở thành điểm mạnh vững chãi nhất của họ. Có ưu điểm là một điều tốt nhưng nếu có thể biến khuyết điểm thành lợi thế lại càng là một điều kỳ diệu hơn. Chúa Giêsu đã biết biến thất bại của cây Thập Giá thành chiến thắng vinh quang. Ngài đã nhìn thấy ở nơi cây Thập Giá ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa Cha và Ngài đã đón nhận cây Thập Giá với tất cả tấm lòng của người con thảo để từ đó Ngài mở ra cho Thiên Chúa Cha một dân tộc mới, dân tộc được cứu rỗi.
2. Những đòi hỏi Chúa muốn những ai đi theo Chúa phải chấp nhận.
Đây là Lời của Chúa: “Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”(Ga 12,25-26).
Người ta kể lại rằng Mùa Xuân năm ấy, có hai hạt giống nằm cạnh nhau trong thửa đất màu mỡ. Hạt giống thứ nhất hăng hái nói: “Tôi muốn mọc lên! Tôi muốn cắm rễ sâu xuống lòng đất, và đâm chồi xuyên qua lớp đất cứng bên trên. Tôi muốn vươn những búp non mơn mởn như những lá cờ loan báo mùa xuân đã đến...Tôi muốn cảm nhận hơi ấm của mặt trời mơn man trên mặt và hơi nước mát lạnh của sương mai trên những cánh hoa”. Và nó đã mọc lên xanh tốt.
Hạt giống thứ hai tự nhủ: mình sợ lắm! Nếu cắm rễ xuống đất, mình chẳng biết sẽ gặp gì trong lòng đất tối tăm. Nếu mình tìm đường xuyên qua lớp đất cứng bên trên, biết đâu những chồi non yếu ớt của mình sẽ bị thương tổn. Làm sao mình có thể cho búp non xoè lá khi một chú sâu đang chờ sẵn để xơi tái đọt lá xanh non? Và nếu mình nở hoa, một em bé có thể nhổ đứt mình lên! Không, tốt hơn mình nên đợi cho đến lúc an toàn hơn”. Và nó tiếp tục đợi chờ... Một sáng đầu xuân, cô gà mái bới đất kiếm ăn đã thấy hạt giống đang nằm chờ đợi. Cô chẳng đợi gì mà không mổ lấy, nuốt ngay.
Vâng có được sự sống đời đời những người môn đệ của Chúa cũng phải bước vào một quá trình thay hình đổi dạng để có thể trở nên giống Chúa Giêsu.
Như hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt thì những ai muốn được ở một nơi với Chúa cũng phải làm như thế.
“Lạy Chúa Giêsu, khi nhìn thấy đồng lúa chín vàng chúng con ít khi nghĩ đến những hạt giống đã âm thầm chịu nát tan, để trao cho đời cây lúa trĩu hạt. Có bao điều tốt đẹp chúng con được hưởng hôm nay, là do sự hy sinh quên mình của người đi trước, của các nhà nghiên cứu, của các người rao giảng, của ông bà, cha mẹ, thầy cô, của những người đã nằm xuống cho quê hương dân tộc. Đã có những người sống như hạt lúa, để từ cái chết của họ vọt lên sự sống cho tha nhân. Nhờ công lao của bao người, chúng con được làm hạt lúa. Xin cho chúng con đừng tự khép mình trong lớp vỏ để cố giữ sự nguyên vẹn vô nghĩa của mình, nhưng dám đi ra để góp cho cánh đồng cuộc đời một cây lúa nhỏ. Chúng con phải chọn lựa nhiều lần trong ngày. Để chọn tha nhân và Thiên chúa, chúng con phải chết cho chính mình. Ước gì chúng con dám sống mầu nhiệm vượt qua đi từ cõi chết đến nguồn sống, đi từ cái tôi hẹp hòi đến cái tôi rộng mở trước đấng Tuyệt đối và tha nhân. Amen “ (Manna 85).
12.Đã đến giờ Con Người được tôn vinh--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNI--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm
Đức Giêsu được tôn vinh như thế nào?
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải do một số người Hy lạp xin đến gặp Ngài, tôn vinh Ngài, cũng không phải do dân chúng cởi áo trải đường, phất cành lá vạn tuế tung hô Ngài trong dịp đại lễ Vượt Qua rước Ngài vào thành Giêrusalem. Ngài biết rõ họ, chỉ mấy ngày nữa họ sẽ hô hào nhau: “Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó đi”.
Đức Giêsu được tôn vinh, không phải Ngài sắp lên làm vua cai trị muôn dân. Ngài nhận mình là vua, nhưng nước Ngài không thuộc thế gian này. Nếu nước Ngài thuộc thế gian này, quân của Ngài sẽ chiến đấu, không để người Do thái dễ dàng bắt nộp Ngài (Ga. 18, 36). Trước kia, tướng quỷ đã hứa hiến cho Ngài hết các nước thiên hạ cùng vinh quang của chúng. Ngài đã thẳng tay đuổi chúng: “Satan hãy cút đi” (Mt. 4, 9-10).
Như vậy, Đức Giêsu được tôn vinh không phải bằng giàu sang, danh vọng, quyền thế vinh quang trần gian.
Đức Giêsu được tôn vinh như Ngài khẳng định: “Hạt lúa gieo xuống đất phải chết đi, mới sinh được nhiều bông hạt. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, ai coi thường mạng sống mình đời này, thì sẽ được cuộc sống đời sau”. Ngài từ trời gieo xuống đất, phải chịu chết đi mới cứu được muôn dân. Ngài không khư khư bảo vệ mạng sống mình, sẵn sàng nộp mạng cho quân dữ hành hạ, đánh đập, đóng đinh chết đi để cho quân dữ được hả dạ, được xả mọi uất ức hận thù dằn vặt, đè nén tâm can họ, hơn nữa, để cho họ được an tâm khỏi bị lương tâm cắn rứt dày vò vì tội giết người, Ngài đã xin Cha tha cho họ: “Lạy Cha, xin tha cho chúng, vì chúng lầm chẳng biết”. Đó là vinh quang của Ngài, không một phàm nhân nào làm được, chỉ có Ngài và những ai phục vụ Ngài, mới có lòng nhân ái cao cả đó thôi.
Đức Giêsu được tôn vinh hơn hết là do chính Chúa Cha cứu Ngài khỏi giờ này: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến”. Giờ này là gì? Chính Đức Giêsu đã giải thích: “Giờ đây là giờ diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây là giờ thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài”. Giờ phán xét: đây chưa phải lúc thưởng kẻ lành, phạt kẻ dữ, đây là lúc thế gian phải đứng trước một chọn lựa dứt khoát “theo Thầy, phục vụ Thầy để tôn vinh danh Cha thì sẽ được Cha Thầy yêu quý”. Không theo Thầy, theo thủ lãnh thế gian, theo satan, sẽ bị tống ra khỏi nước trời. Đây là giờ quyết liệt bước vào cuộc chiến đẫm máu đến nỗi “Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền cứu Người khỏi chết. Thiên Chúa đã nhận lời Người vì Người đã tôn vinh Thiên Chúa” (Bài hai).
Giờ đây Đức Giêsu đã sẵn sàng được nâng lên khỏi mặt đất, Ngài không còn thuộc về đất nữa. Như Phù Đổng Thiên Vương nhẩy lên ngựa sắt phi đến phá giặc Ân, Đức Giêsu cũng nhảy lên thập giá với đinh sắt, lưỡi đòng, Ngài xông pha chiến đấu với quân dữ, với tội ác, với tử thần, với satan. Ngài mong gấp rút dứt điểm cuộc chiến này nhanh chóng đến nỗi “tâm hồn Ngài xao xuyến” như trước đây Ngài đã nói: “Thầy phải chịu một phép rửa, lòng Thầy khắc khoải biết bao cho đến khi việc ấy hoàn thành” (Lc. 12, 50).
Thủ lãnh thế gian giằng co kéo dài thời gian để phá hoại nhân loại, giống như trường hợp của Ađam Hussein, thủ lãnh nước Iraq, lợi dụng kéo dài thời gian để đốt phá hết mỏ dầu vùng Vịnh khiến cho nhân loại lâm nguy, thiếu năng lượng sẽ gây ra khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Phe đồng minh đã phải gấp rút giải quyết cuộc chiến trong bốn mươi ngày (từ 17 tháng 01 – 26 tháng 02 năm 1991).
Đức Giêsu đã gấp rút chấm dứt cuộc chiến: chỉ sau ba ngày, Ngài đã chiến thắng vinh quang, giải thoát cho nhân loại khỏi thời đại nô lệ satan, nô lệ tử thần kéo dài từ Adam Evà cho đến giờ này.
Còn chúng ta, giờ này chúng ta cũng phải gấp rút động viên toàn lực tham gia vào cuộc chiến với Ngài. Trừ khử mọi tính hư tật xấu của mình vì đã theo thủ lãnh thế gian. Phải tiêu diệt tội lỗi mình chết đi để tâm hồn trổ sinh nhiều bông hạt. Hãy suy tôn phục vụ Đức Giêsu, để Ngài ở đâu, ta được ở đó với Ngài. Ngài đã lên cao, Ngài sẽ nâng ta lên với Ngài.
Làm sao ta có thể như hạt lúa gieo xuống đất, chưa tối đã lăn ra ngủ, sáng dậy chẳng biết ai cho mình ngủ, ai cho mình thức, ai cho mình sống? Làm sao miệng dám: “Lạy Chúa, xin tôn vinh Cha, khi ta chẳng thèm dâng lễ tạ ơn Cha, biết ơn Cha mà cứ đòi hết ơn này đến ơn khác. Làm sao dám xin Cha cứu khỏi chết, khi ta vẫn sống ích kỷ, chẳng thèm giơ tay cứu giúp ai. Làm sao dám giơ tay cho Ngài kéo lên cao, khi ta sống lười biếng, chẳng ghi khắc vào tâm khảm lề luật Ngài.
Lạy Chúa, xin thương con bởi lòng Ngài nhân hậu, lấy lượng hải hà xóa tội con, xin rửa con sạch hết lỗi lầm. Xin tái tạo lòng con nên trong sạch, đổi mới tinh thần cho con bền vững trung kiên, để con dù phải trải qua nhiều đau khổ, con biết chết đi như hạt lúa gieo vào lòng đất mới sinh nhiều bông trái tôn vinh danh Cha.
13.Từ bỏ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP
Chỉ còn một tuần nữa là đến Tuần Thánh. Vì thế, lời Chúa hôm nay hướng chúng ta dần dần tới cái chết đau thương và sự phục sinh vinh quang của Chúa Giêsu. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu đã dùng một hình ảnh: hạt lúa gieo xuống đất để ám chỉ về cái chết của Ngài. Nhưng hạt lúa gieo xuống đất để làm gì và cái chết của Chúa Giêsu có ý nghĩa thế nào?
Một hạt lúa gieo xuống đất là nó chấp nhận chết đi để mưu ích cho con người, nghĩa là nó trở thành một cây lúa xanh tươi, để rồi sau này sẽ nhân thừa lên và sinh ra trăm ngàn ức triệu hạt lúa khác, một cách vô định hay bất tận. Cho nên, Chúa Giêsu không nói ngoa khi tuyên bố: "Nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời". Như vậy, nếu không chấp nhận chết đi, thì hạt lúa sẽ chấm dứt sức sống một cách ích kỷ nơi chính mình. Trái lại, nếu nó chấp nhận từ bỏ sự sống hạt lúa của nó, thì nó sẽ giữ được sự sống ấy bằng cách chuyển sự sống nó sang cây lúa và sang các bông hạt sau này, nghĩa là sự sống từ bỏ kia sẽ không mất đi nhưng sẽ tồn tại mãi mãi.
Chúa Giêsu là một hạt lúa đầu tiên như thế. Ngài đã làm chết đi nơi mình những gì "là Chúa" và "của Chúa" để cứu chuộc chúng ta và ban cho chúng ta sự sống đích thực. Ngài đã từ bỏ mọi cách thức ưu đãi, giàu sang, danh vọng và quyền uy để chọn một cuộc sống tầm thường, âm thầm, đạm bạc suốt ba mươi năm trời, không ai để ý tới, không có một ưu đãi nào dành cho con nhà giàu, nhà sang. Rồi khi hoạt động công khai, Ngài cũng chọn một đời hoạt động bấp bênh. Ngài đi theo con đường của một người không có thế lực, không có bất cứ phương tiện nào sẵn sàng. Ngài vào đời với hai bàn tay trắng, không một lời giới thiệu, gửi gắm của người có uy quyền. Và suốt ba năm, Ngài đã trải qua mọi hoàn cảnh, mọi tình huống của một người tay trắng đó: bị công kích, bị khước từ, bị mạ lỵ, bị chụp mũ, bị nếm mùi: "Bụt nhà không thiêng".
Cuối cùng, cách thế để đi tới chiến thắng vinh quang cũng lại là cách thế đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian. Con người, ai ai cũng vậy, rất sợ đánh đập, rất sợ tòa án, rất sợ và ghê sợ tử hình. Nhưng Chúa đã đi vào, đã gánh chịu, đã đón nhận tất cả để chứng tỏ Ngài hoàn toàn từ bỏ chính mình. Từ bỏ đến cấp độ kinh hoàng nhất. Tất cả chỉ vì Ngài muốn mình phải chết đi như một hạt lúa để trổ sinh vô số bông lúa và hạt lúa khác. Nếu ông Te-tu-li-a-nô đã nói: "Máu các thánh tử đạo là hạt giống sinh các tín hữu", thì máu của Chúa Giêsu còn giá trị hơn biết bao nhiêu.
Nói rõ hơn, Chúa Giêsu chấp nhận chết đi, chôn vùi trong lòng đất để trở nên nguyên nhân cứu độ, phát sinh nhiều Ki-tô khác. Ngài chịu treo lên thập giá là để trở thành nguồn ơn cứu độ cho chúng ta được nhìn lên Ngài và được sống. Ngài có vẻ như thất bại hoàn toàn khi bị treo lên thập giá, nhưng đó lại chính là lúc Ngài ném được thủ lãnh thế gian ra ngoài và trở thành Đấng phán xét và ban sự sống. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta.
Hơn nữa, hạt lúa chấp nhận bị nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc thụ nạn để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ thập giá, đồng thời trở nên lương thực nuôi các tín hữu. Tóm lại, Chúa Giêsu đã chết, nhưng không chết luôn mà đã phục sinh để tồn tại mãi và ban sự sống đời đời cho con người.
Là Ki-tô hữu, chúng ta chỉ có thể lập công phúc, được cứu rỗi, được sống muôn đời và hữu ích cho người khác... khi biết từ bỏ sự sống tạm bợ, tức là từ bỏ tất cả những gì mà người đời gọi là "sống". Có người từ bỏ được tiền của, danh vọng nhưng lại không bỏ được ý riêng mình; có người bỏ được ý riêng của người khác chứ không chịu bỏ ý riêng mình; có người từ bỏ nhiều mà không từ bỏ tất cả; có người bỏ được những cái to lớn nhưng lại không bỏ được những cái nhỏ mọn hay những cái cần phải bỏ; có người bỏ được lúc này nhưng lại không bỏ được lúc khác...
Từ bỏ là một nhân đức của anh hùng. Là một nhân đức được thử luyện mỗi ngày cả ngàn lần, nhưng cũng có cả hơn ngàn lý do để chối bỏ. Vì thế, chúng ta cần đặt lại giá trị của hy sinh từ bỏ mà chúng ta đã bỏ quên hoặc coi thường. Chúng ta hãy suy nghĩ xem: hiện giờ chúng ta có thấy mình cần từ bỏ gì không: một thói quen không tốt, một tật xấu, một tội lỗi hay bất cứ thứ gì không đúng với Tin Mừng, không hợp với tinh thần Ki-tô, không đúng với cung cách một người con của Chúa.
14.Vượt qua sự chết để vào cõi sống--Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
Ý CHÍNH:
Việc dân Do Thái suy tôn khi đón rước Đức Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem và việc dân ngoại đến xin gặp mặt là dấu hiệu tiên báo đã đến “Giờ” Đức Giêsu được tôn vinh. Được tộn vinh nghĩa là vào trong vinh quang qua khổ nạn thap giá, giống như hạt lúa phải chết đi thì mới phát sinh ra nhiều hạt khác. Từ cuộc Khổ Nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu sẽ phá hủy bức tường ngăn cách giữa Do Thái và dân ngoại để ban ơn cứu độ phổ quát cho mọi dân tộc, và đến ngày tận thế thủ lãnh sự tối tăm là Xa-tan sẽ bị ném vào hỏa ngục đời đời.
CHÚ THÍCH:
- C 20-22: + Mấy Người Hy lạp:Đây là lương dân theo văn hóa Hy-lạp, có thiện cảm với đạo Do Thái hoặc mới theo đạo Do Thái. Ho lên Giê-ru-sa-lem dự lễ Vượt Qua (x. Ga 11,55). Được chứng kiến cuộc khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem của Đức Giêsu, họ đã mạnh dạn đến xin gặp Người. + Ông An-rê cùng với ông Phi-líp-phê đến thưa với Đức Giêsu: Sở dĩ hai ông Phi-líp-phê và An-rê cùng đến thưa Đức Giêsu điều này vì cả hai ông đều nói thạo tiếng Hy-lạp, và cả hai đều sống ở Bết-xai-đa, nơi có nhiều dân ngoại sinh sống.
- C 23-25: + Đã đến Giờ:Tin Mừng nhiều lần nói đến “Giờ”: Giờ của Ta (x. Ga 2,4), Giờ của Người chưa đến (x. Ga 7,30; 8,20), Đã đến Giờ Người phải rời khỏi thế gian (x. Ga 13,1), Giờ phải uống chén đắng (x. Mc 14,35), Giờ của kẻ thù và của tối tăm (x. Lc 22,53), Giờ Đức Giêsu bị bỏ rơi (x. Ga 16,32), Giờ Con Người được tôn vinh (x. Ga 12,23). + được tôn vinh: là Giờ Chúa Cha tôn vinh Chúa Con (Ga 17,1). Được tôn vinh nghĩa là Đức Giêsu phải trải qua cuộc khổ nạn rồi sống lại để vào trong vinh quang cùng với Chúa Cha. + Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất: Đức Giêsu đã dùng dụ ngôn hạt lúa để giải thích: Hạt lúa có chết đi mới gây được một mùa gặt bội thu. Cũng vậy, Đức Giêsu cũng phải trải qua cuộc thương khó và bị giết chết, rồi mới được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Từ cạnh sườn của Người bị đâm thâu, Hội Thánh được sinh ra và phát triển. + Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này...: Coi thường hay ghét mạng sống mình nghĩa là yêu mến ít hơn. Đây là một câu có hai vế đối nghịch nhau: Ai chăm lo hưởng thụ ở đời này thì sẽ mất sự sống vĩnh cửu đời sau. Còn ai chấp nhận gian nan thử thách đời này, thì sẽ được sống vĩnh cửu ở đời sau (x. Mc 8,35; Mt 16,25; Lc 9,24).
- C 26-28: + Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy: Ai muốn làm môn đệ Đức Giêsu thì phải đi con đường khổ nạn mà Người đã đi và sẽ được cùng Người sống lại. +Tâm hồn Thầy xao xuyến: Đứng trước cuộc tử nạn gần kề, Đức Giêsu cảm thấy bất an xao xuyến, vì Người có nhân tính giống như loài người chúng ta mọi đàng, ngoại trừ Người vô tội (x. Ga 8,46; 1 Ga 3,5). + Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ nay, nhưng chính vì Giờ này mà con đã đến: Mang thân phận loài người, Đức Giêsu cũng sợ hãi, đau khổ trước cái chết như mỗi người chúng ta. Người đã cầu xin Chúa Cha cứu mình khỏi “Giờ khổ nạn” ấy. Nhưng Người sẵn sàng chấp nhập vâng theo Ý Chúa Cha, nghĩa là cứu chuộc loài người bằng con đường đau khổ. Lời cầu xin này cũng được lặp lại trong vườn Câu Dầu (x. Lc 22,42-44). + Có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!”: Tiếng Chúa Cha từ trời vọng xuống như khi Đức Giêsu chịu phép Rửa (x. Mt 3,17) và biến hình (x. Mt 17,5). Từ trước đến nay, Thiên Chúa đã tôn vinh Danh Ngài nhờ những “dấu chỉ” do Đức Giêsu thực hiện. Từ đây, Thien Chúa sẽ lại tôn vinh Đức Giêsu khi cho Người từ cõi chết trỗi dậy tại Giê-ru-sa-lem.
- C 29-30: + Đó là “tiếng sấm!”... “Tiếng một thiên thần!”: Chỉ mình Đức Giêsu mới nghe được tiếng Chúa Cha. Còn các người khác chỉ nghe thấy âm thanh rền vang mà không hiểu nội dung nói gi? nên kẻ thì cho đó là tiếng sấm, kẻ khác lại nghĩ là tiếng thiên sứ nói với Đức Giêsu. Sự kiện này tương tự như trường hợp Sao-lô sau khi bị ngã ngựa tại cửa thành Đa-mát (x. Cv 9,3-7; 22,9). + Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài: Giờ Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giêsu là Giờ phán xét và kết án: Những kẻ không tin sẽ bị liệt vào hàng ngũ Xa-tan đối nghịch với Thiên Chúa. Họ sẽ chịu chung số phận là bị loại ra khỏi Nước Trời do Đức Giêsu thiết lập.
- C 31-33: + Được nâng cao lên khỏi mặt đất:Đức Giêsu sẽ bị treo trên thập giá (x. Ga 8,28), rồi được đưa lên trời (x. Ga 3,13; 6, 62), sau khi từ cõi chết trỗi dậy (x. Ga 20,17). + Tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi: Đức Giêsu sẽ đưa các tín hữu lên trời hưởng vinh quang với Người. Với điều kiện họ cũng phải bỏ mình, vác thập giá mà theo Người (x. Mt 16,24); nghĩa là uống chén đắng như Người đã uống (x. Mt 20,23).
CÂU HỎI: 1) Đức Giêsu đã tuyên bố điều gì trước sự kiện dân Do thái hoan hô đón rước Người vào thành Giê-ru-sa-lem và mot số lương dân đến xin gặp mặt? 2) “Giờ” của Đức Giêsu được Tin Mừng nhắc đến bao nhiêu lần? 3) “Giờ được tôn vinh” của Đức Giêsu nghĩa là gì? 4) Từ “ghét” sự sống mình ở đời này nghĩa là gì? 5) Tại sao Đức Giêsu xao xuyến bất an trước giờ tử nạn? 6) Đức Giêsu đã cầu xin với Chúa Cha thế nào để nêu gương vâng phục ý Cha cho chúng ta? 7) Thế gian bị phán xét và ma quỷ thủ lãnh thế gian sẽ hoàn toàn bị đánh bại vào lúc nào? 8) Muốn được Chúa Giêsu cứu độ, đưa lên thiên đàng hưởng vinh quang với Người thì ngay từ bây giờ các tín hữu phải làm gì?
II. SỐNG LỜI CHÚA
1. LỜI CHÚA: “Hạt lúa gieo vào lòng đất nếu chết đi mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
2. CÂU CHUYỆN:
1) Sẵn sàng chịu chết để bạn tù được sống
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế... thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh muc đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.
2) Giá đắt phải trả cho thái độ vô cảm:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu têncầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đậptàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại,nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gan đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình...Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: "Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!".Người đàn ông ngạc nhiên nói: "Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cômà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?"
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: "Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy."Điều bất ngờ là các hành kháchtrước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: "Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?" Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực như tên bắn.
Hôm sau, một tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn": Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã đọc được bản tin và bật khóc!
3. SUY NIỆM:
1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường.Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: "Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tơi thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnhkia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dầnvà không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúavới hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người.Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trămhạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ơ đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
2) Con đườnghạt lúa của Đức Giêsu.
Đức Giêsu đã trỗi dậy từ trong cõi chết và mở ra một con đường cứu độ cho loài người chúng ta là “Phải qua đau khổ để vào vinh quang”.
Tông đồ Phao-lô đã diễn tả mầu nhiệm hạt lúa Giêsu qua ba giai đoạn như sau:
+ Mầu nhiệm Nhập Thể giống như hạt lúa được gieo vào lòng đất: "Đức Giêsu Ki-tô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế"(Pl 2,6-7).
+ Mầu nhiệm Tử Nạn giống như hạt lúa phải trải qua giai đoạn bị mục nát: "Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự"(Pl 2,8).
+ Mầu nhiệm Phục Sinh giống như hạt lúa đã được biến đổi gia tăng gấp bội:"Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và tặng ban danh hiệu, trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Ki-tô là Chúa" (Pl 2,9-11).
Tin Mừng Mát-thêu cũng trình bày mầu nhiệm hạt lúa của Đức Giêsu như sau: "Từ lúc đó, Đức Giêsu Ki-tô bắt đầu tỏ cho các môn đệ biết: Người phải đi Giê-ru-sa-lem, phải chịu nhiều đau khổ do các kỳ mục, các thượng tế và kinh sư gây ra, rồi bị giết chết, và ngày thứ ba sẽ sống lại” (Mt 16,21). Nghe vậy, các môn đệ không muốn chấp nhận. "Ông Phê-rô liền kéo riêng Người ra và bắt đầu trách: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy. Nhưng Đức Giêsu quay lại bảo ông Phê-rô: “Xa-tan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mt 16,22-23).
3) Con đường hạt lúa của các môn đệ.
Đức Giêsu đã mời gọi mọi người đi con đường thập giá của Người: "Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo" (Mt 16,24). Nhóm 12 Tông đồ sau khi nhận được Thánh Thần đã chấp nhận đi theo con đường hạt lúa của Đức Giêsu. Phao-lô Tông Đồ dân ngoại đã bày tỏ với các kỳ mục ở Ê-phê-sô như sau: "Giờ đây,bị Thần Khí trói buộc, tôi về Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi" (Cv20,22-23).
Sau các Tông đồ, đến lượt các Ki-tô hữu cũng đã chọn đi con đường của hạt lúa là chấp nhận bị mục nát, chịu chết vì danh Chúa để từ đó Hội Thánh không ngừng được phát triển như lời ông Téc-tu-a-nô đã nói: "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu".
4) Con đường hạt lúa của các tín hữu hôm nay.
Để đi được con đường tử nạn và phục sinh này, đòi chúng ta phải được ơn Thánh Thần trợ giúp. Mỗi người chúng ta cần noi gương các Tông đồ năng cầu nguyện ket hiệp với Đức Ma-ri-a để xin ơn Thánh Thần biến đổi.
Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy áp dụng mầu nhiệm cây lúa bằng việc thực hành theo kinh “Cải tội bảy mối có bảy đức” cụ thể như sau:
- Mỗi ngày quyết tâm làm một việc phục vụ tha nhân như: quan tâm giúp đỡ người thân làm việc nhà, để loại trừ thói xấu ích kỷ lười biếng nơi mình.
- Can đảm lên tiếng bênh vực công lý thay vì thái độ im lặng để diệt trừ thói xấu vô cảm hèn nhát trong ta.
- Khiêm tốn năng khen ngợi tha nhân cách thành thật để loại trừ thói xấu kiêu ngạo tự mãn nơi bản thân mình.
- Tập làm luật sư bào chữa lỗi lầm cho tha nhân thay vì làm quan tòa kết án họ, để loại trừ thói xấu ganh ghét đố kỵ những ai hơn mình.
- Tập mỉm cười thân thiện và đi bước trước chào hỏi tha nhân ngay từ khi sáng sớm để loại trừ thói quan liêu cửa quyền, ưa xử dụng bạo lực và nói năng hách dịch làm thất nhân tâm.
- Tập thói quen mở rộng vòng tay thân ái để mỗi ngày một “thêm bạn bớt thù”. Mỗi gia đình công giáo sẽ kết thân với một gia đình lương dân để mở mang Nước Chúa.
4. THẢO LUẬN: Mỗi người chúng ta sẽ làm gì cụ thể trong những ngày Mùa Chay này, để noi gương Đức Giêsu, giống như Cha Kôn-bê xưa đã làm, đó là: hy sinh bản thân và khiêm nhường phục vụ tha nhân, nhất là những bệnh nhân hay những người gặp cảnh đáng thương?
5. LỜI CẦU:
- Lạy Chúa Giêsu, Khi đóng đinh Chúa trên cây thập giá, bọn đầu mục Do Thái tưởng đã hoàn toàn chiến thắng. Nhưng Giờ Tử Nạn đối với Chúa không phải là sự thất bại, nhưng là Giờ được Chúa Cha tôn vinh. Cũng như hạt lúa có chết đi mơi sinh được nhiều hạt lúa mới, thì nhờ sự chết trên thập giá, Chúa đã được Chúa Cha tôn vinh bằng việc cho phục sinh, đặt làm Chúa tể muôn loài. Rồi Hội Thánh cũng noi gương Chúa để chấp nhận bị đế quốc Rô-ma bách hại suốt 300 năm, và cuối cùng đã được tôn vinh, qua việc chinh phục được cả Đế quốc tin theo Chúa và gia nhập vào Hội Thánh.
- Trong những ngày Mùa Chay này, xin đổ ơn Thánh Thần giúp chúng con sẵn sàng đón nhận những đau khổ thập giá với thái độ tin yêu và hy vọng, noi gương Chúa xưa. Xin cho chúng con ý thức rằng: thập giá là con đường duy nhất để nhờ đó chúng con xứng đáng nên hoàn thiện noi gương Chúa, và ngày sau còn được Chúa tôn vinh lên Quê Trời hưởng hạnh phúc đời đời.
X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.
15.Giao Ước Mới--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
1. Cựu Ước và Tân Ước
Sách Kinh Thánh của chúng ta có hai phần: Cựu Ước và Tân Ước, nghĩa là Giao Ước Cũ và Giao Ước mới. Tuy nhiên, bài đọc I, trích sách ngôn sứ Giê-rê-mia, là sách thuộc phần Cựu Ước, đã loan báo Giao Ước mới rồi:
Này sẽ đến những ngày – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA – Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới.
(Gr 31, 31)
Và lời loan báo Giao Ước mới, theo vị ngôn sứ, là lời của chính Đức Chúa. Vậy đâu là đặc điểm chính yếu của Giao Ước mới so với Giao Ước cũ? Như chính Đức Chúa đã nói, đặc điểm của Giao Ước mới là Đức Chúa cam kết sẽ ghi khắc Luật của Ngài vào trong tim của con người. Như thế, Luật của Chúa, nghĩa là tất cả các giới răn có mục đích gìn giữ chúng ta ở trong Giao Ước, không còn được viết trên giấy hay khắc trên đá nữa, nghĩa là ở bên ngoài con người, nhưng là trong tim con người, nghĩa là trong chốn sâu thẳm nhất của con người. Nói cách khác, Luật của Chúa không còn là Chữ Viết nữa, nhưng sẽ trở thành Thần Khí hay Lời Nói sống động cư ngụ trong lòng chúng ta và trở nên một với chúng ta, để nuôi dưỡng và làm cho chúng ta sống. Như thế, Giao Ước mới có thể được gọi là Giao Ước tình yêu, bởi vì chỉ có tình yêu mới làm cho luật trở thành lời cư ngụ trong lòng chúng ta mà thôi. Như Đức Giêsu, hiện thân của Giao Ước mới nói: “Anh em hãy ở lại trong Thầy, như Thầy ở lại trong anh em” (Ga 15, 4).
Nhưng tại sao Đức Chúa lại mời gọi Dân sống với Ngài bằng Giao Ước mới? Bởi vì, để giữ Giao Ước cũ, người ta phải có kinh nghiệm về tình yêu Thiên Chúa và phải yêu mến Thiên Chúa. Và điều này cũng đúng trong mọi tương quan dựa trên lề luật của con người: để giữ luật trong gia đình, trong nhà trường, trong xã hội, trong Giáo Hội, trong đời tu, người ta phải có kinh nghiệm và dựa trên tương quan ơn huệ và tình thương. Tuy nhiên, con người đã không nhận ra tình yêu Thiên Chúa, ngang những kì công của Ngài thực hiện trong sáng tạo và trong lịch sử; vì thế, Ngài sẽ bày tỏ tình yêu đến cùng của Ngài dành cho con người nơi Đức Giê-su Ki-tô, Con Yêu Dấu của Ngài, để xây dựng tương quan với con người dựa trên Giao Ước mới, Giao Ước tình yêu. Như vậy, Đức Chúa ước ao kí kết một Giao Ước mới với Dân của Ngài, đó là bởi vì Giao Ước đầu tiên không sinh hoa trái như Ngài mong đợi.
Tuy nhiên, chúng ta được mời gọi nhận ra rằng, ước ao Giao Ước mới cũng có ở nơi mọi tương quan của con người dưới hình thức này hay hình thức khác. Chẳng hạn, các bậc cha mẹ luôn ước ao những giáo huấn, những lời dạy bảo của mình không ở ngoài tai con cái, nhưng đi vào tâm trí của con cái ; và chắc chắn ước ao này cũng có nơi các nhà giáo, các nhà huấn luyện đối với người trẻ trong thời gian thụ huấn ; và ở một mức độ nào đó, cũng như thế, trong tương quan bạn bè và tương quan tình yêu nam nữ và tình yêu vợ chồng: người này ước ao lời của mình lưu lại mãi mãi trong tim của người kia. Khởi đi từ những kinh nghiệm nhân bản như thế, chúng ta xác tín rằng, ước ao Giao Ước mới cũng đến từ năng động tự nhiên của tình yêu. Thiên Chúa là tình yêu, nên Ngài không thể không ước ao Giao Ước mới, là Giao Ước tình yêu.
2. Giao Ước Mới trong Đức Giê-su Ki-tô
Nhưng Thiên Chúa sẽ làm gì và làm như thế nào, để dẫn con người vào Giao Ước mới? Trước hết, Ngài bày tỏ ngôi vị của mình một cách trực tiếp cho con người:
Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết ĐỨC CHÚA”, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta – sấm ngôn của ĐỨC CHÚA.
(Gr 31, 34)
Và lời hứa này sẽ được thực hiện một cách tròn đầy nơi ngôi vị của Đức Giê-su, Con Thiên Chúa, bởi vì “Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả; nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18). Ngang qua các Tin Mừng, vốn là điểm tới của lịch sử cứu độ được kể lại trong Kinh Thánh, được đọc, được suy niệm, được cầu nguyện và nhất là được công bố và giải thích trong Thánh Lễ, Thiên Chúa tiếp tục bày tỏ chính mình cho mỗi người chúng ta nơi Đức Ki-tô. Sự hiểu biết mới về Thiên Chúa, được mặc khải bởi Đức Ki-tô, là tuyệt đối cần thiết để yêu mến Thiên Chúa, đón nhận và sống Giao Ước mới.
Tuy nhiên, càng hiểu biết Thiên Chúa, càng nhận ra tình yêu của Ngài, được thể hiện nơi Đức Ki-tô, chúng ta càng cảm thấy mình vô ơn và bất xứng. Chính vì thế, để dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Thiên Chúa còn bày tỏ mình là Đấng giàu lòng thương xót:
Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng
và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa.
(Gr 31, 34)
Và lời hứa tha thứ cũng sẽ được thực hiện một cách quảng đại trong máu của Đức Giê-su, nghĩa là trong cái chết của Ngài trên Thập Giá, như chính Ngài đã nói và vẫn nói lại hằng ngày trong Thánh Lễ:
Anh em hãy cầm lấy mà uống, vì này là chén máu Thấy, máu Giao Ước mới và vĩnh cửu, sẽ đổ cho anh em và nhiều người được tha tội. Anh em hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy.
3. Con đường của hạt lúa mì
Thật là kỳ lạ, để tha tội cho loài người và từng người chúng ta, tại sao Đức Ki-tô lại phải đi con đường “đổ máu”? Con đường mà chính Ngài cũng cảm thấy xao xuyến:
Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến.
(Ga 12, 27)
Sự “xao xuyến” của Đức Giê-su còn lớn hơn nữa, theo lời kể của các Tin Mừng nhất lãm: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14, 34 ; x. Mt 26, 38 và Lc 22, 44), và theo thư Do thái: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (Dt 5, 7)
Người xao xuyến, đó là vì với thân xác mỏng manh của Con Thiên Chúa nhập thể, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha, một khuôn mặt đã bị hiểu lệch lạc, bị bóp méo, ngay từ nguồn gốc sự sống (x. St 3, 1-7), nhưng không phải bằng những kì công lớn lao, hay những phép lạ cả thể; bởi vì lịch sử Dân Do Thái và cuộc đời của Đức Giê-su cho thấy rằng, những kì công lớn lao và những phép lạ cả thể không những không mang lại lòng tin, nhưng còn khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, ngoài ra còn bị Sự Dữ xen vào khơi dậy những cách hiểu và hành động lệch lạc[1].
Vì thế, theo ý Cha, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha theo một cách khác, “một cách điên rồ”, nhưng là sự điên rồ của tình yêu và khôn ngoan thần linh, qua việc:
* nhận hết vào mình thân phận của loài người chúng ta,
* đảm nhận mọi số phận đầy tai họa của con người,
* gánh lấy mọi tội lỗi của loài người,
* và đối diện với chính Sự Dữ biểu dương ở mức độ tuyệt đối.
Như thế, không phải một cách trực tiếp tội của mỗi người chúng ta làm cho Chúa bị bắt, bị kết án và chịu khổ hình, đó là Sự Dữ hành động nơi những con người cụ thể trong cuộc Thương Khó, nhưng Chúa tự nguyện chịu khổ hình để vừa chữa lành chúng ta khỏi Sự Dữ và vừa bày tỏ cho mỗi người chúng ta tình yêu đến cùng của Chúa dành cho chúng ta, dù chúng ta là ai và đang ở trong tình trạng nào. Chúng ta được mời gọi nhận ra nơi những gì Đức Giê-su mang lấy trong cuộc Thương Khó, có chính bản thân chúng ta, như chúng ta là: nhỏ bé, giới hạn, yếu đuối, tội lỗi; mỗi người chúng ta hiện diện cách trọn vẹn, được đón nhận cách trọn vẹn và được bao dung cách trọn vẹn trên đôi vai của Đức Giê-su, trong ánh mắt của Đức Giê-su, trong trái tim của Đức Giê-su.
***
Để tái sinh chúng ta và dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Đức Giê-su Ki-tô Con Thiên Chúa, phải cho đi sự sống của mình. Điều này thật khó hiểu và thật khó chấp nhận, đối với người Do thái, với các môn đệ, với loài người và với từng người chúng ta. Con đường Thập Giá không chỉ khó hiểu, mà còn là sỉ nhục và điên rồ. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.
* Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác.
* Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.
* Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.
Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì:
Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.
(Ga 12, 24)
Và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào. Thiên Chúa muốn dẫn chúng ta vào Giao Ước mới, Giao Ước tình yêu trong Đức Giê-su Ki-tô, nhưng ai trong chúng ta cũng cảm thấy, một đàng sự khao khát, nhưng đàng khác lại bất lực. Vậy chúng ta hãy nhận lời nguyện Thánh Vịnh 51 (50) làm của mình:
Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một trái tim mới.
(Tv 51, 12)
-------------------------
[1] Lòng tin chỉ dựa vào phép lạ: (1) Thiên Chúa chỉ ở trong những điều lạ thường, còn những điều bình thường, là phần lớn cuộc đời chúng ta, thì sao? Thân phận con người rốt cuộc có là ơn huệ TC không? Có là đường đi dẫn đến Thiên Chúa hay không? (2) Không chấp nhận thân phận con người và không liên đới với thận phận của người khác. (3) Ma quỉ sẽ lợi dụng để khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, như đã làm trong Sáng Tạo (St 3) và trong Lịch Sử Cứu Độ (Ds 21, 4-9): có điều lạ thì tin, không có thì trách móc nghi ngờ; ngoài ra, còn có những người đã ngụy tạo ra điều lạ để lừa dối mình và lừa dối nhau.
16.Bài học vâng phục--Anmai, CSsR
Mỗi một con người, đều mang trong mình một suy nghĩ riêng, một cái nhìn riêng, một lập trường riêng để nói lên sự cá biệt hay nói đúng hơn là sự khác biệt của con người. Mỗi một con người có một nhân vị. Mỗi một con người là cả một thế giới riêng biệt. Và vì vậy, đó mới là điểm lý thú của con người. Nếu ai cũng như ai thì thế giới này thật là buồn tẻ, thật là nhàm chán vì khi ấy chẳng còn gì để mà bàn nữa. Thế nhưng, từ cái cá tính, cá vị của con người đã gây nên không biết bao nhiêu xáo trộn trong cuộc đời này.
Nhìn vào đời sống thường nhật chúng ta thấy rõ điều này. Hai vợ chồng trẻ mới cưới, vì còn nồng nàn cái thuở ban đầu, cái ngày đầu của đời sống hôn nhân nên tràn đầy hạnnh phúc. Khi ấy, anh nói em nghe, em nói anh nghe nhưng rồi một thời gian qua đi khi đời sống hôn nhân có thời gian, có bề dày một chút thì cái kiểu mà anh nói em nghe em nói anh nghe không còn nữa và rồi nó gây ra xáo trộn trong gia đình. Khi ấy chồng không phục tùng vợ nữa và vợ cũng chẳng còn phục tùng chồng nữa. Nếu nhường nhịn nhau thì gia đình sẽ ấm êm còn nếu không nhường nhịn nhau thì sẽ đổ vỡ, sẽ chia ly. Nếu ai nào sống trong cái bầu khí bất phục tùng sẽ cảm thấy cực kỳ nhàm chán vì lẽ nó bất an làm sao đó. Khi đó, muốn giải quyết mọi xung đột, muốn mang bình an lại trong gia đình thì vợ và chồng phải nghe nhau, phải nhường nhịn nhau, phải tuân phục nhau.
Khi có con cũng thế, nếu như đứa con trong gia đình dễ dạy, dễ nghe, dễ vâng phục thì gia đình rất bình an và hạnh phúc. Nếu gia đình nào có đứa con ngỗ nghịch hay cãi lại cha mẹ thì ắt hẳn gia đình đó bất an. Ông bà ta vẫn thường nói "Cá không ăn muối cá ươn - con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư!" để diễn tả lối hành xử giữa cha và con qua hình ảnh của con cá. Điều chắc chắn và ai ai cũng biết đó là con cá, nếu không ướp muối, để ngoài gió lát sau nó sẽ ươn, nó sẽ tanh và hôi vô cùng. Với con cái cũng vậy, khi chúng cưỡng lại lời dạy dỗ của cha mẹ thì chắc chắn nó sẽ dẫn đến con đường của hư vong thôi.
Rộng hơn một chút, trong một gia đình, trong một cộng đoàn chắc chắn phải có người trên, kẻ dưới. Kẻ dưới dĩ nhiên phải vâng phục người cầm đầu của gia đình, của cộng đoàn. Nhìn vào thực tế, chúng ta thấy rất rõ, gia đình, cộng đoàn nào mà bề dưới, con cái không vâng phục thì cha mẹ, bề trên của gia đình, của cộng đoàn ấy khổ sở vô cùng. Cha mẹ, bề trên lúc nào cũng muốn con cái mình tốt nên có những luật này lệ kia. Con cái và bế dưới thì khác, chúng muốn sống trong tự do để rồi không còn biết vâng phục cha mẹ, bề trên là gì cả.
Bài học vâng phục ngày hôm nay, chúng ta được xem lại một cách hết sức rõ ràng, thực tế trong đoạn sách ngắn ngủi mà Giêrêmia để lại cho chúng ta. Giêrêmia được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ, người phát ngôn của Chúa, người đại diện cho Chúa, người thay mặt Chúa nói với dân Chúa những lệnh truyền của Chúa. Thiên Chúa, Ngài vốn dĩ mang trong mình dòng máu của tình yêu thương bao dung và tha thứ. Con người bao nhiêu lần bất tuân lệnh truyền, lẽ ra huỷ bỏ giao ước đã thiết lập nhưng không. Thiên Chúa mãi yêu con người, tạo mọi cơ hội, mọi điều kiện để con người bỏ đường gian ác mà quay về đường ngay nẻo chính.
Dân Israel đã huỷ bỏ giao ước. Hôm nay, qua miệng của Giêrêmia, Thiên Chúa lập giao ước mới với dân: "Này sẽ đến những ngày - sấm ngôn của Đức Chúa - Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng - sấm ngôn của Đức Chúa. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Israel sau những ngày đó - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: "Hãy học cho biết Đức Chúa", vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta - sấm ngôn của Đức Chúa. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi (Gr 31, 31-35)
Với Giao Ước Mới, Thiên Chúa hứa là sẽ không nhớ đến lỗi lầm của Israel nữa và Ngài còn hứa Israel sẽ tồn tại mãi mãi.
Thế nhưng, tiếp tục nhìn vào lịch sử Israel, mối tình giữa Israel và Thiên Chúa nó làm sao ấy. Thiên Chúa mãi mãi yêu thương còn dân thì lại cứ bất tuân luật Chúa, không vâng phục lời của Ngài. Dân Chúa ương ngạnh, không vâng phục cho đến nỗi Ngài phải sai chính Con Một của mình đến để dạy do dân bài học vâng phục. Không đơn giản để học bài học vâng phục. Chúng ta thử đặt trường hợp của chúng ta vào Chúa Giêsu chúng ta sẽ cảm thấu được nỗi âu lo, sao xuyến, căng thẳng của một người sắp bước ra pháp trường.
Chúa Giêsu mang trong mình sự giằng co của một con người tự do và một con người vâng phục. Ngài hoàn toàn tự do để lựa chọn sự sống hay cái chết của Ngài. Suy nghĩ lắm chứ! Đắn đo lắm chứ! Buồn và đau đớn để rồi Ngài mới thỏ thẻ với Cha mình: "Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến (Ga 12, 27)
"Chính vì giờ này con đã đến"! Phải! Chính vì cái giờ đau thương, giờ quyết liệt này mà Chúa Giêsu phải đến.
Tác giả thư Do Thái đã nói với chúng ta điều ấy:
"Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người (Dt 5,7-9).
Để vâng phục không đơn giản, để vượt qua những trở ngại của vâng phục phải trải qua biết bao nhiêu đau khổ nhưng khi vượt qua đau khổ đấy sẽ được đến vinh quang. Thánh Phaolô, trong thư của Ngài gửi tín hữu Philip xác tín với chúng ta về thái độ, về hành động vâng phục của Chúa Giêsu:
Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa
mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa,
nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ,
trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.
Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.
Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Ngườivà tặng ban danh hiệu
trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. (Pl 2, 6-9)
Vì sao Thánh Phaolô nhắc tín hữu Philip gương của Chúa Giêsu. Chắc có lẽ trong cộng đoàn Philip lúc bấy giờ có sự đụng chạm, có sự cãi vả nhau nên Thánh Phaolô phải nêu gương vâng phục của Chúa: "Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, thì xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu. (Pl 2, 1-5).
Thái độ, hành động vâng phục tuyệt vời của Chúa Giêsu ngày hôm nay quả là bài học quý giá cho mỗi người chúng ta. Hôm nay, chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình. Là linh mục, là tu sĩ, là ông, là bà, là cha, là mẹ, là con, là cháu trong gia đình, chúng ta nhìn lại xem chúng ta có vâng phục giám mục địa phận, bề trên giám tỉnh, bề trên cộng đoàn, ông, bà, cha mẹ của chúng ta hay không? Nếu chúng ta thật sự vâng phục bề trên, ông bà cha mẹ thì gia đình chúng ta sẽ ấm êm, hạnh phúc.
Các đấng các bậc làm bề trên và làm cha làm mẹ ắt hẳn có kinh nghiệm thực tế về chuyện vâng lời vâng phục của bề dưới, của con cái. Đành biết con người có cá tính, có lý lẽ riêng của mình nhưng vì hạnh phúc chung, vì lợi ích chung của gia đình, của cộng đoàn ta phải cố gắng bỏ đi cái ý riêng, cái lẽ riêng của ta để gia đình, để cộng đoàn được hạnh phúc hơn.
Nhìn lại như vậy để rồi chúng ta cầu nguyện cho nhau để ngày mỗi ngày chúng ta cân chỉnh cuộc đời của chúng ta sống sao vâng phục người trên của chúng ta.
Nguyện xin Chúa Giêsu là thầy dạy vâng phục ban thêm ơn cho chúng ta để chúng ta sống bài học vâng phục như Chúa đã từng vâng phục Cha.
17.Giờ Con Người được tôn vinh--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty
‘Ad Magiorem Dei Gloriam’ là một khẩu hiệu được nhiều dòng tu lựa chọn, tuy nhiên, ‘vinh quang Thiên Chúa – Gloria Dei’ hệ tại ở điều gì, và khi nào thì Thiên Chúa thật sự được tôn vinh thì vẫn là một điều cần minh định. Không ít lần ta được nghe giải thích, giờ phút vinh quang của Đức Giêsu chính là khi Người phục sinh vinh hiển. Người ta thường chú giải câu “nếu chết đi, hạt lúa mới sinh được nhiều hạt khác” như sau: ‘Chúa Giêsu để di thể của Người chôn vùi trong lòng đất, để khi ra khỏi mồ, chính thân thể đã được vinh quang ấy sẽ là tụ điểm của tất cả mọi người tín hữu (lời chú giải Ga 12:24 trong ‘Christian Community Bible’). Chúng ta quá quen thuộc với câu nói thường được nhắc đi nhắc lại: ‘Qua thập giá tới vinh quang – Per Crucen ad Lucem’. Câu nói đó hàm ý, cái chết của Đức Ki-tô trên thập giá chỉ là phương tiện trung gian, là con đường đưa tới vinh quang mà thôi, còn tự nó chẳng vinh quang chút nào hết, toàn là đau đớn và nhuốc khổ! Nói như thế quả là hợp lý theo lối nhìn thường tình nhân loại, tuy nhiên hình như đó không phải là điều mà Đức Giêsu đã xác quyết. Đọc kỹ một chút Tin Mừng Gio-an chương 12 ta nhận ra ngay: Đức Giêsu công khai khảng định: chính giờ chết thập giá, khi Con Người được ‘giương cao lên khỏi đất … là lúc ngài được tôn vinh’.
Tại sao thời điểm chịu chết lại là giờ phút Con Người được tôn vinh? Cứ theo thói tự nhiên thì không có cách nào lý giải hết, bởi vì “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Lạy Cha xin cứu con khỏi giờ này!” Trong tư cách người phàm, Đức Giêsu cũng đã quằn quoại trước giờ tử nạn, và các Thánh Sử đã không hề muốn che đậy điều này; “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được” (Mc 14:34); ‘Lòng xao xuyến bồi hồi… Và mồ hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất’ (Lc 22:44). Thế thì vì lẽ nào mà cái giờ phút kinh hoàng tột độ đó, khi mà chính Người còn mong trốn thoát, lại có thể được Người gọi là đỉnh điểm (kairos) ‘được tôn vinh’? Và không chỉ tôn vinh riêng Người, mà còn là giờ phút cả Chúa Cha cũng được tôn vinh nữa, ‘Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha… Bấy giờ có tiếng phán từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa”.
Có thể ai đó trong chúng ta cho rằng đó chỉ là một kiểu nói, một lối diễn tả bóng bảy. Nếu quả đúng là như thế thì chẳng có gì đáng bàn thêm! Tuy nhiên tác giả Gio-an lồng tuyên bố mang tính mạc khải này trong một khung cảnh trang trọng hiếm thấy: một số người Hy Lạp yêu cầu được gặp Đức Giêsu qua trung gian các môn đệ Phi-líp-phê và An-rê; họ chân thành muốn tìm hiểu về Thầy Giêsu, nhân vật được họ nể phục. Câu tuyên bố họ nhận được sau đó quả là một cú sốc, như sau này Phao-lô sẽ nhận xét: “… người Hy-lạp tìm kiếm lẽ không ngoan… sẽ cho là điên rồ”. Nhưng rồi cũng chính Phao-lô mạnh dạn khảng định thêm: “Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do Thái hay Hy Lạp, Đấng Ki-tô chịu đóng đinh ấy, chính là sức mạnh và sự khôn ngoan của Thiên Chúa…” (1 Cr 1:23-24)
Như vậy Ki-tô hữu chân chính sẽ không phải là người lên tiếng khảng định ‘per Crucem ad lucem’ theo lẽ thường tình, mà phải là những người có khả năng xác quyết với niềm thâm tín sâu xa nhất ‘Crux est lux – Thập giá chính là vinh quang!’ Như môn đệ Gio-an, chỉ khi ngước nhìn lên thập giá, họ mới nhận rõ một điều ‘Thiên Chúa là tình yêu… Chúa Cha yêu thế gian đến nỗi…’ Nơi thập giá mỗi Ki-tô hữu nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa Tình Yêu rạng ngời, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1:14). Gio-an đã coi chứng từ thập giá là quan trọng hơn hết trong niềm tin của mình: “người xem thấy việc này đã làm chứng, và chứng của người ấy xác thật. và người ấy biết mình nói sự thật để cho cả anh em nữa cũng tin” (Ga 19:35). Chưa nhận ra được vinh quang Thiên Chúa nơi thập giá thì cũng chưa thể nói là mình đã trọn vẹn xác tín rằng ‘Thiên Chúa là tình yêu’, vì đây chính là mạc khải độc nhất vô nhị mà Đức Giêsu cất công đến trần gian để khai mở bằng thập giá của Người. Vì thế cho nên Người mới gọi giờ phút thập giá là ‘Kairos’, “giờ Con Người được tôn vinh… và chính vì giờ này mà con đã đến”. Giờ phút quan trọng nhất đời Đức Giêsu chính là ‘khi được giương cao lên khỏi mặt đất’ (‘ám chỉ Người phải chết cách nào’) vì chính lúc đó ‘tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi’, chứ không phải lúc sống lại ra khỏi mồ hay lên trời hiển vinh. Như vậy niềm tin Ki-tô hữu trước hết và trên hết phải là niềm tin Thập giá trước cả niềm tin phục sinh, vì phục sinh, xét cho cùng, cũng chỉ là Thập Giá tình yêu chiến thắng. “Ave Crux Gloria!”
Tôi cử hành vinh quang thập giá ra sao trong mỗi Thánh Lễ để, cho riêng cá nhân tôi, Thánh Lễ sẽ trở thành một lời ca tụng và cảm tạ vinh quang đích thực mà Thiên Chúa, trong Đức Kitô Giêsu đã mạc khải cho tôi được biết: ‘Thiên Chúa là tình yêu’?
Lạy Đức Giêsu bị giương cao trên thập giá, con tôn thờ Thánh giá Chúa, con suy tôn Thiên Chúa vinh quang của tự hiến, xót thương và cứu độ. Xin cho con có khả năng luôn đọc được nơi thập giá Chúa chịu đóng đinh một chữ T và chữ Y sáng ngời (T là hình tượng thập giá và Y là hình tượng Giêsu chết treo trên đó), một Tinh Yêu vinh quang, vinh quang không phải cho ai khác mà là cho chính sự thấp hèn của con. Càng nhìn nhận mình tội lỗi yếu hèn, hình như con lại càng có khả năng nhận ra vinh quang sáng chói của thập giá. Xin gia tăng nơi con khả năng sống niềm tin thập giá này, bây giờ và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
18.Hạt lúa mì mục nát--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc
Cha Dieudonné Bourgignon, người Bỉ, đã từng bị Đức Quốc Xã bắt giam trong trại tập trung Dachau thời Đệ Nhị Thế Chiến kể lại:
Vào một đêm cuối tháng bảy, một tù nhân khu trại 4 thuộc trại giam Auschwitz đã trốn thoát. Phòng hơi ngạt của trại này đã từng thủ tiêu 6 triệu người Do thái; 1/3 dân Do thái trước Thế Chiến. Sáng hôm sau, viên sĩ quan hằn học tuyên bố: "Tất cả những người có mặt phải đứng nghiêm trong hàng ngũ". Đoàn tù nhân phải chôn chân không mủ nón đứng dưới ánh nắng đổ lửa của mùa hạ miền nam Ba Lan. Buổi chiều khi các tù nhân khu giam khác đi làm về. Viên sĩ quan nói: "Mười trong số những người này phải trả nợ". Lập tức tên sĩ quan duyệt qua hàng tù nhân chỉ ra mười người, trong đó có một đàn ông kêu rên thảm thiết vì thương người vợ trẻ và đàn con thơ dại.
Maximilien Kolbe nghe lời ai oán của bạn tù đã thốt lên: "Tôi xin chết thay cho người này". Đoàn người sững sờ. Tên sĩ quan không ngờ diễn tiến của biến cố. Hắn tò mò muốn hiểu rõ: "Tại sao muốn chết?" Maximilien Kolbe điềm tỉnh trả lời: "Tôi là linh mục Công giáo".
Mười tử tội tiến chầm chậm vào cõi địa ngục. Người ta bỏ rơi họ trong phòng tối không ăn uống cho đến chết. Những giờ phút tăm tối lê thê. Ngày 18-8-1941, mười người còn lại bốn, đang thoi thóp hấp hối. Một người trong đó là Kolbe. Tất cả được nhận mũi thuốc độc ân huệ.
***
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất không chết đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó chết đi, thì nó sinh nhiều bông hạt' (Ga.12,24) Để có một quyết định anh hùng như cha Maximilien Kolbe quả không dễ dàng chút nào. Tại sao tôi phải chết đi để người khác được sống? Đành rằng chết để sinh nhiều bông hạt, nhưng có ích gì khi chính tôi bị tan rã? Vì thế, chúng ta không muốn chết như hạt lúa, chúng ta chấp nhận trơ trọi một mình.
Vậy sức mạnh nào thúc đẩy chúng ta dám chết cho anh em? Động lực nào thúc giục chúng ta hiến thân cho đồng loại? Chính Đức Giêsu đã cho ta giải đáp: "Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh mạng sống vì bạn hữu mình" (Ga.15,12). Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Đức Giêsu đã nên lời yêu thương con người. Chính vì Người đã không xuống khỏi thập giá nên không ai có thể nghi ngờ tình yêu của Người. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Người trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa.
Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Đức Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Cái chết của cha Kolbe và tất cả những cái chết hiến thân cho tha nhân đều nói lên lời yêu thương con người và tôn vinh Thiên Chúa. Tác giả Anthony Padovano viết: "Chúng ta được cứu rỗi không chỉ vì cái chết thể xác của Đức Giêsu, nhưng vì tình yêu vô biên của Người sẵn sàng chấp nhận cái chết".
Điểm quan trọng là ở giây phút định mệnh, đối mặt với cái chết, Đức Giêsu luôn tha thiết cầu nguyện với Cha và Người dạy chúng ta hãy học kinh nghiệm nơi Người: "Các con hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ" (Lc.22,40). Cầu nguyện không là liều thuốc giảm đau, ngăn chặn nao núng sợ hãi, nhưng cầu nguyện là thái độ sống thực, sống tin yêu, phó thác. Khi cầu nguyện chúng ta không mong Chúa đổi ý, cứu ta thoát chết, cũng không xin Người ru ngủ để ta chết êm ái.
Ở giây phút quyết liệt, cầu nguyện chính là gặp gỡ Chúa với nỗi xao xuyến, giằng co của cái chết nhưng trọn vẹn tâm tình hiến dâng. Chết không phải là nhảy vào khoảng không vô tận, nhưng ta gieo mình vào cánh tay Thiên Chúa Tình yêu.
Chúng ta không thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta, nhưng chúng ta có thể đón tiếp cái chết như vị ân nhân đưa ta vào ngưỡng cửa vĩnh hằng.
Chính lúc Đức Giêsu gục đầu tắt thở thì cây thập tự trổ nụ đơm bông mùa cứu rỗi. Và khi người tín hữu hiến dâng cái chết như lời tạ ơn cao đẹp cuối cùng thì mùa hoa nhân ái tỏa hương thiên đường.
***
Lạy Chúa, chúng con sợ nói về cái chết và tất cả những gì dính líu tới cái chết, nhưng chúng con cũng hiểu rằng sẽ có một ngày chúng con giáp mặt Chúa trong phút định mệnh. Xin giúp chúng con sống can đảm từng ngày, để chúng con dầy dạn với thử thách quyết liệt sau cùng của cuộc đời. Amen.
19.Quy luật sự sống--‘Niềm Vui Chia Sẻ’
Cái chết của ông Y Rabin, Thủ Tướng Israel ngày 3/11/1995 đã làm cả thế giới chấn động. Những người Do Thái quá khích giết ông, vì họ không chấp nhận công trình hòa bình ông đang kiến tạo với Palestine và các nước vùng Trung Đông. Cái chết của ông Rabin làm cho thế giới nhớ lại cái chết của Mahatma Gandhi 50 năm trước đây: một người thanh niên Ấn Giáo quá khích đã sát hại vị Cha già của dân tộc Ấn, vì anh không thể chấp nhận việc ngài tha thứ và dạy tha thứ cho người Hồi Giáo. Người ta cũng không thể quên cái chết của Mục sư Martin Luther King năm 1968, vì đã tranh đấu cho quyền bình đẳng của người da đen bằng phương pháp ôn hòa và bất bạo động. Lịch sử nhân loại đã được viết bằng máu của biết bao gương mặt kiến tạo hòa bình như thế. Liệu người ta có thể xếp cái chết của Chúa Giêsu vào hạng những cái chết vì hòa bình không? Đâu là lý do khiến Chúa Giêsu phải chết, một cái chết cũng mang tính cách mạng như chính cuộc sống và sự điệp của Ngài?
Chúa Giêsu đã chịu treo trên thập giá giữa hai tên trộm cướp. Thời Đế quốc Rôma cai trị Palestine có biết bao người đã chết như thế, nhưng cái chết của Chúa Giêsu có lý do sâu xa hơn bất cứ một cái chết nào. Chúa Giêsu đã có thể lẩn tránh được một cái chết như thế: Ngài đã làm cho kẻ chết sống lại được, thì việc thoát tay kẻ thù đối với Ngài không phải là chuyện khó. Ngài cũng có thể tránh được một cái chết như thế bằng cách thay đổi thái độ đối với những kẻ đang tìm cách hãm hại Ngài. Nhưng Chúa Giêsu đã không hành động như thế. Các sách Tin Mừng thuật lại rằng Ngài đã tự nộp mình cho kẻ thù. Ngài chết để giải phóng con người khỏi tội lỗi và sự chết. Một cuộc giải phóng vượt lên trên và bao trùm mọi thứ giải phóng khác. Từ nay, với cái chết của Chúa Giêsu, sự chết không còn là một thực tại đáng sợ nữa, nhưng nó là cửa ngõ dẫn vào cuộc sống vĩnh cửu.
Thánh Gioan hôm nay đã dùng hình ảnh quen thuộc để diễn tả ý nghĩa đích thực của cái chết của Chúa Giêsu: hình ảnh của một hạt giống bị mục thối đi trong lòng đất để dẫn đến một mùa gặt phong phú. “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác”. Cũng vậy, những đau thương Chúa Giêsu sắp trải qua sẽ không kết thúc ở một cái chết cằn cỗi mà sẽ dẫn đến sự phì nhiêu sung mãn của sự sống lại, một sự sống có khả năng tập họp mọi dân nước trong Nước Trời.
Tuy nhiên, là Thiên Chúa nhưng cũng là con người và như mọi con người, Chúa Giêsu cũng đã phải trải qua những giờ phút xao xuyến trong tâm hồn khi phải đương đầu với kẻ thù và cái chết nhuốc hổ trên thập giá: “Bây giờ tâm hồn Con xao xuyến, Con biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu Con khỏi giờ này…” Chúa Giêsu đã từng bị cám dỗ xin Cha Ngài giải thoát Ngài khỏi “Giờ” đen tối hay khỏi “uống chén đắng” này. Trong bài đọc 2, chúng ta còn được Thánh Phaolô cho thấy tâm trạng của Chúa Giêsu khi đứng trước “Giờ” của thập giá: “Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Ngài khỏi chết…” Cuối cùng, Chúa Giêsu đã không xin Cha cứu Ngài khỏi chết mà xin cho Danh của Cha được tôn vình. Điều này có nghĩa là Chúa Giêsu muốn cầu xin Thiên Chúa hãy tỏ ra Ngài là một người Cha, bằng cách hoàn tất công trình yêu thương của Ngài đối với con người, ngang qua cái chết và sống lại của Con của Ngài. Qua lời cầu xin này, Chúa Giêsu cho thấy Ngài đã gián tiếp đón nhận “Giờ” của sự phục vụ cho tới hơi thở cuối cùng trên thập giá, nhưng đồng thời cũng là “Giờ” Con Người bước vào vinh quang. Có điều “vinh quang” ở đây không theo ý nghĩa thường tình của chúng ta. Vinh quang ở đây đòi phải trải qua khổ nhục. Vinh quang của hạt lúa đã trổ bông, nặng trĩu và chín vàng, nhưng là sau khi bị chôn vùi dưới bùn rồi nứt nẻ, bứt phá khỏi hình thức hẹp hòi của vỏ trấu, để giờ này mới trở thành nguồn sống, và lại sẵn sàng nẩy mầm, phát triển, tăng gấp mãi.
Thánh Gioan đã diễn tả chân lý này như một quy luật tất yếu cho sự sống phát sinh và đạt tới ý nghĩa cuối cùng: Hạt lúa và bất cứ thứ hạt giống thực vật nào, đều mang ý nghĩa và sứ mạng truyền sinh, tăng gấp nguồn sống ẩn chứa trong bản thân. Thế nhưng, muốn thể hiện ý nghĩa và sứ mạng này, nó phải qua tiến trình biến dạng hoàn toàn, phải chết đi. Chúa Giêsu đã chấp nhận quy luật này, và vẫn đang “lôi kéo mọi người theo Ngài”.
Thưa anh chị em,
Là quy luật, là chân lý Chúa Kitô mạc khải, làm sao con người chúng ta có thể tránh né? Mặc dầu biết rõ mình phải nứt nẻ, bứt phá, lột xác, phải chết đi, mới góp phần làm phát sinh sự sống. Thế nhưng chúng ta vẫn thường coi trọng và bảo vệ cái cũ, những gì là quen thuộc, dễ dãi, dễ chịu hơn là đổi mới. Sống giữa một xã hội đang chủ trương đổi mới, thế mà chỉ mới đặt lại vấn đề đổi mới một số tư tưởng, cách làm ăn, tổ chức đời sống xã hội… cũng đủ làm chúng ta e ngại, lo âu. Nói chi đến thay đổi cả nếp sống trước đây vẫn được tôn trọng. Định luật của sự sống là đổi mới. “Hat lúa phải mục nát đi trong lòng đất mới nảy sinh nhiều bông hạt”. Chúa Giêsu đã nói đến cái chết của Ngài như một điều kiện cần thiết để đem lại sự sống mới cho mọi người. Ngài phải chết đi để các Kitô hữu được sống, để muôn dân trở thành tín hữu và tất cả đều được cứu chuộc.
Còn chúng ta, được mời gọi theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng đừng quên định luật căn bản của sự sống, đó là: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga 12,25). Đi theo Chúa Giêsu đòi hỏi người môn đệ của Ngài phải chia sẻ cuộc sống và cả cái chết của Ngài. Bài học của thập giá đó là đã có những cái chết không uổng công mà trái lại còn nảy sinh nhiều hoa trái, đó là cái chết vì tình thương, vì hạnh phúc, vì sự cứu độ của kẻ khác, vì sự giải phóng con người đồng loại, vì những cái gì còn đáng quý hơn cả chính mạng sống của mình, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin…
Ở đây, Chúa Giêsu đặt chúng ta trước một thang giá trị. Chính khi con người biết vượt ra khỏi cái vỏ ích kỷ để sống một cuộc sống quảng đại, vì người khác, dù có phải vì thế mà hy sinh cả mạng sống của mình, con người đã thực sự bước vào cuộc sống mới. Điều Chúa đòi hỏi nơi những kẻ muốn đi theo Ngài thì Ngài thực hiện nơi chính bản thân Ngài.
Anh chị em thân mến,
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy rõ ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Ngài chết là để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống cho chúng ta. “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài. Nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (x. Tin Mừng 2,8-12). Ai ham sống, sợ chết, sẽ đánh mất tất cả. Người dám theo Chúa Giêsu mà đánh đổi cuộc sống hiện tại, sẽ được cuộc sống muôn đời.
20.Trao ban là nhận lãnh--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Người đời thường nghĩ rằng: cho đi là mất. Họ tưởng rằng cho người khác một số tiền, một tài sản nào đó… thì họ sẽ bị mất mát, thiệt thòi. Thế nên lắm kẻ chủ trương rằng tốt nhất là đừng dại dột đem cho mà hãy khư khư giữ lấy cho mình. Tư duy nầy sẽ hình thành nơi ta một con người ích kỷ, chỉ chăm lo cho bản thân mà không quan tâm trợ giúp người khác.
Đây là một tư duy sai lầm, tai hại. Trái với chủ trương vị kỷ nầy, Chúa Giêsu dạy sống vị tha, biết xả thân cho người khác.
Cho đi thì còn, giữ lại là mất; chính lúc trao ban là lúc nhận lãnh.
Để làm rõ sự thật nầy, Chúa Giêsu dạy: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác.”
Quả vậy. Hạt lúa nào cố tự bảo vệ sự nguyên vẹn của mình thì hạt lúa đó sẽ dần dần bị hư mốc, rốt cuộc chẳng còn gì; còn hạt lúa nào chấp nhận bị phân huỷ dưới bùn đất thì sẽ đâm mầm, mọc thành cây, nở thành bụi và sẽ trổ hoa kết hạt dồi dào: từ một hạt sẽ biến thành trăm hạt khác.
Từ đó, Chúa Giêsu dạy rằng cuộc sống của con người ở đời nầy cũng như thế: “Ai yêu quý mạng sống mình (tự bảo toàn mình như hạt lúa trong kho) thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này (sống xả thân như hạt lúa chịu phân huỷ trong lòng đất) thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”
Khi nói: “coi thường mạng sống mình ở đời nầy”, Chúa Giêsu không có ý dạy chúng ta coi rẻ mạng sống, nhưng là mời gọi chúng ta sẵn lòng chấp nhận xả thân phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân. Làm như thế không phải là thiệt thòi mất mát nhưng là cách để triển nở dồi dào phong phú.
Minh hoạ sau đây chứng tỏ sự thật nầy:
Tôi có hai cánh tay, hai cánh tay cùng thuộc về thân mình tôi nhưng mỗi cánh tay lại có một nếp sống khác nhau, một chủ trương khác nhau. Cánh tay trái của tôi theo chủ nghĩa vị kỷ, còn cánh tay phải theo chủ nghĩa vị tha.
Vì theo chủ nghĩa vị kỷ, luôn luôn quy về mình, nên tay trái của tôi rất ít tham gia vào công việc chung mà cứ để cho tay phải đảm đương mọi việc. Khi ăn cơm, tay trái dành cho tay phải cầm đũa. Khi viết bài, tay trái dành cho tay phải cầm bút. Khi cầm búa đóng đinh hay cầm cây kim may áo, nó chẳng chịu tham gia mà nhường cho tay phải làm hết.
Hậu quả của thói ích kỷ nầy là nó trở nên yếu đuối và thua kém tay phải trong mọi việc. Nếu tổ chức một cuộc thi giữa hai cánh tay thì khi thi viết, tay phải viết nhanh, viết đẹp, viết rõ ràng nên được điểm 10, còn tay trái viết chậm, nguệch ngoạc như mèo cào, như gà bới, nên không được điểm nào.
Khi thi đóng đinh thì tay phải đóng đinh nhanh gọn, chính xác; còn tay trái đóng trật lất. Khi thi may vá thêu thùa thì tay phải may nhanh, thêu đẹp; còn tay trái thì lóng ngóng chẳng làm được việc gì. Nói tóm lại, dù thi bất cứ môn gì, tay phải cũng dành được điểm mười còn tay trái chỉ được số không!
Cả hai cánh tay phải và trái đều thuộc về thân mình tôi, cùng được chăm sóc, nuôi dưỡng như nhau, thế mà tay trái vì theo thói ích kỷ, chẳng bao giờ muốn hi sinh phục vụ toàn thân, chẳng dấn thân chăm lo cho người khác, nên nó trở nên yếu đuối và thua kém trong mọi lĩnh vực. Trong khi đó, vì tay phải theo chủ nghĩa vị tha, luôn chấp nhận đảm đương mọi công việc nặng nề khó nhọc, lúc nào cũng sẵn sàng hi sinh phục vụ toàn thân và phục vụ nhiều người … nên nó mạnh mẽ hơn, khéo léo hơn, tài giỏi hơn, vượt xa tay trái về mọi mặt.
Nhờ tự huỷ mình đi như hạt lúa, Chúa Giêsu được Thiên Chúa Cha tôn vinh.
Cuộc đời của Đức Giêsu là một minh chứng cho chân lý nầy. Người là Một Hạt Lúa chấp nhận tự huỷ đi. Dù là Thiên Chúa thật đồng hàng với Chúa Cha nhưng Người đã không đòi cho được đồng hàng với Thiên Chúa Cha, trái lại Người đã hủy mình ra không, mang lấy thân phận giòn mỏng của kiếp người, chấp nhận chết ô nhục trên thập giá, chịu mai táng trong lòng đất, để phục vụ và cứu rỗi muôn dân. Nhờ đó, Người được phục sinh vinh quang, được lên trời vinh hiển, được tôn vinh làm vua trên trời dưới đất (Philip 2, 6-8).
Thánh Phao-lô tóm lược cuộc đời tự huỷ của Chúa Giêsu như sau: Vì chấp nhận tự huỷ như thế, “Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ và …tuyên xưng rằng: "Đức Giêsu Ki-tô là Chúa". (Phi-líp-phê 2, 9-11)
Đón nhận bài học của Chúa Giêsu
Một ngọn nến phải chấp nhận tiêu hao thì mới có thể toả sáng. Một máy bay phải tiêu hao nhiên liệu mới có thể cất cánh. Một vệ tinh, một tàu vũ trụ phải tiêu hao một số năng lượng khổng lồ mới có thể được phóng lên không gian...
Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết khôn ngoan chấp nhận hi sinh, sẵn sàng tiêu hao thời giờ, sức khoẻ, trí tuệ, nghị lực để phụng sự Thiên Chúa và phục vụ con người, nhờ đó cuộc đời chúng con sẽ phát triển vạn lần tươi đẹp.
21.Hạt lúa gieo vào lòng đất--‘Cùng Đọc Tin Mừng”--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Nếu chúng ta có một lượng vàng trong tủ, làm sao để nó hoá thành năm? Nếu có trăm triệu, làm sao cho số vốn đó đẻ ra gấp mười? Hầu như đó là chuyện không thể làm được bằng những phương cách hợp pháp.
Giá như có bí thuật nào làm được điều đó, thì ai cũng muốn thủ đắc cho bằng được với bất cứ giá nào.
Vậy mà hôm nay, Chúa Giêsu tặng không cho ta một bí quyết làm gia tăng một giá trị không chỉ gấp năm, gấp mười, mà là đến gấp trăm!
Thật khó tin! Làm gì có chuyện thần kỳ như thế trên cõi đời nầy?
Thưa, dù điều nầy rất khó tin, nhưng hoàn toàn có thật. Bí quyết nầy rút ra từ hạt lúa.
Hôm ấy, có người nông dân mang thóc giống gieo trên thửa ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời nổi gió lớn. Có nhiều hạt rơi xuống ruộng bùn nhưng cũng có nhiều hạt bị gió thổi bạt lên vệ đường kề bên.
Bấy giờ những hạt giống nằm trên vệ đường khô ráo cảm thấy phận mình thật là diễm phúc, so với bao nhiêu hạt thóc bạn đang phải ngoi ngóp, ngụp lặn dưới bùn. Chúng tỏ lòng thương hại các hạt thóc bạn dưới sình bằng những lời ngạo mạn: "Thật đáng thương thay thân phận khốn khổ của các anh. Đang khi chúng tôi được ở nơi khô ráo, thì các anh lại phải ngụp lặn trong sình. Đang khi chúng tôi được ngước mắt nhìn ánh dương rực rỡ, được tắm mình dưới nắng, thì các anh lại phải ngụp lặn trong chốn tối tăm. Đang khi chúng tôi được nhìn ngắm bầu trời xanh, nhìn ngắm những bông hoa tươi đẹp bên vệ đường, được ngắm nhìn người qua kẻ lại nói cười vui vẻ, thì chung quanh các anh chỉ là tăm tối và tanh hôi. Cuộc đời chúng tôi đang lên hương, còn cuộc sống các anh đang lụi tàn! Thật bất hạnh thay cho các anh!"
Hạt lúa ấy vừa dứt lời thì bỗng đâu có một bàn chân người dẫm đạp lên mình nó, khiến nó bị gãy thành ba. Sau đó, mấy chiếc xe ào đến, lạnh lùng chà nát nó và những hạt lúa khác thành bụi tro. Những hạt lúa may mắn còn sót lại thì hoá thành mồi ngon cho chim chóc và các loại côn trùng!
Trong khi đó, những hạt lúa tưởng là bất hạnh đang ngụp lặn trong bùn, thì qua vài ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống, rồi thành những cây lúa xanh tươi cứng cáp. Cây lúa lớn dần, nở bụi sum suê. Không đầy ba tháng sau, nó trổ thành những bông lúa, kết thành hàng trăm hạt vàng khoe mình dưới nắng, đem lại sức sống cho bao người.
Từ một hạt lúa đơn độc, nó đã được chuyển hoá thành trăm! Thật nhiệm mầu!
Hôm nay, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy cùng với Ngài chuyển hoá đời mình như thế.
"Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác."
Rồi Ngài nói rõ hơn: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời."
Khi bước chân vào đời, mang lấy thân phận con người giữa cuộc đời ô trọc, Chúa Giêsu đã chấp nhận mang thân phận hạt lúa bị vùi dập trong bùn đất. Ngài chấp nhận khổ hình, chấp nhận vác thập giá, chấp nhận chết treo trên thập giá như một tên tử tội khốn nạn nhất. Người đời tưởng rằng đã tiêu diệt Đức Giêsu, xoá sổ Đức Giêsu... nhưng họ đã lầm. Thay vì huỷ diệt, họ đã giúp Ngài chiến thắng. Qua thập giá, Chúa Giêsu đạt đến vinh quang, được phục sinh vinh hiển và được hiển trị đời đời! Giờ tử nạn cũng chính là giờ Ngài được tôn vinh.
Chúa Giêsu không muốn chúng ta sống như hạt lúa đơn độc trên vệ đường, chỉ biết sống cho mình rồi rốt cuộc phải tiêu vong. Ngài muốn chúng ta bước theo Ngài để chuyển hoá gấp trăm.
Để được như thế, chúng ta hãy nên như hạt lúa bị chôn vùi, nghĩa là hãy chấp nhận hy sinh quên mình vì hạnh phúc người khác; hãy cùng chịu đau khổ với Chúa Giêsu, cùng vác thập giá hằng ngày với Chúa Giêsu, chấp nhận cống hiến tài sức để phụng sự Chúa và phục vụ muôn người.
Nhưng sự việc đâu có giản đơn. Xác thịt con người vẫn nặng nề và không dễ dàng chịu khuất phục. Phải có rất nhiều can đảm mới có thể đáp lời Chúa mời gọi. Ôi, lạy Chúa, xin giúp sức cho con!
22.Cho đi thì còn, giữ lại thì mất--‘Cùng Đọc Tin Mừng’--Lm. Ignatiô Trần Ngà
Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu nêu ra một nghịch lý gay gắt người đời khó hiểu được: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. “(Ga 12,25)
Ai nâng niu sự sống mình thì sẽ đánh mất nó.
Người đời cho rằng muốn bảo tồn được mạng sống thì phải nâng niu cưng chiều nó tối đa, phải dành ưu tiên cho mình trong tất cả mọi sự. Còn Chúa Giêsu thì chủ trương ngược lại: "Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất!" (Ga 12, 25).
Làm sao hiểu được chân lý nầy?
Nếu tim chỉ sống cho riêng mình mà không bơm máu nuôi toàn thân thì tim sẽ bị ứ đầy máu và ngừng đập.
Nếu phổi chỉ phục vụ bản thân, không đưa dưỡng khí nuôi toàn cơ thể, thì phổi chết.
Nếu bao tử và ruột chỉ chăm lo cho mình, giữ lại tất cả dinh dưỡng cho mình mà không chuyển đi nuôi những bộ phận khác, bao tử và ruột tự kết án tử cho mình.
Ai liều mất mạng sống mình, thì sẽ bảo tồn được nó.
Người đời cho rằng: "mạng sống hơn đống vàng" nên người ta chăm sóc, bảo bọc, che chở nó bằng mọi giá. Trong khi đó, Chúa Giêsu dạy, muốn bảo tồn mạng sống thì hãy hy sinh nó đi: "ai liều mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8,35).
Đây là chân lý hết sức hệ trọng nên được các tác giả Tin Mừng nhắc lại nhiều lần: Gioan 12, 25b / Matthêu 10,39/ Matthêu 16, 25/ Luca 9,24/ Luca 17,33.
Làm sao hiểu cho được những nghịch lý nầy?
Sở dĩ tim sống khoẻ vì tim rất quảng đại và hy sinh, luôn luôn bơm hết dòng máu quý báu của mình để cống hiến cho toàn thân được sống. Lẽ sống của tim là liên tục cho đi những gì đã lãnh nhận.
Sở dĩ hai buồng phổi sống trong tình trạng sức khoẻ sung mãn vì phổi vị tha, không tìm ích riêng cho mình, nhưng luôn luôn chuyển đi dưỡng khí trong lành cho những phần chi thể khác.
Sở dĩ bao tử và ruột hoạt động tốt là vì chúng luôn trao ban và dâng hiến: một khi tiếp nhận được thức ăn, bao tử và ruột chuyển hoá thành chất dinh dưỡng và chuyển hết cho những bộ phận chung quanh, không giữ lại gì cho riêng mình.
Nói chung, lẽ sống của từng cơ quan là hy sinh, là quên mình, là dâng hiến tất cả cho những cơ quan khác cũng như cho toàn thân.
Ở Israen có hai biển hồ: một là biển hồ Galilê, hai là biển chết.
Biển hồ Galilê tiếp nhận nước từ sông Jordano rồi xả xuống phía hạ lưu, luôn trao ban những gì vừa nhận được. Nhờ đó, nước hồ lúc nào cũng trong lành, trở nên môi trường thích hợp cho tôm cá sinh sôi nẩy nở, cung cấp nước uống cho cư dân quanh vùng, tưới xanh những cánh đồng và vườn cây ăn trái, đem lại phì nhiêu và sức sống cho đất cằn, đem lại sung túc cho bao triệu người qua các thời đại. Vì thế, nó đáng được gọi là biển sống.
Xuôi về phía nam chừng 200 km dọc theo sông Jordano, người ta gặp thấy một biển hồ khác rộng lớn hơn biển hồ Galilê gần năm lần nhưng bị gọi tên là biển chết; vì tuy cùng nhận nước từ sông Jordanô như biển hồ Galilê, nhưng nó giữ lại tất cả cho mình, không cho chảy đi đâu cả. Vì thế, nước của nó trở thành nước ao tù, mặn đến độ không sinh vật nào sống được. Chung quanh biển nầy, không nhà cửa, không cây cối, không sinh vật nào có thể lập cư...
Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa được giữ nguyên trong kho, được bảo quản kỹ càng, thì nó chỉ là hạt lúa trơ trọi, một hạt lúa cô đơn, một hạt lúa chết dần mòn. Còn hạt lúa nào chịu huỷ mình đi trong ruộng sình sẽ vươn lên phơi phới và sinh được gấp trăm.
Cuộc đời của Đức Giêsu cũng là một minh chứng hùng hồn cho chân lý Người dạy. Chúa đã chịu gieo mình xuống cõi đời ô trọc, chịu hy sinh, chịu đủ thứ khổ nhục, cuối cùng chịu chết trên thập giá và mai táng trong mồ. Trước mắt người đời, Chúa Giêsu đánh mất tất cả và thất bại hoàn toàn!
Thế nhưng qua khổ nạn và sự chết, Người đã phục sinh, lên trời vinh hiển. Nhờ gieo mình xuống và tự hủy đi như một hạt lúa gieo vào bùn đất, Chúa Giêsu đã sống lại khải hoàn đem lại ơn cứu độ cho muôn người và cho họ được hưởng phúc trường sinh.
Quy luật sinh tồn là thế: chỉ khi cho đi, mới là lúc được nhận lại dồi dào; chính khi hiến mình là lúc nhận lại bản thân. Vì thế, khi sắp chịu huỷ mình trên thập giá và chịu mai táng trong mộ, Chúa Giêsu gọi đó là giờ Người được tôn vinh: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" (Ga 12, 23).
Thế là nghịch lý trên đây giờ đã được sáng tỏ và trở thành chân lý soi dẫn cho cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con sẵn sàng hiến thân để phụng sự Chúa và nhân loại, như hạt lúa bị chôn vùi cho nhiều hạt khác được phát sinh, để trở thành "biển sống Galilê" và không bao giờ là "biển chết".
23.Chúng tôi muốn gặp Chúa Giêsu--Lm. Quốc Toản, CRM
Trong cuộc sống có nhiều điều quan trọng mà ta không thể trông thấy như gió, tư tưởng, lòng can đảm, tình yêu và ơn thánh Chúa. Tuy nhiên, ta có thể biết chúng hiện hữu qua hiệu quả hay tác dụng của chúng. Thí dụ khi thấy cây ngả nghiêng - ta biết có gió.
Trong Tin Mừng hôm nay, một số người Hy-lạp (Dân ngoại) muốn gặp Chúa Giêsu. Tại sao họ muốn gặp Chúa? Họ là mối lo cho người Do-thái hơn cả quân Rôma. Đối với họ, cách sống của người Do-thái thật là bất thường. Tuy nhiên, họ lại muốn gặp Chúa. Phải có một điều gì làm cho họ muốn gặp Chúa? Có lẽ họ đã nghe các tông đồ và dân chúng nói nhiều về Chúa. Cũng có thể họ muốn gặp Chúa là vì họ đã chứng kiến sự biến đổi nơi cuộc sống của các tông đồ và những người đã theo Chúa Giêsu.
Như những người Dân ngoại xưa, nhiều người ngày nay cũng muốn gặp Chúa Giêsu; một Chúa Giêsu đã biến đổi cuộc sống của những người đã theo Ngài, một Chúa Giêsu làm cho người ta muốn dấn thân rao giảng Tin Mừng Cứu Độ, một Chúa Giêsu thấu hiểu tâm hồn và biết con người phải chiến đấu khó khăn thế nào để thi hành một việc tốt, và một Chúa Giêsu luôn sẵn sàng thí mạng sống vì phần rỗi nhân loại.
Những sự việc này sẽ không bao giờ trở thành sự thật nếu chúng ta không thấy những hậu quả hay tác dụng của sự hiện diện của Chúa Giêsu trong cuộc sống của những người theo Chúa Kitô. Ta đọc hoặc nghe về những vị thánh, những người có cuộc sống đã chiếu giãi sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa như Phanxicô, Têrêxa, Mẹ Têrêxa Calcutta... Ta cũng biết những người có cuộc sống thánh thiện như Tu sĩ Văn, Cha Minh Đăng, Cha Bửu Diệp... Hoặc chúng ta biết những người thân yêu, bạn bè đang đau khổ không kém Ông Gióp trong Cựu Ước, nhưng họ vẫn vững niềm tin cậy trông nơi Chúa cho dù đôi lúc họ cũng muốn buông xuôi.
Việt Nam ta có câu, "Có qua có lại, mới toại lòng nhau. “Đúng thế! Không chỉ có chúng ta muốn gặp Chúa Kitô, nhưng còn rất nhiều người khác cũng muốn gặp Chúa Giêsu. Do đó, ta không thể chỉ ngồi để hưởng gương lành hoặc ân sủng nhờ niềm tin của người khác. Ta cần trở nên dấu chỉ cho tha nhân nhận biết sự hiện diện của Chúa trong cuộc sống. Ta có thể bắt đầu bằng việc đồng hành và giúp những người chưa nhận biết Chúa qua cử chỉ bác ái yêu thương và nâng đỡ; trung thành trong đời sống cầu nguyện; giúp đỡ tha nhân không vì để được khen, nhưng là vì họ mang hình ảnh Thiên Chúa; đồng hành và cảm thông với những người đau khổ không phải bằng lời nói nhưng bằng sự hiện diện.
Như những người Hy-lạp trong Tin Mừng, ngày nay cũng có rất nhiều người muốn gặp Chúa Giêsu. Nhưng, ngày nay Chúa không hiện diện cụ thể để cho họ gặp Ngài diện đối diện như thời xưa. Cách duy nhất để họ nhận ra Chúa là qua chính những hậu quả và tác dụng của lời Chúa nơi hành động của chúng ta là những môn đệ của Ngài. Xin Chúa Giêsu Thánh Thể canh tân đức tin nơi mỗi người và giúp ta biết chia sẻ đức tin đó cho mọi người qua lời nói và đời sống trào tràn tình yêu thương của Chúa Giêsu. Hãy tìm Chúa Giêsu nơi tha nhân và để tha nhân nhận gặp Chúa nơi chúng ta.
24.Hành trình tự hủy--Lm. GB. Trần Văn Hào SDB
Triết gia Jean Guitton, bạn thân của Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã kể lại một giai thoại như sau. Hồi còn rất nhỏ, ban đêm ông ngủ với mẹ. Nhà hàng xóm bên cạnh có người chết. Giữa đêm khuya vắng có tiếng khóc ngân xa nghe rất não nuột. Đứa bé sợ quá ôm chầm lấy mẹ. Nó hỏi: “Mẹ ơi, chết là gì hả mẹ?” Câu hỏi đột ngột khiến bà mẹ trẻ lúng túng không biết trả lời đứa con như thế nào. Bà bật dậy, ngồi vào bàn và mở cuốn Kinh thánh ra đọc. Trong Tin mừng Gioan chương 13 câu 1, bà đọc thấy thánh ký đã viết: “Trước lễ vượt qua, Đức Giêsu biết trước giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha, Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở trần gian và Người yêu thương họ đến cùng. “Gấp sách lại, bà trở về giường và nói với đứa con: “Con ơi, chết là trở về với Cha và yêu thương đến cùng”.
Các bài đọc Lời Chúa hôm nay hướng chúng ta đến gần sát với cái chết của Đức Giêsu hơn. Con đường dẫn tới núi sọ và huyệt đá chính là con đường yêu thương trong hành trình tự hủy. Cuộc hành trình tự hủy đó giống như định luật của hạt lúa được gieo vào đất. Hạt lúa sẽ thối đi, sẽ chết đi nhưng sẽ sản sinh nhiều bông hạt khác.
‘Giờ’ Con Người được tôn vinh.
Cao điểm của hành trình tự hủy là ‘Giờ’ mà Con Người được tôn vinh. Chủ đề ‘Giờ’ được thánh ký Gioan nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần trong sách Tin mừng của Ngài. Trong phép lạ đầu tiên tại tiệc cưới Cana, Chúa Giêsu đã vén mở thực tại này khi trả lời Đức Mẹ: “Chuyện đó can gì đến bà và tôi, ‘Giờ’ của tôi chưa đến (Ga 2,4)”. Đó là ‘Giờ’ mà Chúa Giêsu không phải làm phép lạ biến nước thành rượu, nhưng biến rượu thành máu của Ngài, máu đổ ra trên Thánh giá để khai mở nguồn ơn cứu độ. Khi đàm đạo với thiếu phụ Samari bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu cũng nói: “Đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giêrusalem, nhưng sẽ thờ phượng Chúa Cha trong Thần khí và Sự Thật (Ga 2, 23)”. Liền sau đó, Chúa nói tiếp: “Giờ đã đến”. Đó là ‘Giờ’ Chúa Giêsu khai mở một nền phụng tự mới qua máu của Ngài đổ ra trên Thánh giá. Đặc biệt, khi đến thời điểm cận kề cái chết, Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, ‘Giờ’ đã đến, xin hãy tôn vinh con Cha để con Cha tôn vinh Cha (Ga 17, 1)”. Cũng tương tự, trong bài Tin mừng hôm nay, khi loan báo về cái chết của mình, Đức Giêsu đã trả lời các môn đệ: “Đã đến ‘Giờ’ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Vì vậy, xuyên suất trong Tin mừng thứ 4, Thánh Gioan luôn nhấn mạnh đến ‘Lễ Vượt qua’ cuối cùng, đó là giờ ‘Con người được treo lên để ai tin vào người con sẽ không phải chết nhưng có sự sống đời’. Thánh giáo phụ Irênê đã viết: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người chúng ta được sống”. Nhưng muốn cho con người được sống và sống dồi dào, Đức Giêsu đã đi vào hành trình tự hủy và chấp nhận cái chết nhuốc khổ như một tên tử tội đốn mạt.
Giờ Chúa Cha được tôn vinh cũng là giờ mà Đức Giêsu bị nhấn xuống tận đáy bùn đen trong xã hội loài người và đón nhận cái chết thảm khốc. Đây là nghịch lý của tình yêu được thánh Gioan nhắc đi nhắc lại khá nhiều lần. Hình ảnh về hạt lúa được gieo vào lòng đất được Chúa Giêsu vay mượn để nói về cái chết của Ngài. Hạt lúa sẽ thối rữa trong lòng đất để sản sinh những hạt lúa khác. Cũng vậy, phải đi qua Thập giá mới đạt đến vinh quang. Phải đi vào lộ trình của mầu nhiệm tự hủy, chúng ta mới vươn đạt tới sự sống. Đây là nghịch lý cao cả mà Giáo hội mời gọi chúng ta quy hướng về trong suốt tuần lễ này, tuần lễ cuối cùng của mùa Chay, trước khi bước vào Tuần Thánh. Chúng ta suy niệm về cái chết của Chúa Giêsu không phải chỉ qua ngắm nguyện, qua việc đi Đàng Thánh giá hay qua các cử hành phụng vụ. Điều quan trọng nhất, là chúng ta phải can đảm đi vào hành trình tự hủy cùng với Chúa Giêsu, bởi vì những ai cùng chết với Đức Kitô sẽ được cùng sống lại với Người (2 Tm 2, 11).
Bản chất đời sống Kitô hữu là đi sâu vào hành trình tự hủy song song với mầu nhiệm Thập giá, như Chúa đã nói: “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình vác thập giá hằng ngày mà theo”. Vác thập giá không phải đơn thuần chỉ là chịu đựng những nghịch cảnh hay những đau khổ, nhưng đó là lộ trình từ bỏ tận căn cách liên lỉ, từ bỏ chính cái tôi ích kỷ nơi con người mình, tức là phải chết đi cho con cũ của chúng ta mỗi ngày. Một cha xứ nọ có sáng kiến tổ chức một Thánh lễ an táng và mời cả cộng đoàn đến tham dự. Trong giây phút tiễn biệt người quá cố lần cuối, cộng đoàn đến trước quan tài và quan tài được mở ra cho mọi người nhìn mặt người chết lần cuối. Nhưng bên trong quan tài ấy không có một xác chết nào cả, chỉ có một tấm gương phản chiếu chính gương mặt của người đến phúng viếng. Ở phía dưới có ghi hàng chữ ‘Bạn hãy tập mai táng chính mình’. Chúng ta phải tập chết mỗi ngày, nhưng không phải là chết về thể lý mà chết trong hành trình tự hủy cách liên tục.
Cuộc chiến nội tâm.
Trong bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay, tác giả thư Do Thái đã viết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã phải lớn tiếng rơi lệ mà dâng lời nguyện nài xin Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết (Dt 5, 7). Mang kiếp con người như chúng ta, Đức Giêsu cũng khiếp sợ khi đối diện trước cái chết. Sự sợ hãi dâng cao đến độ mồ hôi và máu toát ra. Theo một số nhà khoa học phân tích, đây là hiện tượng thể lý khi sự sợ hãi dâng lên tột điểm, thần kinh sẽ căng ra và các mạch máu thấm vào những lỗ chân lông để rỉ ra bên ngoài. Nhưng trong cơn sợ hãi tột cùng ấy, Chúa Giêsu đã hoàn toàn vâng phục thánh ý Chúa Cha. Cái chết của Ngài trở nên căn nguyên ơn cứu độ cho chúng ta (Dt 5, 9).
Sự giằng co và cuộc chiến đấu nơi Đức Giêsu trở thành bài học quý giá cho mọi người ngày hôm nay. Nhiều lúc chúng ta cũng muốn vươn lên, nhưng bản tính yếu đuối của kiếp người lại kéo ghì chúng ta đi xuống. Trong những giây phút hấp hối bi thương nơi vườn cây dầu, Chúa Giêsu đã chiến thắng những cám dỗ muốn thoái lui để hoàn toàn quy thuận thánh ý Chúa Cha. Cũng vậy, trong cuộc lữ hành đức tin trần thế, đặc biệt trong suốt mùa chay thánh này chúng ta cần suy niệm, học hỏi và bắt chước gương mẫu kiên định nơi Đức Giêsu.
Kết luận
Trên giường hấp hối, thánh nữ Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói với các chị em trong cộng đoàn: “Em sắp chết, nhưng không phải em chết mà em đang đi về cõi sống”. Sở dĩ thánh nữ có cái nhìn lạc quan như thế khi đối diện trước cái chết vì Ngài đã thâm tín sâu xa và sống triệt để điều mà chị Thánh đã tâm niệm và viết lại trong cuốn nhật ký một tâm hồn: “Ơn gọi của tôi là tình yêu. Tình yêu vượt thắng mọi thời gian và không gian. Ơn gọi của tôi không là gì khác tình yêu”. Trong tình yêu, con người sẽ trở thành bất tử. Xin Chúa giúp chúng ta luôn biết sống sung mãn ơn gọi tình yêu để ngày càng đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy cùng với Chúa Giêsu.
25.Sống đẹp giữa đời--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền
Người xưa thường đề cao lối sống của người quân tử. Người quân tử thấy chuyện bất bình thường ra tay cứu giúp. Người quân tử luôn sống hào hiệp, sống vì đại nghĩa nên hy sinh bản thân. Thế nhưng, con người ngày nay lại an phận thủ thường. Người ta ngại hy sinh cho người khác. Người ta sợ "mang hoạ vào thân". Người ta tìm an nhàn cho bản thân nên chẳng dại gì "ăn cơm nhà đi vác tù và hàng tổng". Xem ra lối sống của người quân tử thấy chuyện bất bình ra tay giúp đỡ chỉ còn trên trang giấy học trò. Lối sống ấy đã mất dần trong thời đại hôm nay.
Người ta kể rằng: Ở bên Trung Quốc, có một chiếc xe bus chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba thằng du côn có vũ khí để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Chúng bắt cô dừng xe và muốn "vui vẻ" với cô. Tất nhiên là cô tài xế kêu cứu, nhưng tất cả hành khách trên xe chỉ đáp lại bằng sự im lặng.
Lúc ấy một người đàn ông trung niên nom yếu ớt tiến lên yêu cầu ba tên du côn dừng tay, nhưng ông đã bị chúng đánh đập. Ông rất giận dữ và lớn tiếng kêu gọi các hành khách khác ngăn hành động man rợ kia lại nhưng chẳng ai hưởng ứng. Và cô lái xe bị ba tên côn đồ lôi vào bụi rậm bên đường.
Một giờ sau, ba tên du côn và cô tài xế tơi tả trở về xe để tiếp tục lên đường...
"Này ông kia, ông xuống xe đi!" cô tài xế la lên với người đàn ông vừa tìm cách giúp mình.
Người đàn ông sững sờ, nói:
"Cô làm sao thế? Tôi mới vừa tìm cách cứu cô, tôi làm thế là sai à?"
Cô gái nhăn mặt nói: "Nếu ông không xuống, xe sẽ không chạy."
Điều bất ngờ là hành khách, vốn lờ lảng hành động man rợ mới đây của bọn du côn, bỗng nhao nhao đồng lòng yêu cầu người đàn ông xuống xe. Thậm chí một vài hành khách khỏe hơn đã lôi người đàn ông xuống xe.
Chiếc xe bus lại khởi tiếp hành trình. Cô lái xe vuốt lại tóc tai và vặn radio lên hết cỡ. Xe lên đến đỉnh đồi và ngoặt một cái chuẩn bị xuống đồi. Phía tay phải xe là một vực thẳm sâu hun hút.
Tốc độ của xe bus tăng dần. Gương mặt cô lái xe bình thản, hai bàn tay giữ chặt vô lăng. Nước mắt trào ra trong hai mắt cô.
Một tên du côn nhận thấy có gì không ổn, hắn nói với cô tài xế:
"Chạy chậm thôi, cô định làm gì thế hả?"
Cô tài xế không nói tiếng nào nhưng xe chạy ngày càng nhanh hơn. Tên du côn tìm cách giằng lấy vô lăng, nhưng chiếc xe bus lao ra ngoài, rơi xuống vực như mũi tên bật khỏi cây cung.
Hôm sau, báo địa phương loan tin một tai nạn bi thảm xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn". Một chiếc xe cỡ trung rơi xuống vực, tài xế và 13 hành khách đều thiệt mạng.
Trong thành phố, có một người đàn ông đọc bản tin trên báo đã khóc!
Quả thực, con người ngày xưa khi thấy chuyện bất bình, người ta thường lăn xả để hoà giải cho nhau, nhưng xem ra hôm nay, ít ai dám can thiệp vào chuyện người khác. Ít ai dám xông pha để bảo vệ kẻ yếu đang bị ức hiếp. Người ta ngại dấn thân vào chuyện của người khác. Xem ra con người ngày nay thường có xu hướng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân mình nhiều hơn là cho đồng loại. Con người ngày nay thích an nhàn nên ngại hy sinh".
Thế mà, hôm nay Chúa Giêsu lại bảo: "kẻ nào giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai chịu chịu từ bỏ cuối cùng sẽ được lại". Đó là chân lý, là định luật tất yếu của cuộc đời. Nếu thế giới này không có những con người dám quên đi bản thân thì làm sao có những phát minh khoa học, làm sao có những kỳ quan để lại cho đời sau? Có lẽ thế giới hôm nay sẽ thiệt hại biết bao, nếu không có những người dám quên đi sự an nhàn cá nhân, sự yên vui vị kỷ, những lợi lộc cá nhân để sống vỉ lợi ích tha nhân! Thế giới này đang mắc nợ những con người đã tận tuỵ làm việc quên mình để xây dựng thế giới mỗi ngày một tốt đẹp hơn. Thế giới hôm nay rất cần những con người quân tử để cuộc đời được phong phú và yên vui hơn.
Chính Chúa Giêsu, Ngài đã sống điều đó. Ngài đã đi qua đau khổ để tiến tới vinh quang. Ngài đã trở nên bất diệt khi Ngài trở thành hạt lúa chịu nghiền nát để trổ sinh muôn vàn bông lúa. Ngài đã trở nên vĩ đại khi Ngài dám chết vì bạn hữu. Thực vậy, người vĩ đại trong cuộc đời chúng ta không phải là những người nổi tiếng, không phải là các ngôi sao điện ảnh hay ca nhạc mà là chính những người đang hy sinh vì chúng ta. Họ là những người cha "chân lấm tay bùn" đang đổ mồ hôi nơi nương đồng, đang miệt mài nơi công trường. Họ là những người mẹ đang lặn lội ngược xuôi nơi bến chợ, đang hao gầy vì đàn con. Họ là những người anh, người chị đang bôn ba đó đây để bòn nhặt từng đồng tiền để phụ giúp gia đình. Đó là những con người cao cả, là những hạt lúa miến đang chịu nghiền nát vì tha nhân để trở thành tấm bánh cho anh em. Đó là những con người dám quên đi niềm vui riêng của bản thân để lo cái lo của đồng loại, để sống có ích cho tha nhân.
Nhưng thật đáng tiếc! Ý niệm phục vụ tha nhân. Ý niệm sống vì người khác đang mất dần trong thế giới hôm nay. Người ta đang lo cho bản thân. Người ta đang chạy theo danh lợi thú để thoả mãn nhu cầu của chính mình. Có mấy ai dám quên mình để sống cho thân nhân? Có mấy ai chịu nghiền nát đời mình để đem lại niềm vui cho tha nhân?
Thiết tưởng, mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống cao đẹp hơn. Hãy hy sinh niềm vui của mình, những đam mê sở thích của mình để đem lại niềm vui cho những người chúng ta yêu mến. Thiết tưởng mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy sống đúng với phẩm giá làm người của mình là biết sống vì hạnh phúc tha nhân. Chúa đã tạo dựng Eva vì niềm vui của Adam. Chúa cũng tạo dựng chúng ta vì niềm vui của thân nhân. Xin Chúa là Đấng đã chết cho người mình yêu, giúp chúng ta biết quảng đại hy sinh để kiến tạo niềm vui và hạnh phúc cho nhau. Amen.
26.Hạt lúa chết đi--AM Trần Bình An
Vài hôm trước ngày bị hạ sát, Tổng Giám Mục Oscar Romero phát biểu với một phóng viên nhà báo: "Ông có thể nói với dân chúng rằng, nếu họ thành công trong việc ám hại tôi, tôi sẽ tha thứ và ban phép lành cho những ai làm điều ấy. Hy vọng họ sẽ nhận ra rằng họ đã phí uổng thời giờ. Một vị Giám mục sẽ chết, nhưng Giáo Hội của Thiên Chúa, tức là Giáo Hội của dân chúng sẽ chẳng hề bị hủy diệt."
Vào lúc 6 giờ 25 chiều ngày 24/3/1980, tại nguyện đường của Bệnh Viện Chúa Quan Phòng, một bệnh viện dành cho bệnh nhân ung thư, Tổng Giám Mục Romero cử hành Thánh Lễ cầu hồn cho thân mẫu của một ký giả bạn thân, vừa mới qua đời. Đức Cha Romero đọc đoạn Phúc Âm Thánh Gioan: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh... Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. “(Gioan 12, 23-24) Đức Cha triển khai chủ đề ấy trong bài giảng ngay sau đó, áp dụng nó vào tình cảnh khốn cùng mà dân nước El Salvador phải cam chịu dưới ách thống trị của độc tài quân phiệt.
Ngài tâm sự với cộng đoàn nhỏ bé đang dự lễ: "Điều quan trọng là đừng yêu mình đến nỗi không dám dính líu vào những việc liều lĩnh, mà lịch sử đòi hỏi nơi chúng ta... Kẻ nào né tránh sự nguy hiểm, kẻ ấy sẽ mất sự sống mình. Nhưng bất cứ ai vì lòng yêu mến Chúa Kitô hiến thân phục vụ tha nhân, kẻ ấy sẽ được sống giống như hạt lúa mì chết, nhưng thật ra chỉ chết về mặt bề ngoài. “Ngài còn nói: "Tôi tin trong sự chết có sự sống lại. Nếu người ta giết tôi, tôi sẽ được sống lại trong dân Salvador của tôi."
Kết thúc bài giảng, Đức Cha Oscar Romero tiến lên giữa bàn thờ chuẩn bị bánh và rượu để dâng hy lễ Chiên Thiên Chúa, thì tiếng súng nổ, một loạt đạn từ dưới cuối nhà nguyện bay vèo lên. Tổng Giám Mục Romero trúng đạn, máu chảy lai láng. Người ta vội đưa ngài đi cấp cứu, nhưng ngài đã tắt thở.
Giết chết Tổng Giám mục Oscar Romero, thế lực quân phiệt, tài phiệt bạo ngược chưa thỏa lòng. Họ còn cho binh lính mai phục trên nóc nhà thờ, đặt chất nổ và xả súng bắn vào đoàn người đang dự lễ an táng Đức Cha, ngay trước tiền đường nhà thờ chánh toà, khiến thêm 37 người nữa bị tử nạn và hàng trăm người bị thương. Nhưng ai là thủ phạm các vụ tàn sát trên thì "chỉ có Chúa biết". (Theo Romero: A life của James A. Brockman)
Trong Thánh lễ cuối cùng trước khi được Chúa thương gọi về, Đức TGM Oscar Romero đã công bố bài Tin Mừng hôm nay. Đồng thời ngài áp dụng trung thành Lời Chúa Giêsu phán dạy: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. “(Ga 12, 25). Trong tiểu sử Đức TGM Oscar Romero, không nhắc đến tâm hồn ngài cảm thấy thế nào trước nguy hiểm đe dọa, có lẽ tác giả muốn bỏ qua sự yếu đuối của thân xác. Còn Thánh sử Gioan không hề che đậy, cặn kẽ mô tả Đức Giêsu khủng hoảng trước cuộc tử nạn.
Khủng hoảng
"Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” Tâm hồn Đức Giêsu bất an, nôn nao, lo lắng, khiếp hãi, khủng hoảng vô cùng trước mối đe dọa sống còn. Cuộc chiến giữa bản năng sinh tồn và ý chí dấn thân vâng phục vô cùng khủng khiếp, nghiệt ngã, khiến Đức Giêsu phải đổ mồ hôi hột giữa đêm khuya lạnh giá trong vườn Cây Dầu. (Lc 22, 44)
Dẫu vậy, Đức Giêsu luôn xác tín linh hồn quan trọng và thiết yếu hơn thể xác, vốn yếu đuối, hèn mọn, mỏng dòn và mau hư nát. Há tiếc chi cái xác phù du, sợ chi cái chết đe dọa, kẻ thủ ác bạo tàn? Đáng sợ là mất cả chì lẫn chài trong hỏa ngục do Thiên Chúa phán xét công minh vào ngày chung thẩm: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể tiêu diệt cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục. “(Mt 10, 28)
Thư gửi Do Thái, thánh Phaolô cũng khẳng định: “Thật vậy, nếu chúng ta cố tình phạm tội sau khi đã học biết sự thật, thì không còn hy lễ nào đền tội được nữa, mà chỉ còn sợ hãi đợi chờ cuộc phán xét và ngọn lửa nóng bừng tiêu hủy các đối tượng của Thiên Chúa. “(Dt 10, 26-27)
“Chúng ta phải học lấy bài học của Chúa Kitô: “Nếu ai muốn theo Thầy, hãy từ bỏ chính mình. “(Lc 9, 23) Đúng thế hãy từ bỏ chính mình, từ bỏ những dễ dãi, từ bỏ những quan điểm cá nhân, và hãy chỉ theo tư tưởng của Chúa Kitô, Đấng có thể dẫn chúng ta tới cái chết, nhưng chắc chắn cũng sẽ dẫn chúng ta tới sự phục sinh. “(ĐTGM Oscar Romero, 19.6.1977, L’Amour Vainqueur)
“Đừng nhát sợ! Hãy xem Công vụ các Thánh Tông Đồ: đói khát, rách rưới, trộm cướp, roi đòn, đắm tầu, vu vạ, tù ngục, chết chóc,... Nếu con sợ, đừng làm Tông đồ. “(Đường Hy Vọng, số 167)
Cầu nguyện
Trong cơn gian nguy cùng cực, chỉ có duy nhất Thiên Chúa là Đấng ra tay cứu độ. Đức Giêsu đã hốt hoảng van nài trông cậy: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. “(Ga 12, 27) Vừa xin cứu giúp, vừa xác tín vâng phục sứ vụ, Đức Giêsu trở nên gương mẫu tuyệt đỉnh về cầu nguyện cho tín hữu. Tin cậy mến hoàn toàn, không chút vấn vương hoài nghi, bởi chưng “ không có Thầy, anh em chẳng làm gì được. “(Ga 15, 5)
Cầu nguyện luôn là cầu nối mật thiết và quan trọng với Thiên Chúa, hiệp nhất với Ngài trong tư tưởng, lời nói đến hành động. Qua lời cầu nguyện, Ngài sẽ thông ban ơn phù trợ, sức mạnh, ơn bền vững trước cơn thử thách, trước cuộc khổ nạn. “Cầu nguyện là một dạng năng lực mạnh nhất mà chúng ta có thể khơi lên. “(Bác sĩ Alexis Carrel)
Đức Giêsu luôn tha thiết mời gọi các môn đệ, các tín hữu luôn sốt sắng tỉnh thức và cầu nguyện, để chống trả cám dỗ và sự dữ, hầu được hưởng cứu độ. “Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người. “(Lc 21, 36)
“Ai nói được mãnh lực của lời cầu nguyện? Sốt sắng như các Tông đồ và Đức Mẹ trong nhà tiệc ly, phó thác như Chúa Giêsu ở vườn Cây Dầu, quyết định như Maisen giang tay trên núi, được tha thiết như người trộm lành, khiêm tốn như người thu thuế. “(Đường Hy Vọng, số 135)
Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết từ bỏ mình, hy sinh, hiến thân cho Chúa, phục vụ tha nhân. Xin Chúa cho chúng con luôn tỉnh thức, nhận biết và chế ngự những cám dỗ xác thịt, thế gian và ma quỷ. Xin Chúa ban hồng ân Chúa Thánh thần cho chúng con sức mạnh chiến đấu với sự dữ và trung thành với Chúa luôn.
Lạy Mẹ Maria Đồng Công Cứu Chuộc, Mẹ đã trải qua Bảy Sự Thương Khó đau đớn, kính xin Mẹ che chở, phù hộ chúng con trước phong ba bão táp cuộc đời và nhất là trong giờ lâm tử. Amen.
27.Hạt giống vô sinh hay hữu sinh?--AM Trần Bình An
“Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất, mà không chết đi, thì nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu chết đi nó mới sinh nhiều hạt khác. “(Ga, 12, 24)
Nhưng hỡi ơi, hiện nay, đã xuất hiện loại hạt giống biến đổi gien chỉ sống duy nhất trọn một chu kỳ. Sau khi trồng tỉa, thì sản phẩm thu hoạch được, gọi là hạt thương phẩm, chỉ dùng chế biến tiêu thụ, chứ không thể làm giống được nữa. Vì Công ty phát minh đã cấy vào hạt giống gien vô sinh, có tác dụng hủy diệt mầm sống sau khi đã ra hạt (Terminator Seed). Thậm chí phấn của nó bay qua phối hợp với giống khác, thì giống đó cũng sẽ mang gien vô sinh.
Hơn nữa, hạt giống còn được cấy ghép DNA của một loại vi khuẩn chịu được sức nóng và độc chất của thuốc diệt cỏ cực mạnh. Nhờ dĩ dộc trị dộc mà cây giống lai tạo ấy hoàn toàn kháng được độc dược ấy.
Rồi Cty đăng ký chủ quyền các loại gống do họ biến đổi gien, và chủ quyền hợp pháp với tất cả vật gì, cây gì có mang DNA của họ, nếu nó di truyền tới đâu, họ cũng có chủ quyền đến đó.
Chẳng thế, mà Cty đó mới công khai hãnh diện: “Ai làm chủ hạt giống sẽ làm chủ thực phẩm, ai làm chủ được thực phẩm sẽ làm chủ thế giới!”
Vừa thâu tóm lợi nhuận kếch xù, vừa có quyền lực chi phối nhu cầu sinh tồn của toàn thiên hạ, thì câu tuyên bố xanh rờn, đầy tham vọng đó chẳng có gì quá đáng. Chỉ đáng buồn cho cả nhân loại đang bị êm ái đầu độc, đẩy vào hố sâu diệt vong vì từ hạt giống vô sinh ấy.
Trở lại huấn dụ của Chúa Giêsu, hạt lúa gống này phải thuần chủng, chắc mẩy, để gieo giống nào thì sẽ gặt giống nấy. Thực vật chịu mục nát để tái sinh mầm giống mới. Nhân thân mỗi người cũng phải lột xác biết bao nhiêu lần, mới trở nên con người trưởng thành hữu dụng. Tâm hồn cũng thế, vượt qua biết bao hoang mạc đầy cám dỗ, mới trong sáng, hướng thượng.
“Ai yêu quý mạng sống của mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.”(Ga 12, 25)
Bước đâu tiên, Chúa Giêsu nâng nhận thức con người lên một tầm cao mới: Sự sống vĩnh cửu, hay tương lai mịt mờ đen tối sau phút lâm chung. Nhãn tiền, đó chính là những thành quả hiện nay từ những giọt máu đào của các Thánh Tử Vì Đạo Việt Nam đã minh chứng hùng hồn, không thể nào phủ nhận.
“Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và thầy ở đâu, thì kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy. “(Ga 12, 26)
Bước kế tiếp, Chúa Giêsu cụ thể hóa yêu cầu theo Ơn Gọi của Người, cùng phần thưởng dành cho kẻ tuân thủ. Hãy tuân theo giáo lý tình yêu của Người ở bất cứ nơi nào, với bất cứ ai, trong bất cứ hoàn cảnh nào, bới chưng nơi nào Người chẳng hiện diện, người nào chẳng phải hình bóng Người, và môi trường nào dù khắc nghiệt mấy đi nữa cũng chẳng thiếu Người can dự.
Lạy Chúa Giêsu xin mở nhãn quan cho con luôn biết thân phận yếu đuối, biết chết đi những ham muốn, những ý riêng nhỏ nhen, đừng trở nên hạt giống vô sinh, mà là hạt giống tốt, nảy chồi đâm lộc đến sự sống vĩnh cửu.
Lạy Mẹ dấu yêu, xin giúp con can đảm dập nát hạt giống tội lỗi, để mầm giống Lời Chúa nảy nở, đơm hoa kết trái trong con. Amen.
28.Hạt lúa mì gieo vào lòng đất--Lm. Giuse Phạm Quốc Phong
“Hạt lúa mì gieo vào lòng đất, nếu nó chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác” (Ga 12,24)
Có mấy người Hi-lạp đến gặp Philiphe để xin gặp Chúa Giesu, vì họ muốn đi gặp để biết thật sự Chúa Giesu là ai, theo như những lời đồn đại của người ta. Có lẽ họ mong đợi sẽ được gặp một người vĩ đại, một nhà triết gia khôn ngoan, có thể chia sẻ với họ về những tư tưởng lớn lao. Nhưng ngược lại, họ lại tìm thấy một người Giesu đang đau khổ, bối rối và sợ hãi: “Bây giờ tâm hồn thầy xao xuyến, thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này” (Ga 12,27). Chúng ta cũng là những người đang đi tìm Thiên Chúa, đi tìm chân lý và ý nghĩa cho cuộc đời mình, liệu rằng chúng ta có bị bất ngờ và thất vọng không, khi Thiên Chúa mà chúng ta muốn tìm kiếm, không phải là một nhân vật vĩ đại, nổi tiếng, hay một nhà triết học, một nhà tư tưởng lừng danh, hay là một người giàu có, danh giá, mà Ngài lại ẩn mình trong những người bé nhỏ và nghèo hèn nhất của xã hội, những người bệnh tật, những người bị bỏ rơi, … và có thể đã có những lúc chính chúng ta không thèm nhìn, không tiếp nhận và thậm chí xua đuổi Ngài ra khỏi cuộc đời của chúng ta.
Nhưng có lẽ chúng ta lại bất ngờ và thất vọng hơn nữa, khi chúng ta nhận được câu trả lời từ chính Chúa Giêsu cho các người hilap khi xưa và cũng là cho chúng ta hôm nay: “nếu các ngươi muốn hiểu Thầy, hãy nhìn hạt lúa mì kia, nếu các ngươi muốn nhìn thấy Thầy, hãy chiêm ngắm thập giá”. Ngài nói với mỗi người chúng ta: “Các con muốn hạnh phúc ư, hãy vác thập giá như Thầy đã vác”. Con đường mà Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta, cũng chính là con đường thập giá mà chính Ngài đã đi trọn vẹn, dường như đối với chúng ta trong thế kỷ này, hơi bị mâu thuẫn và khó chấp nhận được. Vì sao vậy? thưa là bởi vì, thế giới mà chúng ta hay thường gọi là “thế gian” đang giới thiệu và hứa hẹn với chúng ta một con đường “kiếm hạnh phúc” khác hẳn. Đó là một con đường “tự do tuyệt đối” do con người làm chủ nhân độc quyền, một “khoa học kỹ thuật đỉnh cao” có khả năng chinh phục và điều khiểnvũ trụ, một “tiến bộ vượt bậc của ngành y học và sinh học”, một cuộc sống “hưởng thụ mọi nhu cầu”, … thế gian đang chào mời và hấp dẫn chúng ta bằng cách tạo ra nhiều “nhu cầu” và bảo đảm với chúng ta rằng, chúng ta sẽ hạnh phúc khi được thỏa mãn các nhu cầu đó. Và chúng ta ít nhiều bị ảnh hưởng bởi sự hấp dẫn của nó, và nhiều người trong chính gia đình chúng ta, trong giáo xứ chúng ta đang đi theo “lý thuyết” này. Nhưng tiếc thay cho đến bây giờ, lý thuyết này đang mất dần đi hiệu lực và sức mạnh của nó, vì những sự dữ đang hoành hành thế giới với sức phá hoại không tưởng nổi.
Chúa Giêsu lại mời gọi chúng ta vào một con đường hoàn toàn khác hẳn, có vẻ đi ngược lại các xu hướng tự nhiên của con người. Nhà thần học gia nổi tiếng Karl Rahner có nói: “để biết được Thiên Chúa là ai, chỉ bằng cách là tôi phải qui gối xuống chân thánh giá”. Chính Chúa Giêsu đã đi vào trong con đường này, và Ngài mời gọi mỗi người chúng ta, nếu muốn hạnh phúc, hãy đi theo Ngài vào đó. Chúa Giesu là một hạt lúa mì, chết đi và sinh nhiều hạt mới, bước vào con đường thập giá và đã phục sinh, Ngài đã dùng cái chết của Ngài để tiêu diệt sự chết và tôn vinh Tình Yêu bất diệt mà Thiên Chúa dành cho con người.
Không có con đường rộng nào dẫn đến thiên đàng đâu, mà chỉ có con đường hẹp mới dẫn đên Nước Trời thôi. Vấn đề là chúng ta có dám đi vào con đường hẹp không, để được hạnh phúc với sự giúp sức và đảm bảo sẽ chiến thắng của chính Chúa Giesu và Giáo hội của Ngài. Con đường này chính là con đường “tình yêu” đích thật, không phải thứ tình yêu “tôn thờ cảm xúc” như một bộ phận lớn giới trẻ đang quan niệm và tìm kiếm. Một tình yêu dẫn dắt chúng ta đến tìm gặp Đấng là Nguồn Mạch của Tình yêu, để rồi tìm gặp được chính chúng ta trong mầu nhiệm tình yêu đó, với tư cách là “con Thiên Chúa” và chúng ta sung sướng gọi Thiên Chúa “Abba, Cha ơi, Bố ơi”. Một tình yêu đưa chúng ta đến gặp một Thiên Chúa Tha Thứ, một người Cha nhân hậu không bao giờ trách tội con mình, nhưng là tha thứ luôn luôn và quên hết mọi lỗi lầm của chúng ta.Một tình yêu mang chúng ta đi vào một Thiên Chúa của giao ước và trung thành cho đến cùng, Ngài đã yêu chúng ta và Ngài đã yêu chúng ta đến cùng, đó là chết thay, trả cái nợ mà đáng lẽ chúng ta phải trả: “đó là sự chết”.
Chỉ có “Tình Yêu” này mới có thể làm chúng ta thỏa mãn cơn khát vô tận của con tim chúng ta, và cũng chỉ có con đường “thập giá” này mới đưa chúng ta vào trong sự “hạnh phúc” đích thật. Ước gì trong tuần cực thánh sắp tới, chúng ta xin ơn được trở về với Thiên Chúa, trở về với chính chúng ta, để xin Người tha thứ và ơn can đảm đứng lên, bước theo Chúa vào trong con đường thập giá mỗi ngày, với sự đồng hành và giúp sức của chính Chúa Giêsu: “Đừng sợ, vì Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế”. Xin cho mỗi người chúng ta dám can đảm chết đi con người cũ, chết đi cho Chúa và cho anh em, để chúng ta có khả năng trổ sinh bông hạt dồi dào.
29.Giờ đã điểm--Lm. Vũ Đình Tường
Người ta thường ví von: sống kể ngày, chết kể năm. Khi nói đến cái chết người ta không nói đến ngày, tháng năm mà lại nói đến giờ chết. Nói đến giờ chết vì nó xảy ra trong khoảng khắc, trong giờ phút nào đó. Một khi giờ đã điểm không ai có thể chống cự, có cố gắng cũng chỉ dùng máy trợ tim, giúp tim đập với hy vọng bập bùng theo từng nhịp tâm đập. Hy vọng bởi vì không thể dự đoán biến chứng nào sắp xảy đến, phản ứng nào đang rình rập và giờ phút nào là giờ phút giờ đã điểm.
Điều chắc chắn giúp các Kitô hữu vững tin vào Chúa là giờ chết của ta không phải là bị huỷ diệt, tắt ngủm hơi thở là hết, là chết. Theo mạch văn của Kinh Thánh, giờ con người thế gian sợ hãi lại là giờ người Kitô hữu vững tin vào Chúa, làm Vinh Danh Thiên Chúa. Không niềm tin chết là hết, vinh quang tàn lụi. Có niềm tin chết là bắt đầu cuộc sống mới, vinh danh bắt đầu sáng chói. Phải chăng đây chính là giờ mà Chúa Nhật đầu mùa chay nhắc đến trên núi thánh. Áo trắng như tuyết, mặt mày sáng rực như ánh hào quang. Cái chết của người không có niềm tin chính là danh vọng đang có biến mất, chấm dứt. Cuộc đời đổi trắng ra đen. Cái chết của người Kitô hữu trái lại biến đổi đời mình đang từ không danh vọng lại được ban cho danh vọng. Rõ là đang đen ra trắng. Trắng như tuyết, chói lọi như ánh sáng hừng đông vì họ chết trong ánh sáng Đức Kitô, Người là sự sáng đến trong thế gian để ban ánh sáng chói lọi cho những ai tin vào Ngài. Ánh sáng chói lọi này bắt đầu toả sáng khi giờ người đó điểm cũng chính là lúc họ kết hợp, nên một với Đức Kitô để Ngài sống lại vinh hiển thế nào thì chúng ta những người tin theo cũng được sống lại với Người như vậy.
Nói như thế không có nghĩa người Kitô hữu không buồn sầu khi nghe tin người thân qua đời, hay chính mình mang bệnh nan y. Không phải thế, người Kitô hữu không vô cảm đến phũ phàng, vô tình như thế. Đứng trước cái chết dù là của người thân hay cái chết thương tâm của một người chúng ta không khỏi tiếc thương bởi vì đó là dấu hiệu của chia lìa, ngăn cách. Dù là ngăn cách một thời gian cũng là ngăn cách. Chúng ta khóc thương vì gắn bó tình cảm con người bị chia sẻ, vì cảm thấy mất mát dù là mất tạm bợ. Chúng ta khóc thương, đau buồn xúc động vì đó là phản ứng tự nhiên của cảm xúc con người. Cảm xúc đó cần được bộc lộ, diễn tả thể hiện tình yêu chân thành. Bản tính thự nhiên là như thế. Điểm khác biệt là Kitô hữu khóc, thương và nhớ nhưng không bao giờ tuyệt vọng. Trái lại Kitô hữu luôn sống trong hi vọng, hi vọng ngày gặp lại người thân, ngày tái đoàn tụ trên thiên quốc. Ngày mà Đức Kitô diễn tả như hạt lúa mì chết đi để biến thành cây lúa mới với bông lúa vàng trĩu hạt, mỗi hạt vàng ươm, đầy hạt gạo thơm, của mùa thu hoạch tràn đầy niềm vui, hạnh phúc.
Nước không thể bốc hơi nếu nhiệt độ không biến thể lỏng thành thể khí. Gió không lay động cành cây nếu không khí không chuyển động. Chúng ta không tiến vào vinh quang Thiên Chúa nếu không có cảnh chia li giữa ta và trái đất. Giờ phút chia li đó mang lại niềm đau nhưng cần thiết giúp ta trở về với Đấng Sáng Tạo nên ta.
30.Con người--Lm. Vũ Đình Tường
Chúng ta có cha có mẹ và cha mẹ yêu thương chúng ta, chăm sóc, bảo vệ. Sau này khôn lớn chúng ta lại tiếp tục coi sóc con của chính mình, bảo vệ và yêu thương chúng. Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ Đức Kitô không có í nói đến mối liên hệ gia đình giữa cha mẹ và con cái. Đức Kitô ngụ í nói về sứ mạng của Ngài. Sứ mạng đó là Ngài đến để phục vụ mọi người. Con Người đến để phục vụ mọi người.
Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ Đức Kitô muốn nói đến bản tính nhân loại của Đức Kitô. ‘Con Người’ đến dậy cho người ta biết khác biệt giữa sống làm người và sống nên người. ‘Con Người’ đến mang lại ơn an bình, mang tình yêu Chúa đến cho tha nhân, xoa dịu vết thương, chữa lành bệnh tật, an ủi kẻ yếu đau và kết thân cùng kẻ cô đơn cùng khổ. Biết cảm thông với nỗi khổ của mọi người, kẻ khốn cùng, chia sẻ thống khổ của đồng loại. Sống như thế là sống nên người. Sống như thế là hiện thân của tình yêu Chúa cho tha nhân. Tình yêu Chúa biến đổi cuộc sống chúng ta. Tình yêu Chúa biến đổi cách nhìn, cách suy nghĩ và hướng chúng ta đến điều tốt lành. Sống theo í Thiên Chúa không nhằm mục đích thành công nhưng nhằm mục đích thành nhân, thành người có tư cách, có nhân, có nghĩa.
Khi tự nhận mình là ‘Con Người’ như mọi người điều này ngụ í nói Đức Kitô còn một bản tính khác nữa đó chính là bản tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Ngài vừa là Thiên Chúa thật vừa là ‘con Người thật’. Tương tự như thế chúng ta là con người nhân loại và khi tuyên xưng Đức Kitô là Thiên Chúa chúng ta thực sự trở thành con Thiên Chúa.
Thánh danh ‘Con Người’ có nguồn gốc từ tiên tri Daniel 7,13-14 khi tiên tri nói về hình ảnh con người có quyền trên toàn vũ trụ. Con người đó được ban cho quyền năng trên khắp bầu trời và quyền năng trên tất cả các loài thụ tạo dưới đất. Quyền năng đó vô cùng tận và nước cúa Ngài tồn tại muôn đời, không thế lực nào phá nổi. Mọi ngôn ngữ đều qui phục Ngài. Điều tiên tri này thể hiện nơi con người Giêsu Kitô, sau khi Ngài sống lại từ cõi chết. Điều này xác định bản tính Thiên Chúa nơi Đức Kitô. Khi Đức Kitô tự xưng là ‘Con Người’. Dân Do Thái lúc đó hiểu Ngài muốn nói cho họ biết Ngài là Đấng Thiên Sai.
Ngài dùng hai hình ảnh diễn tả mầu nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô. Cả hai hình ảnh đều diễn tả một cách nhiệm mầu ơn cứu chuộc và ơn tái sinh. Đức Kitô hay ‘Con Người’ nhân danh nhân loại hoàn thành sứ mạng qua cái chết và sự phục sinh vinh hiển. Chết để tái sinh. Hình ảnh đầu là hình ảnh hạt lúa gieo vào lòng đất nó thối đi, rồi nên mầm, trổ sinh bông trái gấp trăm. Hình ảnh thứ hai là hình ảnh treo lên cây, hình ảnh của thập tự để kéo nhân loại lên cùng Ngài. Cả hai hình ảnh đều diễn tả sự chết và cả hai hình ảnh đều diễn tả sau chết không phải là thối nát, hư mất mà là thay hình, đổi dạng tiến vào cuộc sống vinh quang. Kitô hữu đi con đường chính ‘Con Người’ đã đi, cuối đường cũng thay hình đổi dạng tiến vào cuộc sống trường sinh, vui sống cạnh ‘Con Người’ vinh quang.
31.Nếu hạt giống chết đi--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực
Con người muôn đời vẫn ưu tư về đau khổ và cái chết. Đó là một cản trở lớn cho niềm tin vào Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa toàn năng và thương yêu con người, tại sao người lành phải đau khổ? Bởi đó niềm tin Thiên Chúa cũng gặp bế tắc. Bế tắc đó chỉ có thể được khai thông nhờ Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng đã đem lại cho đau khổ và cái chết một ý nghĩa lớn lao nhờ chia sẻ sâu xa thân phận bi đát của con người. Thân phận con người cũng như hạt giống phải chết đi mới sinh nhiều hoa trái. Đau khổ và sự chết của Đức Giêsu trở thành cần thiết cho một mùa màng lớn lao tức là ơn cứu độ muôn dân. Người chính là hạt giống Thiên Chúa gieo xuống trần gian. Cát bụi trần gian đã vùi lấp con người nhỏ bé của Người. Nhưng người sẽ trỗi dậy, vươn cao như bầu trời, đem niềm hi vọng đến muôn dân.
BỨC TRANH VÂN CẨU
Người Hi lạp ái mộ, “muốn gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết” (Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12:23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hi lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Chúa.
Muốn theo Chúa, tiên vàn “Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (Ga 12,26). Thầy leo lên khổ giá, môn đệ không thể đứng dưới nhìn lên như khách bàng quan. Khi leo lên khổ giá, Thầy sẽ trở thành một sức mạnh thu hút tất cả môn đệ lên theo. “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32). Nghĩa là “Người sẽ kéo các tín hữu đi theo Người lên thập giá bằng cách để cho họ phải bị thù ghét, phải chịu bách hại như Người” (Thánh Kinh Tân Ước 1995:448). Thày đã hi sinh cuộc sống trần gian cho môn đệ. Nếu muốn tiếp tục làm môn đệ Thày, họ không thể không biết đến thang giá trị giữa sự sống trần gian và sự sống vĩnh cửu. Thày nói rõ: “Ai yêu quí mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,25). Tại sao phải hi sinh tới mức đó? Hi sinh như thế có thực tế không? Theo Thầy làm gì cho khổ? Phục vụ Thày có được lợi gì đâu?
Nhưng Đức Giêsu nói: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy” (Ga 12,26). Theo Thầy để bước lên khổ giá, tức là bước vào vinh quang, sẽ chiếm được tình yêu Chúa Cha như Thầy. Đó là điều quả quyết: “Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy” (Ga 12,26). Còn gì giá trị hơn tình yêu của Chúa Cha? Đó là nguồn suối duy nhất phát sinh mọi hồng ân, tự do và hạnh phúc. Chính vì giá trị tuyệt vời đó, Đức Giêsu đã nhận được tất cả sức mạnh để xông vào cuộc chiến với Satan. Người mạnh đến nỗi “giờ đây thủ lãnh thế gian sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12,31).
Dù sao, trong tình thế hiện tại, Đức Giêsu cũng vẫn là con người. Đứng trước cái chết, Thầy cũng cảm thấy luống cuống. “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12,27). Thầy rùng mình kinh khiếp. Tất cả thân thể Thầy nổi da gà. Thầy nhìn vào mình quá kỹ. Bởi thế Thầy không thấy lối thoát. Thày thấy chóng mặt, quay cuồng với những ưu tư về chính mình. Chợt một tia sáng bừng lên dẫn theo một tiếng nổ long trời (Ga 12,29). “Bấy giờ có tiếng từ trời vọng xuống: ‘Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!’ (Ga 12,28). Đó là tiếng Chúa Cha trả lời tâm nguyện vâng phục của Chúa Con (c.28), một sự vâng phục dẫn Đức Giêsu vào màn đêm tăm tối của đau khổ. “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5, 8-9). Nhưng chính lúc đất trời nối liền, quyền lực âm phủ tiêu tan. “Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này” (Ga 12,31), một cuộc phán xét sẽ cho thấy tất cả bộ mặt thật của ác thần. Thật là khủng khiếp!
Đối với những ai vâng phục như Đức Giêsu, không hề có phán xét. Trái lại một giao ước mới, giao ước tình thương sẽ được thiết lập (Gr 31,31). Họ sẽ nghe những lời âu yếm: “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31,33). Như thế một tương quan mới đã được thiết lập. “Chính nhờ đau khổ, cái chết và phục sinh của Đức Giêsu và Thánh Linh hiện xuống, dân Chúa đã bước vào một tương quan mới” (Disciples in Mission 1999:22) với Thiên Chúa tình yêu.
RAU NÀO SÂU ẤY
Cuộc đời Đức Giêsu quả thật như “bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương” (Cung Oán Ngâm Khúc). Nhưng ngược với nàng cung phi bị ngã gục dưới thực tế đau buồn, Đức Giêsu đã trỗi dậy, “đem lại một ý nghĩa mới cho đau khổ và cái chết, vì qua đó, Người đã đem lại ơn cứu độ cho toàn thế giới” (Disciples in Mission 1999:23). Đó là một chiến thắng lớn lao, đem lại nguồn hứng khởi cho nhân loại. Đức Giêsu là một hạt giống đã chết đi, sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24) là cộng đoàn các Kitô hữu. Từ đó, nhờ sự kết hợp với Người, Kitô hữu sẽ cống hiến cho thế giới cả một mùa màng vô cùng tốt đẹp. Nói khác, “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Thầy chính là năng lực, là ý nghĩa sau cùng của mọi nỗ lực thắng vượt đau khổ và sự ác.
Thực ra, tự bản chất, đau khổ vô nghĩa. Sở dĩ đau khổ có ý nghĩa vì đó là một phương tiện để Đức Giêsu chứng tỏ tình yêu của Người với Chúa Cha và nhân loại. Ngày nay vẫn có nhiều môn đệ Chúa Kitô biết lợi dụng những đau khổ như là con đường đi tới vinh quang. Dù phải vào tù hay có thể bị lây nhiễm những bệnh nguy hiểm, họ vẫn một lòng xả thân cho đồng loại. Họ là những người đang chiến đấu cho quyền làm người, đang âm thầm hi sinh cho những người nghèo, chăm sóc những người già, bệnh tật, những trẻ em mồ côi. Không có những gương hi sinh như thế, không biết nhân loại sẽ đi tới đâu.
Những môn đệ Chúa Kitô đó đang nỗ lực thiết lập nền tảng giao ước mới trong lòng mọi người, đang lợi dụng “cơ hội tuyệt vời để khởi đầu xây dựng một mối tương quan vĩnh hằng và thân mật với Thiên Chúa” (xc. Gr 29,11; 32,38-40) (Life Application Study Bible 1991:1345). Họ đang học vâng lời như Đức Giêsu, dù có phải hi sinh chính mạng sống. Chính sự vâng lời ấy sẽ kiện toàn con người và đưa họ tới mức hoàn hảo hay trưởng thành như Đức Kitô. Nói khác, vâng lời không hề gợi lên ý hướng tiêu cực, nhưng hoàn toàn đẩy con người vào một chiều hướng giao ước mới đặt nền tảng trên Đức Kitô (Dt 8,6). Vâng lời như thế, họ sẽ thấy phải “từ bỏ luật lệ khắc nghiệt của cái tôi muốn lấy mình làm trung tâm” (Life Application Study Bible 1991:1905). Trung tâm cuộc đời phải là Thiên Chúa, Đấng giải thoát con người khỏi những ràng buộc của cái tôi cồng kềnh. Rời xa trung tâm đó, con người chìm vào những tham vọng ngông cuồng của văn hoá sự chết, “phủ nhận Thiên Chúa là Đấng tạo dựng sự sống. Khi kinh tế thống trị, người ta đổ xô đi tìmnhững giải pháp dễ dãi như phá thai, chết êm dịu. “(Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03) Tự do không có nghĩa là buông thả. Trái lại, “tự do xây trên chân lý là nền tảng duy nhất bảo đảm xã hội dân chủ tự do. “Chân lý đó là Đức Kitô. Khi xây dựng trên nền tảng đó, “cộng đoàn và gia đình Công giáo chiếu sáng như những mẫu mực của cộng đoàn sự sống và tình yêu để canh tân nền văn hoá hiện đại. “(Igor Kowalewsky: Zenit 4/4/03)
32.Mùa gặt tươi tốt--Lm. Hồng Phúc
Với Phụng vụ hôm nay, Giáo hội đọc lại cho chúng ta những lời ca thán của tiên tri Giêremia, những lời não nuột thống thiết khi đạo quân Babylone bao vây Giêrusalem, dân Chúa lâm cảnh lưu đày. Tuy nhiên, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa tình thương, giữa đêm tối vẫn lóe lên ánh sáng, giữa bao đổ vỡ thất vọng vẫn tái xuất niềm hy vọng. “Đây tới ngày Ta ký kết với dân Ta Giao ước mới, Ta sẽ là Chúa của chúng và chúng sẽ là dân của Ta… Ta sẽ tha tội ác của chúng và sẽ không còn nhớ đến tội lỗi của chúng nữa. “Những lời ấy sẽ thực hiện nơi Chúa Giêsu khi Ngài đến cứu độ chúng ta, sẽ cho “chúng ta uống vào chén tân ước vĩnh cửu, chén máu của Ngài sẽ đổ ra cho chúng ta và nhiều người được tha tội.”
Trong Thư gửi Giáo đoàn Hebrô, niềm hy vọng ấy lại được nhắc lại cho nhóm giáo dân tiên khởi, cũng đang hoang mang run sợ khi nhìn thấy cảnh hoang tàn đổ nát. Từng đoàn người bị phát lưu đi cùng đế quốc, sau biến cố năm 70 thành Giêrusalem bị bình địa, đền thờ bị phá hủy, “không còn hòn đá nào chồng lên hòn đá nào. “Chúa Giêsu, Phaolô viết, “Mặc dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã học vâng phục do những đau khổ Ngài chịu và khi hoàn tất Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho những kẻ tùng phục Ngài. “Chúa đã đi qua con đường sự chết để vào chốn vinh quang và trở nên nguồn gốc ơn cứu độ cho chúng ta hết thảy.
Chúa Giêsu là câu hỏi ngàn đời, cho người Do thái, người ngoại bang cũng như cho chúng ta ngày nay hết thảy.
Hôm nay, Gioan cho biết có một nhóm người Hy lạp đến Giêrusalem trong dịp lễ Vượt qua, tìm cách được gặp Chúa. Họ là những người ngoại bang, nhưng lại có cảm tình với Do thái giáo. Họ đến nhờ hai vị Tông đồ Anrê và Philiphê, hai Tông đồ biết chút ít ngôn ngữ, giới thiệu để được gặp Chúa Giêsu. Gặp đây không phải là chỉ nhìn thấy, nhưng theo từ ngữ của Gioan muốn nói, là được thấu hiểu phần nào con người bí ẩn của Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu không đáp ứng trực tiếp điều họ mong muốn. Nhưng Ngài lại cho họ thấy giờ vinh quang của Ngài, giờ mà Ngài đi vào cuộc tử nạn, mọi người đều thấy. Và để giải thích, Ngài tự ví như hạt lúa gieo vào trong lòng đất, phải được mục nát đi, rồi mới vươn lên, sinh hoa kết quả. Thì xác thánh của Ngài cũng bị chôn vào mồ, rồi mới phục sinh sống lại trong vinh quang.
Theo từ ngữ Thánh Kinh, giờ là cuối điểm của một sứ mạng. “Giờ của người đàn bà” (Gio. 16,21) là giờ sinh đẻ, “Giờ của Chúa Giêsu” là giờ tử nạn vì là giờ Ngài hoàn tất sứ mạng cứu chuộc. Hình ảnh hạt lúa vùi xuống đất, bừng lên đầy nhựa sống là hình ảnh mầu nhiệm phục sinh thì mỗi người chúng ta cũng có một sứ mạng phục sinh. Chúng ta trong đời, có phải là hạt giống hứa hẹn một mùa gặt tươi tốt cho chính mình và cho kẻ khác không?
Gioan không tường thuật cuộc hấp hối của Chúa Giêsu trong vườn Giệtsêmani, mồ hôi chan hoà lẫn máu. Nhưng đã nhìn thấy cuộc ấy diễn ra trong sân đền thờ. Chúa phán: “Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này? Nhưng chính vì thế mà con đã đến trong giờ này. Lạy Cha, xin hãy làm vinh danh Cha. “Và câu trả lời của Chúa Cha đã vang vọng như trong khi Ngài vừa chịu phép rửa và khi Ngài biến hình. Dân chúng xao xuyến. Nhưng Chúa giải thích: “Bây giờ là lúc thế gian bị xét xử… Còn Ta khi bị đưa lên cao khỏi mặt đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta.”
Cây Thánh giá sẽ được tôn vinh, sẽ làm dụng cụ cứu rỗi nhân loại.
Thánh Phanxicô Xaviê khi rao giảng cho dân chúng luôn luôn cầm trong tay một cây Thánh giá lớn. Một hôm đang giảng cho dân từng từng lớp lớp đứng trên bãi biển, mệt quá cây Thập giá rời khỏi tay và rơi tỏm xuống biển. Ngài buồn rầu cầu nguyện. Thì bỗng nhưng có một con cua từ dưới biển bò lên, hai càng gậm cây Thánh giá. Ngài vui mừng cám tạ ơn Chúa. Vị Thánh Quan Thầy xứ truyền giáo ấy đã rửa tội gần một triệu người.
“Tôi mong đợi Chúa, vì Chúa giàu ơn cứu độ
Và giải thoát Israel khỏi mọi gian ác” (Tv. 129 – Đáp ca)
33.Giao Ước và những ràng buộc--Peter Feldmeier--Lm. GB. Văn Hào SDB, chuyển ngữ
“Ai phụng sự ta phải theo ta” (Ga 12,26)
Giao ước khác với hợp đồng. Khi ký hợp đồng, bản ký kết mang tính pháp lý, trói buộc đôi bên vào những nghĩa vụ và quyền lợi. Nếu hợp đồng xuôi thuận, cả hai bên đều có lợi. Nhưng sự cam kết này không mang tính cá nhân riêng lẻ, vì đã được luật pháp công khai bảo hộ. Tôi đã từng ký hợp đồng vay tiền mua xe mà không hề gặp mặt trực tiếp nhân viên ngân hàng. Tôi cũng ký nhiều hợp đồng khác để thuê nhà, nhưng chưa hề giáp mặt với ông chủ của những ngôi nhà đó. Người ta không cần có mặt để ký hợp đồng, vì đã có luật lệ ràng buộc. Nhưng ký giao ước thì hoàn toàn khác, chuyện đó rất riêng tư. Nó chỉ dựa trên sự quen biết hay mối tương giao thân hữu mà thôi.
Khi Đức Chúa Giavê ký giao ước với dân Israel trên núi Sinai, dường như có vẻ rất riêng tư và thân tình. Môise đã lấy máu con vật sát tế để rảy trên dân chúng như một động thái của việc ký kết giao ước, và máu đó thanh tẩy dân chúng. Nhiều người trong dân đã hiểu việc đó, và lề luật được ban bố sẽ gắn kết đời sống họ với Đức Chúa Giavê (Tv 119).
Nhưng khi đọc lại sách các vua quyển thứ nhất và quyển thứ hai, chúng ta thấy các thế hệ về sau, nhiều người trong Israel và cả các lãnh đạo tôn giáo đã dần quên giao ước ngày xưa và họ cũng chẳng bao giờ nhắc đến. Giao ước trên núi Sinai đã không còn hiệu lực để trói cột họ với Thiên Chúa nữa.
Đó là nội dung bài đọc thứ nhất trong phụng vụ hôm nay. Giêrêmia loan báo trước về một giao ước mới, hoàn toàn mới,sẽ được ký kết giữa Thiên Chúa và dân Ngài, thay cho giao ước cũ. “Không giống như giao ước Ta đã ký kết với cha ông các ngươi, khi Ta cầm tay đưa dẫn họ thoát khỏi đất Ai Cập. Vì cha ông các ngươi đã xé bỏ giao ước, mặc dầu Ta là Chúa tể của họ”. Đức Chúa phán như thế. Còn giao ước mới thì khác. Thiên Chúa công bố “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng lề luật của ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của ta. Vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta”.
Giao ước mới này đi vào nội tâm một cách sâu xa hơn. Thiên Chúa khắc ghi giao ước vào tâm hồn, vào con tim của họ, và dân chúng sẽ nhận biết Chúa. Ezekiel và Isaia (Ez 16,59; 36,25; Is 55,3; 59,21; 61,8) cũng nói về giao ước mới, một giao ước diễn bày sự thông hiệp với Chúa, và Thần khí Chúa sẽ khơi dậy nguồn sáng mới trong tâm tư của dân Ngài.
Thánh Phaolô (xem 2Cor 3.5) và tác giả thơ Do Thái (xem 8,8) đều quy chiếu vào Đức Giêsu như là Đấng hiện thực tròn đầy lời hứa của giao ước mới này. Bài giảng trên núi của Đức Giêsu phản ánh lời mời gọi biến đổi nội tâm cách sâu xa, khác với giao ước cũ thời xưa. Khi Đức Giêsu công bố một cách chính thức bản giao ước mới trong bữa tiệc ly, chúng ta sẽ thấy rõ hơn chiều sâu và tính cách nội tâm hóa của giao ước mới. Lời tiên báo năm xưa về giao ước mới, phải rất lâu về sau mới trở thành hiện thực, xuyên qua Đức Giêsu, và cách thái thể hiện giao ước sẽ ngập tràn vinh quang ngời sáng vượt sức tưởng tượng của chúng ta.
Đối với các Kitô hữu, giao ước mới này vừa khai sáng vừa gợi mở ra những thách đố. Đức Giêsu và giao ước mới biểu thị cho lời công bố chung cuộc của Thiên Chúa và ơn cứu độ trường cửu. Sự thách đố này được gợi lên trong tâm khảm và cõi lòng chúng ta, vì giao ước được viết bằng chính máu cứu độ của Đấng Cứu thế. Tôi nhớ lại trong cuốn phim “Người chết đi lang thang” (The Dead Walking), có một mẩu đối thoại rất hay giữa hai nhân vật chính: Nữ tu Helen Prejean và tên tử tội Matthew Poncelet. Poncelet là một con người ngạo mạn, cố chấp không chịu sám hối và luôn tỏ ra hung tợn. Anh ta cũng biết mình là một tín hữu, đã gây nên tội ác, nhưng hắn đã nói với nữ tu Helene là hắn không sợ chết. Anh ta nói: “Giữa tôi và Thiên Chúa không có gì phải ầm ĩ. Tôi biết ông Giêsu đã chết trên Thập giá cho chúng tôi, và nếu tôi có phải ra trước tòa phán xét, thì ông Giêsu cũng sẽ ở đó để cứu tôi. Tôi chẳng cần sám hối làm gì. “Nữ tu Helene trả lời: “Anh Mattheu, không phải thế đâu. Ơn cứu độ không phải là một tấm vé phát không, tặng ban cho cả những ai không muốn đón nhận. Không phải vậy, Đức Giêsu đã phải trả giá rất đắt để đem ơn cứu độ cho chúng ta. Anh phải cộng tác, phải mở lòng ra để cộng tác và đón nhận, thì ơn cứu độ mới phát sinh hiệu quả cho anh. Đó là việc anh phải làm.”
Câu trả lời đó hướng chúng ta đến ý nghĩa của bài Tin mừng hôm nay. Khi gợi nhắc về mầu nhiệm Thập giá và chân tính đích thực của người môn đệ, Đức Giêsu nói với chúng ta “Qủa thật, nếu hạt lúa mỳ rơi xuống đất không chết đi, nó sẽ vẫn chỉ là hạt lúa. Nhưng nếu nó chết đi, nó thối đi, nó sẽ sinh nhiều hạt khác. Ai yêu sự sống mình sẽ mất nó. Ai phụng sự ta phải theo ta”.
Bản giao ước mới này phải đi vào cuộc sống chúng ta, trở nên một phần trong ta và biến đổi tâm hồn của ta. Đối với các Kitô hữu, chúng ta phải tiếp bước dấu chân của Đức Giêsu trên con đường Thập giá, để có thể bội thu trong mùa gặt, ngay trong cuộc sống hôm nay và cả trong cuộc sống mai sau. Ở đây, chúng ta thấy có một nghịch lý tương phản và đối xứng nhau: Bản giao ước mới là một quà tặng vô giá được trao ban một cách nhưng không, nhưng nó cũng đòi hỏi chúng ta phải trả giá, bằng việc chúng ta phải trao dâng tất cả, từ bỏ tất cả, như hạt giống mục thối trong lòng đất, để có thể chiếm hữu được món quà cao quý này.
34.Hạt lúa mì mục nát, trổ sinh hoa trái--Lm. Trần Bình Trọng
"Nếu hạt lúa mì gieo vào lòng đất, không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình, còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác" (Ga 12:24). Thoạt nghe, ta có thể cho rằng đó là lời phát biểu tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Chúa Giêsu không chỉ nói đến cái tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Cái luật đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm hôm nay ghi lại, Chúa cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến, xin cho được thoát khỏi chén đắng nghĩa là được thoát khỏi án tử hình. Tuy nhiên Người cũng cầu nguyện xin cho được vâng theo thánh ý Chúa Cha, tức là chấp nhận cái chết trên thập giá để làm giá cứu chuộc loài người. Qua miệng tiên tri Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế cái giao ước cũ trên núi Si-nai, cái giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá, cũng không phải bằng máu chiên cừu, mà Môi-sen đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh mục chủ tế đọc trong thánh lễ: "Đây là máu tân ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội". Theo thơ gửi tín hữu Do Thái, ta được biết vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của cái giao ước mới. Cái sứ điệp mà Đức Kitô đến để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người từ cõi chết sống lại. Chúa Giêsu với tư cách là Thiên Chúa, không thể chịu đau khổ vá chịu chết. Chúa chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong cái thân xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Chúa cũng sống lại trong cái thân xác loài người của Ngưòi. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Để chia sẻ sự sống mới với Chúa Kitô, ta phải sẵn sàng chết đi với Người. Đó là trường hợp các vị tử đạo đã làm, nghĩa là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như "chia ly là chết cho mình một nửa".
Theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng trả cái giá trong cách sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những sự việc trên làm cản trở cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối liên hệ vơi Chúa, cũng là chet đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ hình của Chúa, người ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2:11).
Theo cái định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Theo cái định luật cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì cái liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả những định luật đó: định luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luât kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
35.Hạt lúa mì mục nát đi, mới trổ sinh bông trái--Lm. Trần Bình Trọng
Danh tiếng Đức Giêsu lúc này đã phải vang dội như sóng bạc đầu, nhất là việc Người vừa làm cho ông Ladarô đã chết bốn ngày sống lại ở Bêtania cách Giêrusalem có hai dậm. Vì thế mà một số người hành huơng Hy lạp xin ông Phi-líp-phê, có tên Hy-lạp cho yết kiến Đức Giêsu, có lẽ với hi vọng được sự thông cảm của người cũng có tên Hy lạp. Ông Phi-líp-phê lại hỏi ý kiến ông An-rê cũng mang tên Hy-lạp. Nhóm người Hy lạp đây không phải là người Do thái nói tiếng Hy lạp, nhưng là người Hy lạp sống ở Do thái, đã phải nghe đồn thổi về việc Ladarô được Đức Giêsu cho sống lại (Ga 12,17). Trước khi đế quốc La mã thống trị Do thái, thì đế quốc Hy lạp đã đặt chân ở đây. Người Hy lạp được tiếng là chuộng triết học, kiến trúc và nghệ thuật. Có lẽ vì những lí do đó mà họ đến viếng thăm Đền thờ Giêrusalem với kiến trúc đồ sộ nguy nga và xin được gặp Đức Giêsu.
Dịp này các thượng tế và nhóm người Pharisêu đang tìm cách hạ sát Đức Giêsu vì họ sợ ảnh hưởng của Người. Phúc âm ghi lại, họ sợ thiên hạ theo ông ấy hết (Ga 12,19). Còn Đức Giêsu thì gián tiếp trả lời nhóm người Hy lạp khi bảo các môn đệ rằng: Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác (Ga 12,24). Thoạt nghe, người ta cho rằng đó là lời phát biểu có tính cách tầm thường, vì ai quan sát cũng đều thấy và biết như vậy. Tuy nhiên Đức Giêsu không chỉ nói đến tiến trình biến đổi của thực vật, như cỏ cây hoa lá mà thôi. Luật đó còn được áp dụng cho cả loài người về đời sống thể lý, tinh thần và thiêng liêng nữa.
Phúc âm còn ghi lại, Đức Giêsu cầu nguyện với tâm hồn xao xuyến: Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha (Ga 12,27-28). Khi Giuđa phản đối việc bà Maria xức dầu thơm cam tùng hảo hạng lên chân Đức Giêsu, Người cũng đã ám chỉ về cái chết của Người khi bảo cứ để bà yên, hầu giữ lại dầu thơm cho ngày mai táng Người (Ga 12,7). Đức Giêsu còn ám chỉ Người sẽ phải chết cách bị treo lên khỏi mặt đất (Ga 12,32), nghĩa là trên thánh giá.
Qua miệng ngôn sứ Isaia, Thiên Chúa đã hứa với dân Người một giao ước mới và vĩnh cửu, để thay thế giao ước cũ trên núi Sinai, giao ước mà dân Chúa đã không tuân giữ. Giao ước mới này không được viết trên bia đá và không phải bằng máu chiên cừu, mà Môsê đã dùng để phê chuẩn giao ước cũ, nhưng được phê chuẩn bằng máu con Thiên Chúa. Đó là ý nghĩa của lời truyền phép mà linh mục chủ tế tuyên xưng trong thánh lễ: Đây là máu Tân Ước vĩnh cửu, sẽ đổ ra cho nhiều người được tha tội. Theo thư gửi tín hữu Do thái, ta được biết vâng lời và chấp nhận khổ giá là một phần của giao ước mới (Dt 5,8-9).
Sứ điệp mà Đức Giêsu đến để công bố trong giao ước mới đưa tới sự chết. Và vì vâng lời, nên Thiên Chúa đã cho Người sống lại từ cõi chết. Xét theo bản tính Thiên Chúa, Đức Giêsu không thể chịu đau khổ và chịu chết. Người chỉ chịu đau khổ và chịu chết trong thân xác loài người của Người mà thôi. Vì thế khi sống lại, Đức Giêsu cũng sống lại trong thân xác loài người của Người. Còn xét về bản tính Thiên Chúa, thì trước sau, Ngôi Hai Thiên Chúa vẫn là một, không hơn không kém, không thêm, không bớt, không thể chết đi, cũng không thể sống lại.
Theo định luật đào thải của bộ máy tiêu hoá, thì cái gì vào, nó phải ra. Nếu không sẽ bị ứ đọng. Còn theo định luật cung cầu của kinh tế, thì có nhập cảng, phải có xuất cảng. Nếu không, quốc gia sẽ không có ngoại tệ. Về đời sống tâm lý và đời sống thiêng liêng cũng có định luật. Khi người ta chỉ sống cho mình, không cho đi, thì mối liên hệ với người khác sẽ bị cằn cỗi, và đời sống liêng liêng sẽ không được vươn lên. Tất cả những định luật đó: định luật tự nhiên, định luật tâm lý, định luật kinh tế, nguyên tắc làm giàu cho đới sống tinh thần và đời sống thiêng liêng đã được Thiên Chúa đặt để trong vũ trụ và trong tâm khảm loài người.
Để chia sẻ sự sống mới với Đức Kitô, ta phải đi theo tiến trình của kiếp sống con người: sinh lão bệnh tử. Trường hợp các vị tử đạo đã làm, là chấp nhận cái chết vì đức tin vào Chúa để được hưởng sự sống mới. Tuy nhiên rất ít người được phúc tử vì đạo. Đa số loài người trải qua cái chết tự nhiên. Ta cũng có thể hiểu cái chết ở đây theo nghĩa bóng. Có những văn sĩ cũng đã dùng quan niệm chết đi theo nghĩa bóng như "chia ly là chết cho mình một nửa" để nói lên sự mất mát về tình cảm và tinh thần.
Như vậy theo nghĩa bóng của cái chết thì người tín hữu phải sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính mê nết xấu, chết đi cho tính tham lam ích kỷ, chết đi cho tính thù hằn giận ghét, chết đi cho tính kiêu căng tự phụ, chết đi cho thái độ sống chết mặc bay để có thể được tham dự vào đời sống mới với Đức Kitô. Sẵn sàng chịu chê cười nhạo báng và chịu bách hại vì tin yêu Chúa là chết đi một phần. Sẵn sàng trả giá trong cách sống, cách nói năng và hành động để làm môn đệ Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Sẵn sàng chịu mất mát, mất bạn bè, mất việc làm, mất địa vị xã hội, nếu những sự việc trên làm cản trở cho bước đường làm môn đệ, làm sứt mẻ mối liên hệ với Chúa, cũng là chết đi cho mình một phần. Nói tóm lại chỉ khi nào người ta tham dự vào cuộc hi sinh khổ hình của Chúa, ta mới có thể chia sẻ cuộc phục sinh vinh hiển với Người (2 Tim 2,11).
Lời cầu nguyện xin cho được chết đi cho tội lỗi:
Lậy Chúa Giêsu! Chúng xin cảm tạ Chúa
đã đến thế gian, chấp nhận hi sinh thánh giá
để cứu chuộc tội lỗi loài người, gồm tội riêng con.
Xin cho con được sẵn sàng chết đi cho tội lỗi
và các thứ tính mê nết xấu
để con được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Amen.
36.Thuốc bất tử--Lm. Trịnh Ngọc Danh
Thời Chiến quốc, có một người đem dâng cho vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, đi ngang qua một viên quan canh cửa. Viên quan này hỏi:
- Vị thuốc này có ăn được không?
Người kia đáp:
- Ăn được.
Tức thì, viên quan giật lấy vị thuốc mà ăn. Chuyện đến tai vua. Vua truyền bắt viên quan đem giết.
Viên quan kêu:
- Thần đã hỏi người đem dâng thuốc là có ăn được không. Người ấy bảo: “ăn được”, nên thần mới dám ăn. Như thế là thần vô tội mà lỗi là ở người dâng thuốc. Hơn nữa, người đem dâng thuốc nói là thuốc “ bất tử”, nghĩa là thuốc ăn vào thì không chết nữa. Thế mà thần mới vừa ăn xong, lại sắp phải chết; vậy là thuốc “tử” chứ đâu phải thuốc “bất tử”? Nhà vua giết thần, thực là oan uổng cho một người vô tội; điều đó có nghĩa là thiên hạ dối lừa nhà vua mà nhà vua vẫn tin.
Nghe nói có lý, nhà vua bèn tha chết cho viên quan.
Một khát vọng
Chẳng ai muốn chết, và ai cũng muốn sống lâu, sống trường thọ; nhưng oái ăm thay! chết lại là số kiếp của con người, ai cũng phải một lần đi qua kết cuộc ấy.
Sống được trên trăm tuổi đã là tuổi hiếm thấy trên thế gian; vì thế người ta mới ghi vào sổ kỷ lục những ai sống trên trăm tuổi: cụ già sống được 110 tuổi một tháng, đạt kỷ lục trường thọ hơn cụ già sống 110 tuổi 20 ngày! Càng về cuối đời, người ta không tính sống được bao nhiêu năm, bao nhiêu tháng nhưng tính hơn nhau từng ngày. Sống lâu trường thọ đến thế là một điều khâm phục, một niềm tự hào. Thọ là một trong ba nguyện ước con người thường cầu chúc cho nhau: Phúc- Lộc- Thọ.
Những mỹ phẩm mà người ta rao bán: làm trẻ mãi không già, thực ra chỉ có thể che lấp đi được những nếp nhăn nheo cằn cỗi trên thân xác, nhưng không thể níu kéo hay xoá đi tuổi già của thời gian. Và giả như ai đó phát minh ra được một thứ thuốc kéo dài tuổi thọ đến 100 hay 200 năm, chắc chắn người ấy sẽ trở thành nhà tỷ tỷ phú, và nếu chế được một thứ thuốc trường sinh bất tử thì chắc người ấy sẽ là người giàu nhất thế giới.
Thế mới biết: làm sao cho được “trẻ mãi không già”, được “sống lâu, bất tử” là khát vọng, nhưng đồng thời cũng là tuyệt vọng của con người.
Muốn sống, phải chết
Người đời bảo: chết là hết; thế mà có một người dám quả quyết: muốn sống, phải chết đi để được sống mà không phải sống trường thọ 2,3 trăm năm mà sống bất tử, sống đời đời: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”. Người ấy là Chúa Giêsu.
Nhưng chết bằng cách nào? Là tự tử? Là hủy hại thân thể? Không. Chết là “thối đi”, là “ghét sự sống ở đời này”; đó là cái chết cho những tiêu cực nơi tâm hồn.
Như thế, chết là hãm mình trước những cám dỗ của dục vọng, của ý riêng, là vượt thắng 7 mối tội đầu, là hy sinh vì 10 điều răn Chúa dạy, là từ bỏ những gì không thuộc ý muốn của Thiên Chúa; vì “Tính xác thịt thì ước muốn những điều trái nghịch với Thần Khí; còn Thần Khí lại ước muốn những điều trái nghịch với xác thịt… Những việc do tính xác thịt gây ra thì ai cũng rõ; đó là dâm bôn, ô uế, phóng đảng, thờ quấy, phù phép, hận thù, bất hòa, ghen tuông, nóng giận, tranh chấp, chia rẽ, bè phái, ganh tỵ, say sưa, chè chén, và những việc khác giống như vậy… Còn hoa quả của Thần Khí là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ”. (Gl 5, 17.19-20.22-23)
Chết là canh tân đổi mới, là cải thiện tâm hồn, là thay đổi não trạng, thay đổi cách suy nghĩ sao cho hợp với thánh ý của Thiên Chúa: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng các đổi mới tâm hồn, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm. 12,2)
Chết là chấp nhận hy sinh, chịu “thối đi” nơi con người thể xác để cho hạt giống đức tin và Tin Mừng có điều kiện nẩy sinh và mang lại nhiều hoa trái cho người và cho đời.
Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ờ đời này”, là người gạt bỏ sự siêu nhiên ra khỏi cuộc đời của người Kitô hữu, không còn tìm thánh ý Chúa, không còn hành động cho sáng danh Chúa; là cho rằng hy sinh, khiêm nhường, nhịn nhục là dại dột, chỉ vâng phục khi nào mình thấy hợp lý, có lợi cho bản thân.
Người không chịu “thối đi”, không dám “ghét sự sống của mình ở đời này” là người chỉ xem hạnh phúc trần thế là cứu cánh của cuộc sống; là người vẫn dự lễ, đọc kinh tối sáng, vẫn làm những công việc bác ái, nhưng cuộc sống của họ lại xa lạ với Tin Mừng. Trọng tâm của cuộc đời của họ là quyền hành, lạc thú, tiền của. Bạn hữu của họ là những người giàu sang quyền thế, ngay cả những kẻ bóc lột, tham nhũng… Họ không nghĩ đến đời sau, bình thản như thể họ sẽ sống muôn đời trên cõi đời này và thiên đàng đối với họ là trần gian.
Đó là những hạt giống không chịu “thối đi”, không chịu mục nát, những hạt giống “sống trơ trọi một mình”, nên không “sinh nhiều bông trái” cho đời, cho người, không manh ích lợi gì cho ai và như thế, cuộc sống của họ “sẽ mất”.
Thuốc bất tử
Phương thuốc bất tử mà Chúa Giêsu muốn mang đến cho con người là: sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1,15).
Trước tiên, phải sám hối, chịu “thối đi”, chịu “mất mạng sống mình” mới chỉ là những thứ chúng ta phải kiêng khem, phải hy sinh, phải hãm mình như người mắc bệnh tiểu đường phải kiêng ăn ngọt, người cao máu phải kiêng ăn mặn.
Kế tiếp, là tin vào Tin Mừng như lời Chúa đã phán: “Ai nghe lời Ta và tin Đấng đã sai Ta, thì được từ cõi chết mà qua cõi sống”. (Ga. 5,24); hay “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời”. (Ga. 6,55)
Tóm lại, bài thuốc bất tử mà Chúa muốn ban cho chúng ta là Thập gía. Chúa Giêsu đã chấp nhận chết đi để trở thành nguồn ơn cứu độ cho nhân loại được nhìn lên Ngài và được sống.
Hạt lúa phải chịu nghiền nát để trở thành cơm bánh nuôi sống con người, thì Chúa Giêsu cũng vậy, Ngài chấp nhận bị nghiền nát trong cuộc tư nạn đau thương để trở thành bánh thánh dâng lên Chúa Cha trên bàn thờ, đồng thời trở nên lương thực nuôi sống chúng ta.
Thập giá đã trở thành ngai Chúa ngự để phán xét và ban sự sống. Ngài chết để đi vào vinh quang của Chúa Cha và trở thành Đấng ban sự sống đời đời cho chúng ta.
Cách thức để đi đến chiến thắng vinh quang lại là cách thức đau thương nhất, khốn cực nhất của trần gian.
Đáp lời kêu gọi của Thầy Chí Thánh: “Hãy đến mà xem”, “Hãy theo Ta”, chúng ta đã “đến mà xem”, đã “theo Thầy”, nhưng còn một điều kiện nữa để được sống bất tử là “vác thánh gía mình mà theo Thầy”, không biết chúng ta đã thực hiện điều kiện ấy chưa! đã chịu “thối đi”, đã “ghét mạng sống mình” được bao nhiêu!
37.Hạt lúa mì--Lm. Phạm Quốc Hưng
Thập giá là hình ảnh được dùng nhiều hơn cả để nhắc chúng ta nhớ đến Chúa Giêsu và tình yêu hy sinh tận tuyệt của Người, cũng như tinh thần mỗi Kitô hữu phải có trong đời sống của mình. Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh khác, dù rất đơn sơ bé nhỏ gần gũi nhưng lại giàu ý nghĩa, để diễn tả tâm tư và lối sống của Người. Chúa Giêsu còn chỉ ra đó tất cả một bí quyết hay một quy luật căn bản mà mỗi Kitô hữu phải theo để trở nên giống Người, để đạt đến ơn cứu độ và vinh quang đích thực.
Đó là hình ảnh hạt lúa mì.
Người nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trụi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt. Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống của mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:23-25). Chúa Giêsu nói những lời này khi Người sắp bước vào Cuộc Thương Khó. Thật thích hợp khi Giáo Hội cho chúng ta được nghe những lời này một tuần trước Chúa Nhật Thương Khó.
Thánh Sử Gioan chia Tin Mừng của người thành hai phần: sách các dấu chỉ và sách vinh quang. Phần sách các dấu chỉ thuật lại các phép lạ của Chúa Giêsu, và phần sách vinh quang thuật về Cuộc Thương Khó và Phục Sinh của Chúa Giêsu. Thánh nhân muốn cho mọi người nhận biết rất rõ rằng: với Thiên Chúa, với Chúa Giêsu, vinh quang đích thực được thể hiện nơi tình yêu hy sinh phục vụ, tình yêu xả kỷ vị tha, tình yêu thí mạng vì người mình yêu. Và chỉ có tình yêu này mới đem lại sự sống thật, sự sống thần linh, sự sống đời đời.
Đây là một quan niệm khác hẳn lối suy tư tự nhiên của con người. Thật vậy, con người tự nhiên bao giờ cũng sống theo bản năng sinh tồn của mình. Với ảnh hưởng của tội tổ, con người nhiều khi sống theo bản năng rừng rú của mình, sống theo luật rừng: mạnh được yếu thua, mạnh dùng sức yếu dùng mưu, miễn sao đem lại ích lợi cho bản thân mình, miễn sao làm cho mình được sống sung sướng, giàu sang, quyền lực, bất chấp luân thường đạo lý, bất chấp thiệt thòi của người khác.
Đây cũng là một quan niệm đi ngược với sự trông mong của người Do thái về “Con Người”, về Đấng Thiên Sai, Đấng Mêsia. Họ nghĩ Đấng Mêsia phải là một lãnh tụ chính trị đầy tài năng và quyền uy, và dùng tài năng và quyền uy của mình để đánh đuổi ngoại bang, chinh phục các dân tộc lân bang, đem lại vẻ vang cho dân tộc được tuyển chọn.
Trong Tin Mừng Gioan, mầu nhiệm nhập thể được đặt làm nền tảng cho toàn bộ công cuộc cứu độ. Sự hiệp nhất giữa thần tính và nhân tính của Ngôi Lời Nhập Thể được diễn tả cách tuyệt vời: Cuộc Khổ Nạn với bao đau thương nhục nhã của Thập Giá bao giờ cũng gắn liền với Cuộc Phục Sinh đầy ánh sáng vinh quang. Vì vậy, khi Chúa Giêsu bắt đầu bước vào Cuộc Khổ Nạn, thì cũng là lúc Người bắt đầu bước vào Vinh Quang hay bắt đầu bày tỏ vinh quang đích thực của Người.
Với Chúa Giêsu, giờ của Chúa là giờ của Cuộc Thương Khó, giây phút vinh quang là giây phút chịu khổ nạn trên thập giá. Với thế gian, thập giá là hình cụ ghê sợ và nhục nhã nhất để trừng phạt những người tử tội. Chúa Giêsu đã biến thập giá thành Thánh Giá, và Thập Giá của Chúa Giêsu chính là Ngôi Báu của Người. Điều này đã được xác định khi Chúa Quan Phòng định cho Philatô ghi trên thập giá hàng chữ: “Giêsu Nazareth-Vua Dân Do Thái”. Giây phút Chúa Giêsu được treo trên thập giá là giây phút Người bước lên Ngôi Báu của Người.
Không phải Chúa Giêsu chỉ chịu đau khổ vì yêu thương khi bắt đầu bước vào Cuộc Khổ Nạn, nhưng đó luôn là đặc nét chính trong cuộc đời Chúa Giêsu. Tác giả Thư gửi tín hữu Do thái trong bài đọc hai đã xác định điều này trong bài đọc hai của Phụng Vụ hôm nay: “Khi còn sống ở đời này, Chúa Kitô đã lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khấn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi chết, và vì lòng thành tín, Người đã được nhậm lời. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã học vâng phục do những đau khổ Người đã chịu, và khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những ai vâng phục Người” (Dt 5:7-9).
Thánh Anphong Liguori thuật rằng có một nữ tu đau đớn bệnh tật rất nhiều năm. Một hôm đau đớn quá, Chị kêu trách Chúa Giêsu: “Xưa Chúa chỉ phải vác thánh giá và hấp hối mấy giờ trên thánh giá, nay sao Chúa để con đau đớn lâu năm thế?” Chúa Giêsu liền hiện ra quở trách Chị: “Con nói sao? Cha chỉ có đau khổ ít giờ mà thôi ư? Cha đã bắt đầu đau khổ từ giây phút nhập thể!” Thánh nhân nói rằng vì có linh hồn hoàn bị, Chúa Giêsu từ giây phút nhập thể đã nhìn thấy và cảm nhận trước nơi linh hồn Người những đau khổ Người sẽ phải chịu trên thân xác sau này.
Vì vậy, Đức Cha Fulton J Sheen hay nói mọi người sinh ra trên đời để sống, nhưng Chúa Giêsu vốn là Thiên Chúa và là Sự Sống Đời Đời sinh ra trên trần gian để chịu đau khổ và chịu chết để đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Vì vậy, cả đời Chúa Giêsu đều hướng về Đồi Canvê, đều hướng về Thánh Giá. Là một nhà giảng thuyết thời danh, Đức Cha còn xác quyết rằng bài giảng nào càng hướng về Thập Giá bài giảng ấy càng có tính thần thiêng.
Liền sau khi nói về quy luật chết để sống, mất để được, Chúa Giêsu liền nói về thân phận của những ai muốn trở thành môn đệ đích thực của Người: “Ai phụng sự Ta, hãy theo Ta, và Ta ở đâu, thì kẻ phụng sự Ta cũng ở đó. Ai phụng sự Ta, Cha Ta sẽ tôn vinh nó” (Ga 12,26). Ở đây, Chúa Giêsu cho thấy các môn đệ đích thực của Người, những ai thực sự phụng sự Người, phải là những người cùng bước theo Người trên con đường thập giá, là con đường chính Người đã đi trước. Và chỉ có những người này, những người cùng ở trên thập giá với Người, mới được cùng ở với Người trên Nước Trời để chia sẻ vinh quang đích thực vì cùng được Chúa Cha tôn vinh.
Chính Thánh Thể nơi Bánh Thánh và Rượu Thánh-trung tâm đời sống Công giáo cũng không ngừng nhắc chúng ta về quy luật thần thiêng này. Để trở nên tấm bánh, những hạt lúa mì phải chấp nhận chịu nghiền tán và hòa trộn với nước rồi chịu nướng trong lò lửa. Để hóa thành rượu nho, những trái nho chín phải chịu vắt trong bồn đạp nho và trải qua thời lên men. Vì vậy, cùng với cầu nguyện, việc hy sinh hãm mình là yếu tố không thể thiếu được trong đời sống Kitô hữu. Một trong những lý do chính đem lại sự suy đồi trong đời sống đức tin của nhiều tín hữu ngày nay là sự khước từ sự khôn ngoan của thập giá, sự chối bỏ tinh thần hy sinh hãm mình và vâng phục.
Bài thánh ca “Thân Lúa Miến” của Mi Trầm được dùng trong phần tiến lễ có giá trị tuyệt vời vì nhắc nhớ chúng ta về lý tưởng hy sinh bác ái, xả kỷ vị tha của đời người Công giáo đích thực.
Thánh Giuse-Maria Escriva đã giúp chúng ta sống Tin Mừng hôm nay với những lời sau: “Nếu hạt lúa không chết đi, nó không sinh hoa trái. Bạn có muốn trở thành hạt lúa miến phải chết đi bằng những hy sinh hãm mình, để đem lại một mùa lúa phong phú không? Xin Chúa Giêsu chúc lành cho ruộng lúa của bạn”.
Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ giúp chúng con biết noi gương Chúa Giêsu, trở nên như hạt lúa mì, chết đi cho ý riêng và những đam mê trần thế, để sống cho Chúa và tha nhân qua việc quảng đại hy sinh hãm mình và yêu thương phục vụ. Amen.
38.Theo Chúa trở nên hạt lúa--MINH HỌA LỜI CHÚA--HN sưu tầm--thanhlinh.net
1. Cái chết được nối dài
Ngày 30 tháng 4 năm 1938, một chuyến xe lửa chạy từ miền bắc xuống miền nam Columbia bất ngờ bị trật đường rầy, làm nhiều người chết và bị thương.
Trong số những người quằn quại nằm đó, có Cha Phênisê thuộc dòng Thánh Gioan. Ngài bị thương nặng, một phần ruột lòi ra ngoài.
Nhận ra Cha, các y tá đã ân cần chăm sóc. Nhưng Ngài ra hiệu cứ đi lo cứu giúp các nạn nhân khác. Rồi lấy hết sức bình sinh, ngài nhét ruột bào, dùng khăn buộc ại và đi tìm những hành khách Công giáo đang bị thương nặng để giải tội cho họ. Được một lúc ngài té xuống. Các y tá chạy lại. Ngài thều thào nói trong đau đớn:
“Cám ơn Chúa đã cho tôi có thời giờ làm những điều cần thiết cho anh em. Bây giờ các cô có thể mang xác tôi đi”.
Chiếc xe cứu thương vội chở cha tới bệnh viện gần đó, nhưng chỉ vài giờ sau Ngài đã trút hơi thở cuối cùng, khi tuổi đời mới ba mươi sáu.
***
Tình yêu và cái chết của Cha Phênisê là một trong muôn vàn tấm gương sáng chói của tình yêu cao cả mà Thiên Chúa đã đổ vào lòng con người.
Cái chết ấy chỉ là nối dài hay đúng hơn là một thể hiện của một cái chết đã trở thành linh hồn của Kitô giáo. Đó là cái chết của Đức Kitô, Đấng đã tự nguyện chết thay cho nhân loại, để nhờ đó nhân loại được cứu sống…
“Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai quý mạng sống mình thì sẽ mất: còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời” (Ga,12,24-25).
Đó là ý nghĩa đặc biệt và cũng là chương trình hành động của người Kitô hữu trong mùa chay. (Trích “Như lòng Chúa khoan dung”).
2. Đau khổ sinh ích cho tôi
Thi sĩ người Anh tên Francis Thompson đã viết:
“Không có gì bắt đầu và kết thúc mà không phải trả giá bằng đau khổ. Vì chúng ta được sinh ra trong đau khổ của kẻ khác và chết trong đau khổ của mình”.
Nhiều người kêu trách Thiên Chúa vì đã để cho đau khổ xảy ra trên trái đất. Tuy nhiên theo Kinh thánh, đau khổ bắt đầu từ tội lỗi đầu tiên của ông bà nguyên tổ. Chính đau khổ do tội lỗi này, Chúa Giêsu đã chấp nhận chết trên thánh giá, để cứu rỗi nhân loại. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm.8,28).
Đau khổ nào sinh ích cho tôi cuộc sống? (Trích “Viễn tượng 2000”)
“Chúa Giêsu không đến để khử trừ đau khổ, nhưng để đổ đầy nó bằng sự hiện diện của Người” (Paul Claudel).
3. Hạt lúa có chết đi
Mấy năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết bài báo nhan đề: “Khi chúng ta dám tin vào Thiên Chúa”. Trong đó bà thuật lại lúc bà bị bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng, nằm liệt giường suốt 6 tháng trời, không ăn uống gì được. Bà chạy thầy chữa thuốc hết cách và nhờ nhiều người cầu nguyện, mà bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Giữa lúc đó, có người tặng bà tập sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo mắc một chứng bệnh suốt 8 năm trường. Ngày ngày ngoài ra việc chữa trị, chị cầu xin Chúa cho chị khỏe lại để giúp việc Chúa. Một hôm chị khóc với Chúa: “Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi. Nhưng nếu Chúa muốn con tàn phế, con xin vâng theo thánh ý Chúa…” Vài tuần sau chị đượng bình phục.
Bà Catherine từ đó noi gương chị nữ tu, hằng ngày cầu nguyện: “Lạy Chúa, con mệt mỏi quá rồi! Nhưng con xin vâng theo thánh ý Chúa…” Và sức khỏe bà bắt đầu hồi phục.
***
Câu chuyện của nữ tu truyền giáo và của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu Lời Chúa trong Tim mừng Chúa nhật hôm nay: “Nếu hạt lúa không chết đi, nó chẳng đem lại hoa trái nào”. Nếu chúng ta không chết cho ý riêng mình, chúng ta cũng chẳng sinh được bông trái…”
Câu chuyện đó cũng nhắc chúng ta nhớ câu chuyện của Chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu khi Người cầu nguyện với Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Lc.22,42), nhờ đó mà chúng ta được cứu rỗi, được sống muôn đời…
Nếu muốn sống và trổ sinh bông trái, chúng ta phải bắt ý riêng chết đi như hạt lúa để sinh được bông trái là hạnh phúc phần xác và cuộc sống vĩnh cửu phần hồn.
Phải chăng đó là điều Chúa mời gọi chúng ta thực hiện trong Mùa Chay. (Theo “Sunday Homilies”).
4. Hạt giống gieo vào lòng đất
Bà và cô cháu gái dang phân loại hạt giống, chuẩn bị cho vụ mùa tới. Cô bé nhận xét khi kiểm tra những hạt giống trong tay:
- Những mong đợi nhỏ bé và mong manh phải không bà? Có phải mỗi hạt là một niềm hy vọng không?
- Phải, mỗi hạt là một niềm hy vọng. Nhưng vì là hy vọng, cần có những điều kiện để đi tới thành đạt.
***
Chúa cho chúng ta niềm hy vọng được an bình mỗi khi đau khổ, được sức mạnh khi thử thách, được ánh sáng cho những ngày đen tối. Nhưng chúng ta phải có niềm tin và can đảm tiến về phía trước.
Hạt giống nhỏ bé phải chịu chôn vùi trong đất và phơi mình dưới mưa nắng, thì khả năng tốt đẹp của nó mới thành hiện thực. (Trích “Minh họa Lời Chúa)
Hạt giống gieo xuống đất phải thúi đi mới sinh nhiều bông hạt.
Apraham tin Chúa đem sát tế con một, được Chúa cứu sống con ông và được ban phát tràn đầy, cho dòng dõi đông đúc như sao trên trời, như cát dưới biển.
Chúa Giêsu chịu sát tế trên Thập giá, bao nhiêu người được cứu độ.
Mùa Chay là mùa chết cho tội lỗi, để được sống lại nên người mới, người hoàn hảo hơn, xứng đáng làm người con Chúa hơn.
5. Ai là hạt lúa?
Sau khi lật đổ đươc nhà độc tài là tổng thống Marcos nước Phi-luật-Tân, dân chúng lũ lượt kéo nhau đi xem dinh tổng thống, nơi mà hai ông bà Marcos đã sống đế vương hơn 20 năm. Mọi người đã dở khóc dở cười sau khi tận mắt nhìn thấy cảnh giàu sang sung sướng của cặp vợ chồng bạo chúa. Nhiều người bưng mặt khóc sướt mướt khi đứng trước cuộc sống xa xỉ của ông bà Marcos, trong khi biết bao người phải đói khát,, không cửa không nhà, không đủ cơm ăn áo mặc!...
***
Giàu sang tự nó không phải là một tội. Nhưng làm giàu trên xương máu của người khác đúng là một tội ác tầy trời. Thay vì mình phải hy sinh làm hạt lúa thúi đi để trổ sinh nhiều bông hạt nuôi sống tha nhân, thì lại bắt đồng bào mình phải làm hạt lúa chết đi để bản thân mình được sống giàu sang xa xỉ.
Muốn trở nên Bánh Sự Sống cho nhân loại, Chúa Giêsu đã phải nghiền nát. Chúng ta ăn bánh sự sống đó mà không biết hy sinh cho anh chị em chúng ta sao? Chúng ta đã nhận lãnh Bánh Tình yêu, nhưng lại không muốn chia sẻ tình yêu với anh chị em chúng ta sao?
Mùa Chay, Chúa mời gọi chúng ta noi gương Chúa trở nên hạt giống thúi đi, để đem lại bông trái cho anh chị em chúng ta được hưởng.
(Theo “Tất cả là hồng ân”).
1) SẴN SÀNG CHỊU CHẾT ĐỂ BẠN TÙ ĐƯỢC SỐNG
Vào năm 1941, tại nhà tù Ốt-suýt (Auschiwits), một trại tập trung của Đức Quốc Xã nổi tiếng tàn bạo và khủng khiếp nhất, có một tù nhân vượt ngục vào đêm hôm trước. Theo qui định của nhà tù, sáng sớm hôm sau viên sĩ quan coi tù đã tập họp tất cả tù nhân lại và lần lượt chọn ra 10 người phải chịu chết thay cho kẻ đào thoát. Một trong những người bị tử thần điểm danh ấy, khi được gọi tên, đã kêu to lên rằng: “Trời ơi! Thế là hết! Tôi sẽ không bao giờ còn gặp lại vợ con tôi nữa!”. Tiếng kêu than tuyệt vọng của anh khiến cho nhiều tù nhân phải rơi lệ. Bấy giờ một tù nhân liền tách ra khỏi hàng ngũ tiến đến gần viên sĩ quan chỉ huy để xin chết thay cho người bạn tù kia. Ông tự xưng là Mắc-xi-mi-li-a-nô Kôn-bê (Maximiliano Kolbe), một linh mục Công giáo. Lý do xin chết thay vì ông là linh mục đã tình nguyện sống độc thân, ông cảm thương người kia còn có vợ con phải chăm sóc. Sau khi được chấp thuận, Cha Kôn-bê cùng 9 bạn tù đi hàng một tiến về phía hầm chết đói. Tại đây, Cha và các bạn tù sẽ phải nhịn đói đến chết. Trong thời gian này Cha luôn động viên mọi người kiên vững đức tin và cậy trông phó thác cuộc đời trong tay Chúa Quan Phòng. Cha giúp họ can đảm chấp nhận cái chết mà không oán than, không chửi bới kêu khóc như nhiều người đã làm khi gặp hoàn cảnh tương tự. Cha là người sống dai nhất trong lúc các bạn tù đều lần lượt chết vì đói khát. Sau hai tuần lễ, Cha đã bị chích thuốc độc cho chết hẳn trước khi bị hỏa táng làm phân bón!
Người tù nhờ Cha Kôn-bê thoát chết tên là Phăng-xít (Francis Gap Wniczeck) về sau đã kể lại tình trạng nhà tù vào lúc đó như sau: “Sau khi Cha Kôn-bê tình nguyện chịu chết thay tôi thì tinh thần của các tù nhân trong trại giam biến đổi hẳn. Trước đây họ thường ích kỷ, khép kín, bắt nạt người mới và yếu thế hơn để tranh dành thực phẩm tiếp tế... thì bây giờ họ đã đối xử với nhau trong tình thân ái, nhường cơm xẻ áo cho nhau. Ai cũng cảm phục và muốn noi gương vị linh mục đã dám hy sinh tính mạng chết thay cho một người không quen biết.
2) GIÁ ĐẮT PHẢI TRẢ CHO THÁI ĐỘ VÔ CẢM:
Ở bên Trung Quốc, một chiếc xe buýt 16 chỗ chở đầy khách đang chạy trên đường đồi. Trên xe, ba tên côn đồ có vũ khí đã để mắt tới cô tài xế xinh đẹp. Đến khúc đường rừng, chúng ép cô tài xế phải lái xe vào bìa rừng và dừng xe lại. Tên cầm đầu bắt đầu có hành vi sàm sỡ với cô gái trước sự chứng kiến của hành khách trên xe. Khi bị tấn công, cô tài xế đã la hét cầu cứu, nhưng hầu như tiếng kêu cứu của cô chỉ được đáp lại bằng sự im lặng.
Bỗng một người đàn ông trung niên với dáng vẻ gầy yếu ngồi gần tài xế đã lên tiếng yêu cầu tên cầm đầu dừng tay, nhưng ông liền bị hai tên kia đánh đập tàn nhẫn. Ông càng lớn tiếng kêu gọi mọi người ngăn cản hành động man rợ kia lại, nhưng không một ai hưởng ứng. Sau đó cô tài xế đã bị bọn côn đồ lôi vào bụi rậm gần đó và để lại một tên cầm súng ra lệnh cho mọi hành khách phải ngồi yên trên xe.
Một giờ sau, bọn cướp đưa cô tài xế áo quần sốc xếch quay lại xe để tiếp tục cuộc hành trình... Trước khi nổ máy cho xe chạy, cô tài xế yêu cầu người đàn ông khi nãy đã bênh vực cô như sau: "Này ông kia, yêu cầu ông xuống xe đi!". Người đàn ông ngạc nhiên nói: "Cô làm sao thế? Tôi là người duy nhất đã lên tiếng bênh vực cô mà. Chẳng lẽ tôi đã làm sai hay sao?"
Cô gái vẫn tỏ ra cương quyết: "Nếu ông không xuống, tôi sẽ không cho xe chạy. “Điều bất ngờ là các hành khách trước đó đã im lặng thì bây giờ lại nhao nhao đòi người đàn ông kia phải mau xuống xe. Thậm chí hai hành khách trẻ còn hè nhau lôi người đàn ông ra khỏi xe và chiếc xe tiếp tục cuộc hành trình. Cô tài xế vuốt lại mái tóc và vặn radio to hết cỡ. Chiếc xe đã lên đến đỉnh đồi và bắt đầu đi xuống sườn đồi. Phía tay phải đường đèo là một vực thẳm sâu hun hút. Tốc độ chiếc xe buýt tăng dần. Gương mặt cô lái xe trở nên căng thẳng, hai tay cô giữ chặt vô lăng và hai hàng nước mắt trào ra. Nhận thấy có điều không ổn, tên cầm đầu liền nói với cô tài xế: "Chạy chậm thôi, cô đang làm gì thế hả?" Cô tài xế không nói tiếng nào và tiếp tục nhấn ga cho xe chạy mỗi lúc một nhanh hơn. Tên côn đồ đã cố giành lấy vô lăng, nhưng chiếc xe đã lao lên lề đường và rơi xuống vực như tên bắn.
Hôm sau, môt tờ báo địa phương đã loan tin một tai nạn thảm khốc đã xảy ra ở vùng "Phục Hổ Sơn": Một chiếc xe cỡ trung đã rơi xuống vực sâu. Tài xế và 14 hành khách trên xe đều thiệt mạng. Trong thành phố, một người đàn ông đã đọc được bản tin và bật khóc!
1) Mầu nhiệm hạt lúa trong thiên nhiên:
Hôm ấy, một bác nông dân đã mang thóc giống đi gieo trên ruộng của mình. Đang khi gieo thì trời bỗng nổi cơn giông. Nhiều hạt giống gieo đã rơi xuống ruộng, nhưng cũng có những hạt bị cơn gió mạnh thổi bay lên mặt đường. Các hạt giống nằm trên đường cảm thấy mình thật diễm phúc khi nằm ở nơi khô ráo, đang khi bao hạt giống khác bị ngụp lặn dưới lớp bùn đên nhão nhét trong ruộng. Các hạt giống trên đường liền nói với các hạt nằm dưới bùn đen như sau: "Các bạn thật đáng thương! Trong lúc chúng tớ được nằm ở nơi khô ráo sạch sẽ, thì các bạn lại phải ngụp lặn dưới lớp bùn đen nhơ bẩn!”
Hạt lúa vừa dứt lời thì bỗng bị một bàn chân người giẫm đạp khiến nó gãy thành ba đoạn. Sau đó, nó lại bị một chiếc xe cán qua nát thành bột trên đường và một cơn gió ào tới thổi bay tứ tán. Những hạt lúa còn nằm lại đã trở thành mồi ngon cho lũ chim chóc và bầy chuột gặm nhấm!
Đang khi đó, từ những hạt lúa tưởng chừng bất hạnh kia chỉ ít ngày sau đã ngoi lên thành những chồi non đầy sức sống và trở nên những cây lúa cứng cáp. Cây lúa lớn dần và không đầy ba tháng sau đã bắt đầu trổ sinh bông lúa với hàng trăm hạt lúa khoe mình dưới ánh nắng mặt trời, và được vinh dự trở nên lương thực nuôi sống loài người. Từ một hạt lúa đơn độc ban đầu, cuối cùng nó đã biến thành trăm hạt lúa mới sau một quá trình biến đổi âm thầm!
Tin Mừng Gio-an hôm nay diễn tả hạt lúa bị mục nát trước khi biến thành cây lúa mang lại mùa gặt bội thu như sau: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quí mạng sống mình ở đời này thì sẽ mất. Còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12,24-25).
39.Hạt lúa phải được vùi xuống đất để sinh nhiều bông hạt--Lm. Vũ Thái Hoà
Bài Tin Mừng hôm nay được đặt trong bối cảnh ngay sau khi Đức Giêsu vào đền thánh Giêrusalem dự lễ Vượt Qua, được dân chúng cầm nhành lá thiên tuế tiếp đón và tung hô. Vì thế những người Pharisêu bảo nhau: "Các ông thấy chưa: các ông chẳng làm nên trò trống gì cả! Kìa thiên hạ theo ông ấy hết!" (c.19). Bằng chứng là, theo câu đầu của Bài Tin Mừng Chúa nhật hôm nay, có một số người Hy Lạp đến gặp ông Philípphê để xin cho "được gặp ông Giêsu".
Chúa Giêsu trả lời họ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!" Giờ vinh quang của Con Người chính là giờ của thập giá, giờ Đức Giêsu vâng lời Chúa Cha hoàn tất công cuộc cứu thế. Chúng ta tưởng như Đức Giêsu không màng tới mấy người Hy Lạp muốn đến gặp Người, nhưng thực ra Người muốn trả lời với họ một cách sâu xa rằng: qua sự tôn vinh của Người, nghĩa là qua cuộc Thương Khó của Người, không những các người Hy Lạp, mà tất cả các dân tộc trên thế giới "được gặp Đức Giêsu", được lãnh ơn cứu độ: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. “Đức Giêsu chính là hạt lúa gieo xuống đất: nhờ cuộc khổ nạn và cái chết của Người mà toàn thể nhân loại được cứu độ. Đức Giêsu không những chiến thắng sự chết, nhưng quan trọng hơn nữa, chính qua sự chết, Người ban sự sống: "Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Nếu trước đó tội lỗi và sự chết lôi kéo con người xuống, thì giờ đây, thập giá của Đức Kitô sẽ lôi kéo mọi người lên và ban ơn cứu độ cho toàn nhân loại.
Đức Kitô kêu mời mỗi người chúng ta theo gương Người, trở thành như hạt lúa: cần phải được vùi xuống đất, chết đi để sinh nhiều bông hạt. Không phải chết về thể xác, nhưng chết về những tính xấu trong con người của chúng ta: ích kỷ, kiêu căng, bất công, thù oán... Nhờ bí tích Thánh Tẩy, chúng ta đã được dìm vào trong nước thanh tẩy, nghĩa là được dìm trong cái chết của Đức Kitô và cùng sống lại với Người, sống một đời sống mới (Rm 6,3-5).
Trong đời sống mới này, chúng ta có thể nói như thánh Phaolô: "Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi" (Gl 2,20). Là môn đệ của Đức Kitô, chúng ta cần phải theo sát gót Người: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quí trọng người ấy". Theo Thầy Chí Thánh vác thập giá mỗi ngày, hy sinh quên mình phục vụ tha nhân, ngay cả đến việc hy sinh mạng sống của mình vì Đức Kitô.
Ước gì, trong Mùa Chay thánh này, chúng ta sống như hạt lúa: biết hoán cải lòng mình để sống thánh thiện hơn, mến Chúa hơn, và sống bác ái hơn với mọi người, để chuẩn bị tích cực mừng đại lễ Phục Sinh sắp tới.
40.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh, BVL
Cuộc Vượt Qua của Vị Thiên Chúa Làm Người được bắt đầu từ lúc nào?
Tại sao Chúa Giêsu không trả lời?
Nếu các bài Phúc Âm ba Chúa Nhật Mùa Chay trước Chúa Nhật Thương Khó hay Chúa Nhật Lễ Lá, như đã nhận định ở hai bài suy niệm Chúa Nhật 3 và 4 trước đây, có một ý nghĩa đặc biệt liên hệ với nhau, chẳng những ở từng chu kỳ mà còn ở cả ba chu kỳ với nhau nữa. Riêng chu kỳ Năm B này, chúng ta thấy các bài Phúc Âm theo Thánh Ký Gioan được Giáo Hội chọn rất hợp với những gì Chúa Giêsu tiên báo cho các môn đệ biết về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua bao gồm ba phần khổ nạn, tử giá và phục sinh (x Mk 8:31, 9:31, nhất là 10:34). Trước hết, về phần khổ nạn, Chúa Giêsu cũng đã xác nhận ở bài Phúc Âm Chúa Nhật 3, khi Người thách dân Do Thái “hãy cứ phá đền thờ này đi, nội trong ba ngày Tôi sẽ dựng lại”. Qua câu tiên báo này, dĩ nhiên Chúa Giêsu cố ý nói đến cuộc Vượt Qua của Người nói chung, thế nhưng, nếu so sánh với những gì Người sẽ tỏ cho biết thêm ở hai bài Phúc Âm Chúa Nhật 4 và 5, Người cũng có ý nói đến riêng việc thân xác Người sẽ bị hành hạ bởi đòn vọt, nhục nhã v.v. Sau nữa, về phần tử giá, Chúa Giêsu báo trước trong bài Phúc Âm Chúa Nhật 4, khi Người cho Nicôđêmô biết rằng Người sẽ bị đóng đanh vào thập tự giá: “Moisen treo con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ bị treo lên như vậy”. Sau hết, về phần phục sinh, Chúa Giêsu cũng bóng bẩy nói đến trong bài Phúc Âm Chúa Nhật thứ 5 tuần này, khi Người nói với các môn đệ của Người về hình ảnh hạt lúc miến mục nát đi để sinh muôn vàn hoa trái, ở chỗ, Người chiến thắng quyền lực của tên vương chủ thế gian và làm cho con người tin tưởng nhận biết Người, như Người cho biết ở đoạn cuối của cùng bài Phúc Âm.
Thế nhưng, để làm cho nhân loại nhận biết Người, tức để làm cho cuộc Vượt Qua của Người như hạt lúa miến mục nát đi trổ sinh hoa trái, Người cần đến những chứng nhân, thành phần sẽ được Người ban cho Thánh Linh và sai đi rao giảng Tin Mừng cho tất cả mọi tạo vật tới tận cùng trái đất (x Jn 20:22; Mk 16:15; Acts 1:8). Đó là lý do chúng ta thấy trong bài Phúc Âm hôm nay, Chúa Giêsu đã liên kết số phận của thành phần môn đệ chứng nhân của Người với chính thân phận hy sinh và Mầu Nhiệm Vượt Qua của Người. Đúng thế, nếu bài Phúc Âm tuần thứ 3 Chúa Giêsu nói với chung dân Do Thái (thành phần sau này vu oan cho Người để Hội Đồng Do Thái viện cớ sát hại Người – Mt 26:61) về việc khổ nạn của Người, và nếu bài Phúc Âm tuần thứ 4 Người nói với Nicôđêmô (nhân vật sau này sẽ giúp vào việc táng liệm Người trong mồ đá – Jn 19:39) về việc tử giá của Người, thì bài Phúc Âm tuần thứ 5 tuần này Người nói với các môn đệ (thành phần được kêu gọi làm chứng nhân cho Người – Jn 15:27) về việc phục sinh sau khi Người trải qua khổ nạn và tử giá. Chúa Giêsu quả thực đã liên kết thân phận của các môn đệ với thân phận của Người trong bài Phúc Âm hôm nay, ở chỗ, ngay sau khi nói đến thân phận của Người như hạt lúa miến là thân xác của Người được gieo xuống và mục nát đi ở mảnh đất Do Thái, Người liền nói ngay đến nguyên tắc chung để có thể theo Người, theo một Đấng Vượt Qua, đó là: “Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình trên thế gian này thì giữ được nó cho sự sống trường sinh”. Sau đó, Người áp dụng nguyên tắc hay Đường Lối Vượt Qua này vào trường hợp môn đệ của Người, vì bấy giờ Người đang nói với các vị: “Ai phụng sự Thày thì hãy theo Thày, để Thày ở đâu, thì tôi tớ của Thày cũng ở đó”. Vấn đề “ở đâu” của Chúa Giêsu và “ở đó” của những ai theo Người, phục vụ Người đây, theo chiều hướng của bài Phúc Âm hôm nay, thì còn chỗ nào khác ngoài trên cây thập giá và trong mồ đá: “Họ tinh tuyền và theo Con Chiên đến bất cứ nơi nào Con Chiên tới” (Rev 14:4); “Tôi tớ không hơn chủ của mình. Họ sẽ bắt bớ các con như đã bắt bớ Thày” (Jn 15:20). Tuy nhiên, chính nhờ thân phận trò hoàn toàn giống Thày như thế mà thế gian mới nhận biết Thày nơi họ, nơi chứng từ đẫm máu của họ.
Phải chăng đó là lý do, khi các môn đệ (Philip và Anrê) đến trình với Chúa Giêsu về điều các người Hy Lạp muốn xin được gặp Người, Người đã không trả lời với họ qua hai môn đệ này dứt khoát là Người có muốn gặp những người dân ngoại ấy hay không, mà lại lợi dụng dịp ấy để nói với các môn đệ về cuộc Vượt Qua của Người, một cuộc Vượt Qua sẽ được thành phần môn đệ của Người, thành phần tôi tớ phục vụ Người, tham dự (x Jn 13:8;13:36;14:3), điển hình nhất là trường hợp của tông đồ Phêrô như được Người cho biết trước bên bờ hồ Tibêria (x Jn 21:18). Qua thái độ và lời lẽ của Chúa Giêsu trong bài Phúc Âm hôm nay, chúng ta cảm thấy hình như Chúa Giêsu muốn nói với các môn đệ là Người thực sự và hết sức muốn gặp gỡ thành phần dân ngoại, thành phần chưa hề biết Người, nhưng Người sẽ không trực tiếp gặp họ, như Người vốn trực tiếp gặp gỡ dân Do Thái của Người với tư cách là một Đức Kitô Thiên Sai theo như những gì đã được Thánh Kinh của dân tộc này nói tới, mà là gián tiếp qua các môn đệ, thành phần chứng nhân của Người, thành phần có khả năng dẫn loài người đến với Người, đến gặp Người bằng đức tin của họ. Và, nếu cuộc tử nạn của Chúa Giêsu như hạt lúa miến mục nát đi sinh nhiều hoa trái thế nào, thành phần môn đệ chứng nhân của Người cũng thế, cũng trổ sinh hoa trái nơi việc tái sinh các linh hồn như vậy. “Ai phục vụ Thày sẽ được Cha tôn vinh” là ở chỗ này, như lời Chúa Giêsu nói tới trong bài Phúc Âm hôm nay, ngay sau khi Người nói đến việc Thày trò cùng ở một nơi, chịu chung số phận Vượt Qua.
Tuy nhiên, tại sao ngay sau khi nói câu ấy, tức sau khi nói về thân phận Vượt Qua của cả Thày lẫn trò, Chúa Giêsu liền thảm não than lên: “Giờ đây linh hồn Thày bối rối chẳng biết phải nói sao – Chẳng lẽ Cha ơi, xin hãy cứu Con khỏi giờ này? Thế nhưng, cũng chính vì giờ này mà Con đã đến. Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha!”. Phải chăng, như trong Vườn Cây Dầu Người đã đau buồn đến nỗi chết được, đến nỗi xuất mồ hôi máu vì nghĩ đến thành phần hư đi thế nào, thì ở đây, vào lúc ấy, Chúa Giêsu nghĩ đến một tông đồ Giuđa vô cùng đáng thương sẽ bị hư đi (x Jn 17:12), vì người tông đồ này chẳng những ra tay phản nộp Người mà còn tuyệt vọng tử tử (x Mt 27:5) bởi không tin tưởng vào lòng thương xót tha thứ vô biên bất tận của Người như tông đồ Phêrô (x Mt 26:75). Cái đau khổ tận cùng của Vị Thiên Chúa Làm Người ở đây đó là bị loài người phủ nhận tình yêu thương toàn thiện, nhưng không, tận tuyệt và vô đối của Người, ở chỗ, họ không tin rằng Người có thể yêu thương họ đến như thế, một tình yêu Người giành cho từng người một, và tìm kiếm cho bằng được con chiên lạc duy nhất để mang về đàn của Người (x Lk 15:1-7). Thế nhưng, cũng như trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu đã chấp nhận uống cạn chén đắng vô cùng đau xót ấy.
Câu trả lời của Chúa Kitô là…
Như thế, nếu nỗi đớn đau vô cùng nhức nhối này cũng là những gì thuộc về cuộc Khổ Nạn hay Tử Giá của Con Thiên Chúa Làm Người, thì không phải cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người chỉ được bắt đầu từ khi Người bị bắt trong Vườn Cây Dầu (x Jn 18:12), mà là được bắt đầu ngay từ khi Lời Nhập Thể, ngay từ khi Thiên Chúa Làm Người để Người có thể, qua nhân tính của nhân loại, cảm thấy cái xót xa của mình bằng con tim nhân loại, khi bộ óc của Người nghĩ đến tương lai của thành phần hư đi, và bộc lộ cái chua xót của mình nơi môi miệng loài người “bằng những lời than khôn tả” (Rm 8:26; x Jn 12:27; Mk 14:36). Nói một cách chính xác và thực tế hơn nữa thì cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô được bắt đầu từ lần đầu tiên khi Người tiết lộ cho các môn đệ biết về Cuộc Vượt Qua của Người (x Mk 8:31), và được bắt đầu từ chính tâm hồn của Người, một tâm hồn đã bị quằn quại bởi những giây phút “buồn rầu đến nỗi chết được” (Mt 26:38), những giây phút “linh hồn Thày hiện nay bối rối chẳng biết phải nói làm sao”, như Người đã thú thực trong bài Phúc Âm hôm nay. Và Cuộc Vượt Qua đã xẩy ra trước tiên ngay trong tâm hồn của Người, khi Người mong cho ý Đấng đã sai Người được nên trọn, như Người đã ngoan ngoãn thân thưa với Cha Người trong bài Phúc Âm hôm nay: “Lạy Cha, xin hãy tôn vinh danh Cha”, một thái độ Vượt Qua của Người Con đẹp lòng Cha đến nỗi, khi nghe thấy như vậy, theo Phúc Âm Thánh Gioan thuật lại, “bấy giờ từ trời có tiếng phán: ‘Cha đã tôn vinh danh Cha rồi và sẽ còn tôn vinh danh Cha nữa’”.
Thiên Chúa “tôn vinh danh” của Ngài đây nghĩa là gì và ra sao, nếu không phải Người muốn tỏ cho riêng dân Do Thái và chung loài người (mà đám đông trong bài Phúc Âm hôm nay cho thấy có cả dân Do Thái và những người Hy Lạp dân ngoại) biết Ngài thực sự là gì và như thế nào, như Ngài đã mạc khải tên của Ngài cho Moisen biết ở bụi cây bốc lửa song không bị thiêu rụi (x Ex 3:14), một danh xưng Ngài đã tỏ cho dân Do Thái biết tỏ tường qua cuộc vượt qua của họ, từ tình trạng họ bị làm tôi người Ai Cập cho tới khi vào Đất Hứa. Nếu danh Thiên Chúa là tất cả những gì diễn tả bản tính vô cùng chân thiện của Ngài, như Ngài đã từ từ tỏ ra cho dân Do Thái biết theo giòng Lịch Sử Cứu Độ của họ cho đến khi Lời Nhập Thể là “hiện thân của bản thể Cha” (Heb 1:2) xuất hiện, thì việc Thiên Chúa tôn vinh danh Ngài đây, theo ý nghĩa của bài Phúc Âm hôm nay nói riêng, cũng chính là việc Ngài tôn vinh Con Ngài, như Con Ngài đã thân thưa với Ngài khi mở đầu Lời Nguyện Hiến Tế kết thúc Bữa Tiệc Ly: “Lạy Cha, giờ đã đến rồi! Xin Cha hãy tôn vinh Con Cha để Con Cha được tôn vinh Cha” (Jn 17:1). Vậy nếu Thiên Chúa tôn vinh danh mình là tôn vinh Con Ngài như thế thì “Cha đã tôn vinh danh Cha rồi”, như trong bài Phúc Âm nói đên đây là lúc nào, nếu không phải là hai lần điển hình được các Phúc Âm Nhất Lãm kể lại, lần thứ nhất ở sông Dược Đăng khi Chúa Giêsu chịu phép rửa thống hối bởi Tiền Hô Gioan Tẩy Giả (x Mk 1:11), và lần thứ hai ở trên núi biến hình (x Mk 9:7). Và “Cha sẽ còn tôn vinh nữa” đây sẽ là lúc nào và ra sao, nếu không phải lúc Cha làm cho Con sống lại từ trong kẻ chết (x Acts 2:24), làm cho Con trở thành “hoa trái đầu mùa của kẻ chết để Con được toàn quyền trong hết mọi sự” (Col 1:18; x Mt 28:18).
Vấn đề ở đây là tại sao Thiên Chúa cần phải tôn vinh danh Ngài? Theo bài Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cho biết đó là để cho con người biết: “Tiếng phán đó không phải vì Tôi mà là vì quí vị”. Bởi vì, có nhận biết Thiên Chúa như Ngài là, qua Mạc Khải Thần Linh của Ngài nơi Cựu Ước cũng như Tân Ước, con người mới được sự sống trường sinh, mới được hiệp thông với Thiên Chúa. Thế nhưng, để con người có thể nhận biết danh của Vị Thiên Chúa chân thật duy nhất này, Lời Nhập Thể là Chúa Giêsu Kitô cần phải “tỏ Cha ra” (Jn 1:18). Ở chỗ nào, nếu không phải bằng việc Người đến không phải để làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai (x Jn 6:38), tức là “Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá” (Phil 2:8), “để trở nên căn nguyên phần rỗi đời đời cho những ai tín phục Người” như được Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai hôm nay xác tín (Heb 5:9), cũng là những gì chính Người đã khẳng định tiên báo ở câu cuối cùng của bài Phúc Âm hôm nay: “Một khi Tôi bị treo lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo tất cả mọi người lên cùng Tôi”. “Tất cả mọi người” được Chúa Kitô Tử Giá “kéo lên” đây nghĩa là gì, nếu không phải là tất cả mọi người, dù là kẻ dữ, thành phần hư đi đời đời, đặc biệt trong ngày chung thẩm, đều nhìn nhận chân lý đã được Chúa Giêsu mạc khải cho Nicôđêmô trong bài Phúc Âm tuần trước, một chân lý cũng đã được Người chứng thực hùng hồn nhất và sống động nhất trên Thập Giá: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Người Con duy nhất của Ngài, để ai tin vào Con sẽ không bị chết song được sự sống đời đời. Thiên Chúa không sai Con Ngài đến để thế để luận phạt thế gian, song để thế gian nhờ Con mà được cứu độ”.
41.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay năm B được cấu trúc theo cùng một nét chung: ở giữa những nỗi xao xuyến vang lên một tiếng kêu tràn đầy hy vọng.
Gr 31: 31-34
Khi Thành Thánh Giê-ru-sa-lem bị tàn phá và Đền Thờ bị thiêu hủy, ngôn sứ Giê-rê-mi-a công bố rằng không có gì phải mất cả: “Này sẽ đến ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một Giao Ước Mới”. Đức Giê-su lấy lại diễn ngữ nầy khi thiết lập bàn tiệc Thánh Thể: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25).
Dt 5: 7-9
Thư gởi tín hữu Do thái nhắc nhớ rằng Đức Giê-su cảm thấy xao xuyến tận đáy lòng trước tấn thảm kịch của sự chết, nhưng nhờ cái chết của Ngài, “Đức Giê-su trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu” cho tất cả những ai tùng phục Ngài”.
Ga 12: 20-33
Tin Mừng Gioan gợi lên rằng trước cuộc Tử Nạn gần kề của Ngài, Đức Giê-su xao xuyến, nhưng rồi trấn tỉnh khi nghĩ đến cuộc chiến thắng vinh quang của Ngài trên Xa-tan, quyền lực của sự Dữ.
BÀI ĐỌC I (Gr 31: 31-34)
Chúng ta thường nghĩ rằng thuật ngữ “Giao Ước Mới”, được rút gọn: “Tân Ước”, xuất xứ từ các sách Tin Mừng, trong đó Đức Giê-su đã sử dụng diễn ngữ nầy vào buổi chiều Tiệc Ly: “Chén nầy là Giao Ước Mới, lập bằng máu Thầy, máu đổ ra vì anh em” (Lc 20: 20; 1Cr 11: 25). Thật ra, thuật ngữ nầy được gặp thấy rồi trong Cựu Ước. Thuật ngữ nầy xuất hiện lần đầu tiên ở nơi đoạn trích hôm nay đánh dấu đỉnh cao sứ điệp của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ông loan báo một “Giao Ước Mới” dưới hai dấu chỉ: tác động nội tâm của Thần Khí và ơn tha thứ tội lỗi. Quả thật, đây là sấm ngôn linh hứng của vị ngôn sứ, nhưng cũng là thành quả của một kinh nghiệm mà vị ngôn sứ đã sống với một tâm trí minh mẫn.
Kinh nghiệm nầy được hình thành qua hai giai đoạn: “thời kỳ hạnh phúc” và “thời kỳ bi thương” của dân tộc mình. Giê-rê-mi-a có lẽ chào đời vào năm 645 trước Công Nguyên. Vào thời niên thiếu của mình, ông đã kinh qua thời kỳ hưng phấn: cuộc cải cách của vua Giô-si-gia, khởi sự vào năm 622 trước Công Nguyên. Trước triều đại của vị vua cải cách nầy, là triều đại của vua Mơ-na-se, vị vua vô đạo đã du nhập và phổ biến việc thờ ngẫu tượng cho đến tận Đền Thờ Giê-ru-sa-lem. Ông còn bảo trợ tội bội giáo của dân chúng nữa.
1. Thời kỳ hạnh phúc:
Vào năm 622, trong khi Nhà Đức Chúa đang được trùng tu, người ta tìm thấy “sách Luật”. Có thể đây là sách Đệ Nhị Luật hay ít ra những bản văn cốt yếu của sách này. Sách đã bị quên lãng hơn nữa thế kỷ qua (vua Mơ-na-se đã cai trị từ năm 687 đến 642 trước Công Nguyên).
Vua Giô-si-gia công bố trước toàn dân tất cả các lời trong sách Luật đã tìm thấy trong Nhà Đức Chúa. Vua long trọng cam kết đi theo đường lối của Đức Chúa và hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Ngài. Toàn dân đồng thanh chấp nhận Giao Ước (2V 23: 1-3). Vua Giô-si-gia thực hiện cuộc cải cách tôn giáo triệt để: trừ tiệt tất cả mọi vết tích thờ ngẫu tượng ra khỏi đất nước, dẹp bỏ các tế đàn ở nơi cao và tập trung việc phụng tự kính Đức Chúa vào Đền Thờ Giê-ru-sa-lem.
Nhưng than ôi! Vào năm 609, vua tử trận trong cuộc chiến chống quân đội Ai-cập. Ngay sau cái chết của vua, nền phụng tự ngoại giáo lại có cơ hội bộc phát trở lại. Chính vào thời điểm nầy mà những sấm ngôn của ngôn sứ Giê-rê-mi-a vang lên, loan báo những tai họa thảm khốc nhất nếu nhà Giu-đa không thành tâm hoán cải (Gr 26). Vì thế, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã chứng kiến việc tái lập Giao Ước bị thất bại: công việc cải cách đã tác động đến phụng tự, nghi lễ, nhưng đã không thể biến đổi tấm lòng của dân chúng. Vị ngôn sứ không quên bài học nầy.
2. Thời kỳ bi thương:
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a, được mệnh danh là ngôn sứ của những tai họa, không ngừng cảnh báo quốc họa rất gần kề. Vì thế, người ta đã âm mưu hãm hại ông, quấy nhiễu ông và tống giam ông. Những sấm ngôn của ông bị vua Giô-gia-kim xé từng trang và bỏ vào lò sưởi. Tuy nhiên, những lời sấm nầy đã được ứng nghiệm. Kinh thành Giê-ru-sa-lem bị quân đội của vua Na-bu-cô-đô-nô-xo đánh chiếm vào năm 597 trước Công Nguyên; thành phần ưu tú bị phát lưu sang Ba-by-lon; Đền Thờ bị thiêu hủy vào năm 587, sau khi thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm lần thứ hai.
Qua tấn thảm kịch này, ngôn sứ Giê-rê-mi-a đọc được những ý định của Thiên Chúa: cuộc tái lập Giao Ước tỏ ra thất bại, thành thánh hoang tàn đổ nát, Đền Thờ chẳng bao lâu sau bị tàn phá. Đây không phải là những dấu hiệu cho thấy Thiên Chúa có một kế hoạch khác, vì lòng chai dạ đá của dân Ngài sao? Chính như vậy mà ngay vào lúc Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá, Đền Thờ bị thiêu hủy, vị ngôn sứ loan báo rằng không có gì phải mất cả khi diễn tả niềm hy vọng bất diệt của Ít-ra-en bằng những lời lẽ tuyệt vời: “Nầy sẽ đến những ngày, Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới”. Đây không còn là Giao Ước được khắc trên bia đá như Ngài đã ban cho ông Mô-sê, cũng không trong cuốn sách luật như được tìm gặp trong Đền Thờ, nhưng “Ta sẽ ghi vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta”.
Ở những nơi khác, vị ngôn sứ công bố: “Ta sẽ ban cho chúng một tâm hồn để nhận biết rằng chính Ta là Đức Chúa” (Gr 24: 7) hay “Ta sẽ ban cho chúng một trái tim và một con đường hành động, để chúng kính sợ Ta mãi mãi, nhờ đó chúng và con cháu sau nầy được sống hạnh phúc. Ta sẽ lập với chúng một Giao Ước muôn đời: Ta sẽ không bỏ chúng nữa, sẽ tiếp tục theo dõi, và không ngừng thi ân cho chúng, cũng như ban cho chúng lòng kính sợ Ta, để chúng không xa rời Ta nữa” (32: 39-40).
Ngôn sứ Giê-rê-mi-a loan báo cuộc sống theo Thần Khí và dưới tác động của ân sủng. Nhờ tác động của Thần Khí, mọi người, từ người nhỏ đến người lớn, đều nhận biết và thi hành ý muốn của Thiên Chúa mà không cần phải dạy bảo nhau.
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong cảnh lưu đày tại Ba-by-lon cũng thoáng thấy một niềm hy vọng về một Giao Ước Mới: “Ta sẽ ban tặng các ngươi một quả tim mới, sẽ đặt thần khí mới vào lòng các ngươi. Ta sẽ bỏ đi quả tim bằng đá khỏi thân mình các ngươi và sẽ ban tặng cho các ngươi một trái tim bằng thịt. Chính thần khí của Ta, Ta sẽ đặt vào lòng các ngươi, Ta sẽ làm cho các ngươi đi theo thánh chỉ, tuân giữ các phán quyết của Ta và đem ra thực hành” (Ed 36: 26-27).
Cuộc đời của vị ngôn sứ Giê-rê-mi-a đã là một mẫu gương về một cuộc sống trong Thần Khí rồi. Với tư cách là một người đạo hạnh thường hằng đối thoại với Thiên Chúa, ngôn sứ Giê-rê-mi-a xứng đáng được gọi là “cha của kinh nguyện”. Chính từ môi miệng của ông mà sấm ngôn về “Giáo Ước Mới” được loan báo.
BÀI ĐỌC II (Dt 5: 7-9)
“Thư gởi tín hữu Do thái” thật ra không là một “bức thư”, vì tác giả không tự giới thiệu mình và cũng không cho biết người nhận thư là ai (nhan đề: “thư gởi tín hữu Do thái”, xuất hiện sau này vào thế kỷ thứ hai).
Bức thư nầy được gán cho thánh Phao-lô vì vài tư tưởng và ngôn từ rất gần với tư tưởng và ngôn từ của thánh nhân, nhưng đề tài trọng tâm không thuộc về thánh Phao-lô: tác giả muốn chứng tỏ rằng Đức Ki-tô là vị Thượng Tế Tân Ước, cao vời trên vị Thượng Tế Cựu Ước. Đức Ki-tô là Đấng Trung Gian tuyệt vời, vị Thượng Tế duy nhất và hiến lễ của Ngài thì thập toàn. Ấy vậy, thánh Phao-lô không bao giờ gán cho Đức Ki-tô tước hiệu thượng tế.
Chắc hẳn người nhận thư là những người Ki-tô hữu gốc Do thái chịu những cuộc bách hại và mang nỗi nhớ khôn nguôi về nền phụng tự Cựu Ước. Về niên biểu, bức thư nầy chắc chắn được viết trước khi Đền Thờ và Kinh Thành Giê-ru-sa-lem bị tàn phá vào năm 70 Công Nguyên, bởi vì tác giả nói về phụng tự Đền Thờ như đang hiện hành cách sinh động. Ngoài ra, nếu bức thư được viết sau biến cố năm 70, tác giả không thể nào không ám chỉ đến biến cố nầy, vì biến cố này rõ ràng củng cố đề tài của ông về tình trạng vô hiệu của Giao Ước Cũ.
Đoạn trích ngắn nầy diễn tả sâu sắc hai khía cạnh bất khả phân của con người Đức Ki-tô: nỗi xao xuyến của kiếp sống phàm nhân và vị thế Con Thiên Chúa. Hai khía cạnh này khiến cuộc Tử Nạn của Ngài được phơi bày hết mức kịch tính.
1. Kiếp sống phàm nhân (5: 7):
Qua những lời này: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giê-su đã lớn tiếng kêu van khóc lóc, mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết” (5: 7), chắc hẳn tác giả ám chỉ đến những lời khẩn nguyện thống thiết của Đức Giê-su trong vườn Ghết-sê-ma-ni, trong đó Đức Giê-su đã khẩn khoản nài xin Chúa Cha lớn tiếng đến mức ba môn đệ ở gần đó có thể nghe được. Nhưng đây cũng có thể ám chỉ đến tiếng kêu của Ngài lên cùng Cha Ngài trong cơn hấp hối trước khi trút hơi thở cuối cùng trên thập giá: “Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con” (Mt 27: 46). Dù thế nào, tác giả muốn nhắc nhớ rằng Đức Giê-su đã chia sẻ tận cùng những yếu đuối của chúng ta và nỗi sợ hãi của chúng ta trước cái chết. Quả thật, “Thiên Chúa đã nhận lời Ngài” (5: 7), nhưng không theo cách thế mà con người ở nơi Đức Giê-su mong ước. Để có thể chiến thắng tử thần, Ngài phải trải qua sự chết.
2. Vị thế Con Thiên Chúa (5: 8-9):
Trong phần hai, tác giả muốn cho thấy rằng không có bất kỳ kiếm khuyết nào ở nơi Đức Giê-su. Dầu là Con Thiên Chúa, Đức Giê-su chấp nhận thánh ý Chúa Cha với một thái độ vâng phục trọn vẹn. Từ “vâng phục” âm vang tư tưởng của thánh Phao-lô. Thánh Phao-lô nói về “sự vâng phục tràn đầy niềm tin”.
“Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (5: 8). Gian khổ là trường đào tạo tốt nhất để thành nhân, nhân loại tiến bộ nhờ những kinh nghiệm đau thương. Tác giả áp dụng tư tưởng này vào Đức Ki-tô: “khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ” (5: 9). Chính không phải với tư cách là Con Thiên Chúa mà Ngài “đạt tới mức thập toàn”, nhưng với tư cách là Đấng Cứu Độ. Bằng đau khổ mà Ngài tự nguyện chấp nhận, Đức Ki-tô đã trở nên hy lễ hữu hiệu tuyệt mức đem lại ơn tha thứ tội lỗi. Như vậy, Ngài trở nên Đấng Trung Gian lý tưởng, vừa người anh em của nhân loại vừa Con Thiên Chúa, làm một với Thiên Chúa và làm một với chúng ta. Đó là một trong những tư tưởng cốt yếu của “thư gởi tín hữu Do thái” nầy.
TIN MỪNG (Ga 12: 20-33).
Trong Tin Mừng Gioan, câu chuyện này xảy ra ngay sau bài tường thuật về việc Đức Giê-su khải hoàn tiến vào thành thánh Giê-ru-sa-lem vào lúc lễ Vượt Qua sắp đến gần.
Trong cùng một chuyển động, đến lượt mình, những người Hy-lạp, đại diện thế giới lương dân, bày tỏ ước nguyện “muốn được gặp” Đức Giê-su (12: 21). Trong Tin Mừng Gioan, diễn ngữ “muốn được gặp” bày tỏ dáng dấp của niềm tin rồi. Lời thỉnh cầu của họ đã gây xúc động sâu xa ở nơi Đức Giê-su: những người Hy lạp nầy đại diện thế giới lương dân mà cuộc Tử Nạn sắp đến của Ngài sẽ mở ra cho họ con đường cứu độ.
Câu chuyện nầy thật cảm động. Cuộc Tử Nạn sắp đến gần của Ngài làm cho Ngài xao xuyến. Dù thánh Gioan không ghi lại nỗi xao xuyến của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni, nhưng tình tiết được trình bày ở đây như tham dự trước nỗi xao xuyến nầy.
1. Niềm tin của những người Hy-lạp:
Những người Hy-lạp nầy lên Giê-ru-sa-lem để mừng lễ Vượt Qua, họ thuộc vào số những lương dân có thiện cảm với Độc Thần Giáo Do thái. Sách Công Vụ gọi họ “những người sùng mộ Thiên Chúa” hay “những người kính sợ Thiên Chúa”.
Họ ngỏ lời xin được gặp Đức Giê-su với ông Phi-líp-phê. Ông Phi-líp-phê nói lại với ông An-rê, đoạn cả hai đến thưa chuyện với Thầy mình. Đức Giê-su không trả lời trực tiếp với những người Hy-lạp đến xin gặp Ngài. Thời gian của những cuộc chuyện trò riêng tư đã qua, nay giờ thực hiện ơn cứu độ phổ quát đã điểm.
2. Giờ của Đức Giê-su:
Trước đây, Đức Giê-su đã từ chối mang sứ điệp của Ngài đến lương dân, nay Ngài biết rằng giờ của họ đã đến, Ngài sắp đổ máu mình ra cho tất cả họ. Trước đó vài ngày, Ngài đã nói: “Tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn nầy” (Ga 10: 15-16). Những chiên khác không thuộc ràn nầy, chính là những lương dân này, họ cầu xin được gặp Ngài. Xúc động tận đáy lòng, Đức Giê-su hân hoan nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (12: 23).
Chúa Giê-su thích dùng tước hiệu “Con Người” để nói về mình. Tước hiệu nầy quy chiếu đến thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, trong đó một nhân vật huyền nhiệm “như Con Người đến trên mây trời” nhận được danh dự, quyền năng và vinh quang (Đn 7: 13-14). Tước hiệu bí ẩn nầy cho phép Đức Giê-su diễn tả tính siêu việt của Ngài ở nơi nhân tính của Ngài, đồng thời vẫn giữ được mầu nhiệm con người Ngài.
Trong Tin Mừng Gioan, giờ tôn vinh bắt đầu ở đồi Sọ. Thật ra, việc tôn vinh bao gồm cuộc Phục Sinh và cuộc Thăng Thiên ngự bên hữu Chúa Cha, mà bước đầu tiên chính là Thập Giá. Chính ở nơi Thập Giá mà hành động cứu độ viên mãn của Đức Giê-su được thực hiện và ý định yêu thương vô hạn của Thiên Chúa được hiện thực. Chúa Giê-su diễn tả chân lý nầy bằng một sự so sánh rất giản dị: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (12: 24).
3. Lời mời gọi theo Ngài:
Chúng ta ghi nhận rằng mỗi lần Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn của Ngài, Ngài đều mời gọi bước theo Ngài trên con đường gian nan của sự từ bỏ: “Ai quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nầy, thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống đời đời” (x. Mt 16: 21-24; Mc 8: 31-35; Lc 9: 22-23). Chính đó là câu trả lời của Đức Giê-su cho những người Hy-lạp mong ước được gặp và biết Ngài. Một cách nào đó, Ngài cho họ một cuộc hẹn gặp: “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó” (12: 26). Không ai có thể gặp gỡ Đức Giê-su, nếu không chung bước trên cùng con đường với Ngài.
Viễn cảnh con đường đau khổ nầy làm xao xuyến Đức Giê-su. Ba chuyển động nối tiếp nhau: xao xuyến tận đáy lòng, kêu cầu cùng Chúa Cha và chấp nhận dâng hiến mạng sống mình, mà các sách Tin Mừng Nhất Lãm dùng để mô tả con người của Đức Giê-su ở vườn Ghết-sê-ma-ni. Nhưng vào giây phút nầy, Đức Giê-su không để cho mình ngã quỵ dưới sức nặng của cuộc Tử Nạn, nhưng trấn tĩnh lại ngay: “Chính giờ này mà con đã đến!” (12: 27). Thêm nữa, một tiếng phán từ trời đem lại nguồn an ủi cho Ngài.
4. Tiếng phán từ trời:
Trong Tin Mừng Gioan, đây là cuộc Thần Hiển duy nhất. Thánh Gioan không tường thuật cuộc Biến Hình; thánh nhân tường thuật biến cố Phép Rửa chỉ gián tiếp và không có bất kỳ ám chỉ nào đến tiếng phán từ trời (x. Ga 1: 31-34). Đoạn văn nầy là đoạn văn duy nhất ám chỉ đến sự can thiệp từ trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (12: 28). Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Cha đã tôn vinh Ngài qua bảy dấu lạ mà Đức Giê-su đã thực hiện, nay Chúa Cha sẽ còn tôn vinh Ngài hơn nữa qua dấu lạ cuối cùng vĩ đại nhất, đó là Thập Giá. Điều đó nói lên sự hiệp nhất vinh quang giữa Chúa Cha và Chúa Con trong công trình cứu độ loài người.
Đây là dấu lạ sau cùng được ban cho đám đông. Phải chăng đây là dấu lạ mà người Biệt Phái đã đòi hỏi nhưng bị từ chối (x. Mt 16: 1-4)? Đức Giê-su chỉ ban dấu lạ nầy vào lúc quá muộn: án tử của Ngài đã được quyết định rồi.
5. Cuộc chiến thắng trên Xa-tan:
Ngay khi tâm hồn xao xuyến, Chúa Giê-su lấy lại niềm hưng phấn lúc ban đầu. Quả thật, ơn cứu độ mà Ngài đạt đến cho thế gian ở nơi Thập Giá sẽ đánh dấu sự thất bại của Xa-tan. Nhân loại sẽ thoát khỏi quyền thống trị của sự Dữ. Thập Giá sẽ là dấu chỉ của cuộc chiến thắng nầy: “Phần tôi, khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (12: 32). Động từ “giương cao lên” được dùng ở đây có nghĩa vừa “được nâng lên cao” vừa “được tôn vinh”, tức là được đưa lên trên Thập Giá và được siêu thăng bên cạnh Chúa Cha. Theo cùng một cách thức như vậy, Đức Giê-su đã trả lời cho ông Ni-cô-đê-mô: “Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3: 14-15) và với những lãnh đạo Do thái: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu” (Ga 8: 28).
42.Dẫu là Con Thiên Chúa--Lm. Xuân Hy Vọng
Đối với xã hội con người, đặc biệt trong Nho giáo, vai trò và thứ bậc quan hệ: quân - sư - phụ (vua - thầy - cha [ba, bố]) được nhấn mạnh, thậm chí được truyền tụng đến tận ngày nay. Một điều theo lẽ thường tình, rằng: vua, con vua (hoàng tử) và hoàng tộc chẳng phải làm những gì thường dân làm, nhất là: vua chẳng đời nào cúi xuống ‘rửa chân’ cho người dân, và chưa bao giờ gọi dân thường là ‘bạn hữu’!
Thế nhưng, chuyện ấy lại xảy ra đối với Đức Giê-su Ki-tô đầy lòng thương xót của chúng ta. Tuy Ngài là Con Thiên Chúa, là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng “đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế” (x. Pl 2, 7). Chưa hết, Ngài “lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x. Pl 2, 8). Nếu theo quan điểm cấp bậc trong xã hội, hoặc tư tưởng con người, Ngài đã làm những chuyện đáng lẽ không nên làm! Đúng vậy, nhưng nếu chúng ta nhớ lại lời Ngài phán dạy: “Ta đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45); hơn nữa, “tư tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, và đường lối các ngươi không phải là đường lối của Ta” (x. Is 55, 8), thì ắt hẳn chúng ta hiểu phần nào hành động của Đức Giê-su. Chính vì vậy, Ngài vâng theo thánh ý, chương trình, tư tưởng của Chúa Cha, và thực hiện chúng, hơn là bước theo lối riêng mình hoặc cách thức, quan điểm, quan niệm, tư tưởng của con người. Mặc khác, Ngài sống đúng mực, nhất quán với những gì Ngài giảng dạy. Ngài không hề thương thuyết, hay thương thảo, hoặc tìm con đường trung lập dễ giải, hầu làm hài lòng mọi người. Đúng hơn, Ngài dành toàn tâm toàn ý sống đẹp lòng Thiên Chúa Cha, “dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5, 8; x. Pl 2, 8). Noi gương Ngài, chúng ta biết vui tươi hoàn thành trách vụ, phận vụ của mình, dù mức độ đòi hỏi, yêu cầu khác nhau, nhưng ở bậc sống nào đi chăng nữa, chúng ta cũng được mời gọi bước theo Thầy Chí Thánh Giê-su, Đấng mà chúng ta tín thác, tôn thờ, và cậy trông.
Dẫu là Con Thiên Chúa, nhưng khi còn sống kiếp phàm nhân, với bản tính con người, Ngài “đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết…” (x. Dt 5, 7). Là con người, ai mà không sợ hãi khi đối diện với cái chết, với bức tường vô hình sau cùng của đời dương thế! Đức Giê-su cũng vậy, Ngài lo sợ, đến nỗi lớn tiếng kêu van khóc lóc, khẩn nguyện với Chúa Cha trong vườn Cây Dầu trước khi chịu cuộc thương khó, tử nạn (x. Mt 26, 37-45). Tuy nhiên, Ngài vẫn một lòng vâng phục, không hề quên thực thi thánh ý Chúa Cha “…xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (x. Mt 26, 39). Chúng ta cùng nhớ lại lời tiên tri Giê-rê-mi-a tuyên sấm trong bài đọc I hôm nay: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 33; 24, 7; 32, 39-40; x. 2Cr 3, 3; Dt 10, 16). Như thế, với bản tính con người, Đức Giê-su đã sống trọn vẹn giao ước mà Thiên Chúa đã ký kết với dân Is-ra-el và với chúng ta. Ngài thực hiện cách hoàn mỹ ý định, chương trình của Thiên Chúa Cha nơi dương gian. Từ đó, soi chiếu bản thân mình, chúng ta nhận ra vô số thiếu sót, vì biết bao lần, chúng ta không thực hiện hoặc chưa sống giao ước, giới răn mà Thiên Chúa đã ghi tạc vào tâm khảm, vào lương tâm chúng ta, cũng như qua lời giảng dạy của Giáo hội, qua lời nhắn nhủ, nhắc nhở của thừa tác viên có chức Thánh!
Ngoài ra, tuy là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Đức Giê-su Ki-tô đã trở nên hạt lúa miến, chịu gieo vào lòng đất, chịu thối đi, hầu trổ bông, sinh hoa, kết trái, mang lại ơn cứu độ cho nhân loại, cho chúng ta, cho những ai “hy sinh mạng sống mình ở đời này để được sự sống đời đời” (x. Ga 12, 25), và cho tất cả mọi người phụng sự Ngài (x. Ga 12, 26) như lời tác giả thư gửi cho tín hữu Do Thái đã xác tín: “…và khi hoàn tất, Ngài đã trở nên căn nguyên ơn cứu độ đời đời cho tất cả những kẻ tùng phục Ngài” (x. Dt 5, 9). Quả vậy, là những người mang danh Ki-tô hữu, những người thuộc về Đức Ki-tô, chúng ta cũng được mời gọi trở nên ‘hạt lúa miến gieo vào lòng đất, chịu mục nát’, chết đi với biết bao tội lỗi, thói hư tật xấu, bỏ đàng ngỗ nghịch, vô luân, bất tuân phục Thiên Chúa, v.v…, để rồi được trổ sinh kết trái là những ơn lành, sự sống mới, ân thiêng, sức mạnh, nhiệt thành thực hiện sứ mệnh loan truyền tình Chúa, và làm chứng tá cho Ngài trong cuộc sống thường nhật.
Giờ đây, chúng ta cùng hướng nhìn lên Thánh giá Chúa chịu treo, và thầm thì nguyện cầu:
Dẫu là Thiên Chúa cao sang
Nhưng Ngài mặc lấy xác phàm thế nhân.
Chịu cuộc thương khó, hiến thân
Hy sinh tử nạn, thánh ân tuôn tràn.
Xin cho con bước hiên ngang
Một đời theo Chúa, bình an cõi lòng.
Vai mang thập tự, cậy trông
Trung thành, tín thác, khát mong tâm hồn.
Chúa phục sinh, Đấng chí tôn
Ân ban trìu mến, thiên môn mở đường. Amen!
43.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm Gioan Phan Tiến Dũng
Trong cuộc sống, mỗi khi chúng ta muốn trao tặng cho những người mà mình thương mến, quý trọng thì chúng ta trao ban cái gì, điều gì và diễn tả tình yêu thương quý mến của chúng ta ra sao? Chắc hẳn, ai trong chúng ta cũng đã và đang có những cung cách, thái độ riêng biệt của chính mình. Vì yêu thương chúng ta, nên Thiên Chúa trong một cách thế rất đặc biệt, Ngài đã biểu lộ và diễn tả tình thương của Ngài là Chúa Giêsu cho chúng ta. Ngài trao ban chính tình thương của Ngài cho chúng ta, ngay khi chúng ta là những người con tội lỗi, ngỗ nghịch, bất xứng với chính Thiên Chúa là Người Cha của mình. Các bài đọc Lời Chúa hôm nay diễn tả cho chúng ta cách mà Thiên Chúa yêu thương và bày tỏ, chứng minh tình yêu của Ngài cho chúng ta.
Trong bài đọc một, Tiên tri Giêrêmia đã diễn tả cho chúng ta biết Thiên Chúa đã yêu thương dân của Ngài ra làm sao. Khi suy niệm về lời minh chứng này của Giêrêmia, làm tôi nhớ lại những kỷ niệm tuổi thơ. Mỗi lần tôi có lỗi phạm gì, thường thì ba mẹ tôi kêu về, bắt quỳ xuống hỏi tội; sau khi nhận ra tội của mình, mẹ tôi thường hỏi, với tội nặng như thế này thì đáng phạt bao nhiêu roi? Tôi thường hay trả giá, dẫu biết rằng tội mình đáng phải bị phạt nhiều roi, nhưng chỉ nói khoảng cỡ 5-7 roi thôi. Mỗi lần như vậy, Mẹ không bao giờ đánh hết những roi mà tôi muốn phạt, nên thường để dành lại 2-3 roi và nói: Tội thì tạm tha, nhưng lỗi thì để dành, xem có biết ăn năn hối lỗi hay không thì sẽ đánh tiếp. Và thế là khi giờ ăn đến, vì còn mắc nợ mẹ mấy roi, nên tôi ngồi vào bàn ăn mà mắt không dám ngước lên nhìn mẹ và tỏ vẻ như không dám ăn. Một lần mẹ tôi bảo: Tại sao không gắp đồ ăn mà ăn đi, hôm nay mẹ nấu cho món ngon đó, ăn đi rồi cố gắng mà sống cho tốt. Qua chút kinh nghiệm được tha thứ và yêu thương của bản thân; phần nào hiểu được, Thiên Chúa thể hiện tình yêu thương của Ngài còn kỳ diệu, lạ lùng khiến tôi chỉ biết cảm tạ tri ân. Tại sao lại như vậy? Vì Thiên Chúa yêu thương và bày tỏ tình thương cho chúng ta ngay cả khi chúng ta thất tín, bất trung, quay ngược lại phản bội Chúa. Cách diễn tả của Chúa rất đặc biệt đó chính là: Ngài ký kết giao ước với chúng ta, ban lề luật và huấn lệnh cho chúng ta, để qua chính giao ước này, Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm hồn, lòng trí của chúng ta rằng: “Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta”. Thật vậy, vì tình yêu thương, Thiên Chúa chỉ còn biết bao dung, tha thứ, cứu sống, không còn nhớ đến tội lỗi của chúng ta, đồng thời ban ơn để giúp chúng ta sống tốt hơn, sống đúng với phẩm giá của con người của chúng ta mà Ngài đã tạo dựng và Chúa chỉ mong muốn rằng, chúng ta hãy khiêm tốn để tin và chấp nhận tình thương này của Chúa dành riêng cho chúng ta.
Thưa ACE, một khi chúng ta thấu hiểu và cảm nếm được tình yêu thương mà Chúa dành cho chúng ta thể ấy, thì khi đó chúng ta mới có thể tái khám phá và vững tin hơn vào điều mà trong thư gởi tín hữu Do Thái nhắn gởi chúng ta. Thiên Chúa yêu thương mãi mãi và yêu cho đến cùng, cách thế cuối cùng duy nhất, độc đáo nhất còn lại để diễn tả tình yêu thương và sự tha thứ đó là: sai Con Một rất yêu dấu của Ngài đến để chịu chết mà cứu độ chúng ta. Qua Đức Kitô, mẫu gương tuyệt vời của sự vâng phục, qua cuộc khổ hình và tử nạn của Ngài trên Thánh Giá, Thiên Chúa lại ký kết với nhân loại một giao ước tình yêu mới bằng giá máu châu báu của Con Ngài. Đây chính là cách mà Thiên Chúa dùng để diễn tả tình thương và ơn cứu độ cho chúng ta, cho tất cả những ai tin, chấp nhận Chúa và chấp nhận công cuộc cứu chuộc của Ngài.
Thánh Gioan trong Tin mừng cũng đã minh chứng về tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta qua cái chết và phục sinh của Chúa Giêsu. Việc Chúa Giêsu dùng hình ảnh của hạt lúa mì rơi xuống đất, mục nát, tiêu tan, để đem lại sự sống mới, sự sống được phát triển và sinh nhiều bông hạt. Dẫu Đức Kitô cũng đã ý thức rằng, một khi vâng theo thánh ý của Chúa Cha, nghĩa là phải chấp nhận những đau khổ, cực hình và một trong những điều tủi nhục, đau đớn nhất đó chính là bị con cái loài người khinh chê, từ chối, khước từ và không muốn chấp nhận không muốn tin vào tình thương và cách diễn tả tình thương của Chúa. Cho dù con người vẫn còn chối bỏ, không tin hay chưa tin, nhưng Thiên Chúa vẫn một mực trung thành, vẫn luôn tạo mọi hoàn cảnh tốt nhất để ban ơn cứu độ theo như cách tuyệt hảo của Chúa.
Thưa ACE, tình yêu thương và cách diễn tả, minh chứng tình yêu của Chúa là như thế đó. Vậy còn tùy thuộc vào nơi cách đáp trả của chúng ta, ai chấp nhận, tin, sống và làm theo những gì mà Đức Ki tô đã giao ước với chúng ta thì sẽ được hưởng ơn thánh cứu độ. “Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy”. Thật vậy, tin vào Chúa và những gì Ngài thực hiện cho chúng ta đã là khó, còn làm theo những gì mà Chúa đã nêu gương lại càng khó gấp bội. Do đó, chúng ta hãy xin Chúa ban cho chúng ta có con tim khiêm tốn, mở rộng, để chúng ta luôn cảm nếm được tình thương tha thứ cứu độ của Chúa, nhờ đó chúng ta mới có thể mạnh dạn dấn thân để sống tha thứ và yêu thương anh chị em mình như Chúa đã yêu chúng ta. Amen.
44.Chết để sống--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa
húa Nhật V Mùa chay năm B, chúng ta được nghe một trong những tuyên bố mạnh mẽ nhất của Thầy Chí Thánh Giê-su: “Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không thối đi thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi thì sẽ sinh nhiều bông hạt. Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ được nó cho cuộc sống đời đời”. (Ga 12, 24-25).
Đọc những lời lẽ này của Chúa, tôi cảm thấy dường như Ngài đang muốn thức tỉnh nhân loại. Nhân loại chúng ta đang ngủ mê trong một cuộc sống hời hợt bên ngoài. Chúng ta tưởng mình sống mà thực ra không phải. Chúa muốn giúp ta nhận ra đâu là cuộc sống đích thực, đâu là cuộc sống giả tạo. Hạt lúa mì được gieo vào lòng đất. Sau một thời gian, nó mục nát đi rồi nảy mầm thành một cây lúa trổ sinh nhiều bông hạt. Nếu nó không mục nát đi thì nó chỉ trơ trọi và rồi cũng tan biến đi. Đó là quy luật tất yếu của tự nhiên. Còn con người chúng ta thì sao?
Đôi khi tôi băn khoăn và tự hỏi: Tôi đang sống hay tôi đang chết? Chúa bảo tôi phải chết đi thì mới có cuộc sống đích thực. Vậy đâu là những gì tôi phải chết? Và đây là một vài điều.
Trước hết, tôi phải chết đi cho con người nhỏ nhen ích kỷ. Là con người, tôi thường có tâm lý cạnh tranh hơn thua. Thấy người khác hơn mình một chút, nhiều khi tôi không chịu đựng được. Tôi muốn được giàu có, được tài giỏi, được nhiều người biết đến và nhìn mình bằng một ánh mắt nể trọng. Tôi muốn và luôn luôn muốn một cái gì đó. Đôi khi những điều tôi muốn chỉ nhằm thỏa mãn cái tôi huênh hoang và hống hách của bản thân mình. Tôi muốn triệt hạ đối thủ để được nổi lên. Và Chúa bảo tôi phải giết chết đi con người đó nếu tôi muốn sống thật.
Thứ đến, tôi phải chết đi cho những suy nghĩ của mình. Con người tôi lúc nào cũng suy nghĩ miên man. Suy nghĩ giống như con ngựa bất kham luôn làm tôi căng thẳng. Tôi không sao ngưng dứt được dòng suy nghĩ của mình. Suy nghĩ về bản thân, về người khác, về quá khứ, về tương lai, về cơm áo gạo tiền, về gia đình, quê hương, dân tộc, thế giới…. thôi thì đủ loại. Ôi suy nghĩ và suy nghĩ! Dường như con người luôn ở trong dòng suy nghĩ miên man vô tận. Chúa bảo tôi phải ngưng dứt được cái dòng suy nghĩ miên man vô tận đó thì mới có thể tiến vào miền thinh lặng vĩnh cửu. Chỉ khi tôi ngưng dứt được dòng suy nghĩ của mình, tôi mới thực sự kết nối được với nguồn sống đích thực đang tràn trào trong tôi. Chỉ khi dòng suy nghĩ miên man dừng lại, tôi mới có cuộc sống đích thực.
Sau cùng, tôi phải chết đi cho những khái niệm ảo tưởng về thời gian. Thời gian chỉ như một tấm biển chỉ đường. Nó không có quyền gì chi phối tôi cả. Thế nhưng, nhiều lúc tôi bị vướng vào cái vòng luẩn quẩn của thời gian. Nhiều người bị ám ảnh về quá khứ. Quá khứ như một bóng ma lúc nào cũng đè nặng trên cuộc đời của nhiều người. Có những người triền miên đau khổ về quá khứ của mình. Không bao giờ họ tìm được cho mình một giây phút bình yên. Tôi tha thiết cầu xin những người nào đang ôm ấp và ngụp lặn trong đau khổ của quá khứ, hãy buông bỏ và tha thứ cho bản thân mình đi. Còn tương lai thì sao? Bao người ngày hôm nay quá ưu tư về tương lai. Tôi sẽ làm gì sau khi ra trường? Làm thế nào để kiếm tiền nhanh nhất? Tôi sẽ sống ra sao nếu…? Tất cả những điều đó không phải là điều chính yếu của cuộc sống. Hãy chặt đứt tất cả những ảo tưởng phù phiếm của thời gian đó đi. Hãy tiến vào và sống giây phút hiện tại này. Hãy luôn sống trong trạng thái ý thức của hiện tại. Cuộc sống bao la vô tận sẽ mở ra trước mắt chúng ta. Hiện tại và chỉ có hiện tại thôi mới là vĩnh cửu.
Lạy Chúa, Chúa dạy con phải chết đi thì mới có cuộc sống đích thực. Xin cho con biết chết đi cho tất cả những ảo tưởng mà con hay quơ góp. Và chính khi con chết đi là khi con được vui sống muôn đời. Amen.
45.Giao Ước vĩnh cửu được ký kết trong thập giá Đức Kitô--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê
Kính thưa quý anh chị em,
Lịch sử cứu độ được dệt bằng những giao ước giữa Thiên Chúa và dân. Khi chứng kiến muôn vàn giao ước, người ta tự hỏi lý do tại sao lại nhiều như vậy? Câu trả lời rút ra từ kinh nghiệm sống của dân :
Thiên Chúa trung thành trong lời hứa và thánh thiện giữ lời giao ước đến muôn đời. Về phía dân, bất nghĩa và bất tín trung, luôn vi phạm lời cam kết giao ước, nên phá hỏng giao ước đã thiết lập.
Lập lại giao ước mới là bằng chứng của lòng thương xót và hay tha thứ của Cha trên trời, không muốn con người phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống.
Đếm số lượng giao ước là cách tuyên xưng tình yêu thủy chung, vững bền Thiên Chúa “Tình yêu và sự sống” ban tặng, để thế gian được sống và sống dồi dào.
Không có giao ước nào mà không nhằm ban tặng và phong nhiêu sự sống.
Khởi đầu lịch sử cứu độ, Chúa giao ước với Abraham, khi ban cho ông đất làm phần gia nghiệp, ban con cháu đông như sao trời cát biển và nhất là được Chúa ở cùng, với điều kiện ông phải vâng giữ lời Chúa. Khi vâng phục thánh ý Chúa, Abraham được kể là người công chính, được hưởng mọi phúc lành.
Phụng vụ Lời Chúa hôm nay trình bày một giao ước chung cục, “giao ước mới” được thực hiện trong thập giá, kí kết bằng : “Máu giao ước vĩnh cửu”, để nhiều người được cứu độ.
Bài đọc I, trích sách ngôn sứ Gê-rê-mi-a, phác họa một viễn tượng về thời đại Đấng cứu thế, sẽ thực hiện một giao ước mới mẻ hoàn toàn, không giống như những giao ước cũ. Những giao ước cũ này luôn luôn bị vi phạm, bị hủy bỏ, vì cớ tội lỗi của dân.
Giao ước mới được thực hiện trong Chúa Giê-su, là Thiên Chúa thật và là người thật, giống chúng ta mọi đàng, ngoại trừ tội lỗi. Cái mới mẻ của giao ước Giê-su là sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Cha : “vâng lời và vâng lời cho đến chết trên thập giá, vì thế Thiên Chúa siêu tôn Người, và ban danh hiệu trổi vượt trên mọi danh hiệu” (Phl 2, 4 – 8).
Đấng thực hiện giao ước mới sẽ khắc ghi luật Chúa vào lòng dạ, vào tâm khảm con người, sẽ đặt thần khí mới vào lòng họ, để thay thế con tim chai đá, nhờ đó họ mau mắn nhận biết Chúa, được Người tha thứ mọi tội lỗi của chúng.
Lời sấm của Giê-rê-mi-a ứng nghiệm trọn vẹn nơi Chúa Giê-su, vị Thiên Chúa/Người, được đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và con người.
Bài Phúc Âm diễn tả cách thức Giê-su thực hiện giao ước : tự hiến trong vâng phục. Hy tế thập giá không còn là hình phạt, mà trở thành bàn thờ tôn vinh Thiên Chúa.
Sự tôn vinh nơi thập giá đảm bảo hai chiều kích :
Giê-su tôn vinh Cha bằng sự vâng phục cho đến chết. Cái chết trong tư cách con người của Giê-su làm chứng : con người có thể yêu mến Chúa trên hết mọi sự và dám chết cho Thiên Chúa. Hành động tôn vinh, trong tình yêu vâng phục, là tuyệt đối đẹp lòng Cha hơn cả.
Chúa Cha tôn vinh Giê-su bằng cách đón nhận lễ hy sinh, cho Ngài sống lại từ trong cõi chết, đặt Ngài ngự bên hữu mình trên trời, đặt làm trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, để Giê-su ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Đó chính là “Giờ tôn vinh” Giê-su tuyên bố trong Tin Mừng.
Giao ước thập giá trổi vượt trên tất cả, mới mẻ, trường cửu và ban chiến thắng “chung cục” : hận thù được hòa giải, tội lỗi được tẩy sạch, thủ lãnh thế gian bị xét sử, sự chết bị đập tan. Nhờ thập giá, mọi phúc lành thiêng liêng trên trời được ban tặng như suối nguồn tuôn đổ ngập lút thế gian.
Bài đọc II, trích thư gởi tín hữu Do Thái, nhấn mạnh chiều kích vâng phục và tự hạ của Đức Giê-su, là nền tảng của ơn cứu độ. Khi còn sống kiếp phàm nhân, Giê-su dãi dầu học cho biết vâng phục qua những đau khổ xẩy đến, đã đạt tới mức thập toàn và nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người.
Vâng phục trong mọi sự, đạt mức thập toàn nhất thiết phải xảy ra nơi thập giá, vì chỉ trong thập giá, trong sự chết, mới chứng tỏ sự vâng phục đến cùng.
Nội dung của bài đọc II là lời tuyên xưng giao ước mới, vĩnh viễn và rộng khắp, ban ơn cứu độ cho cả thế gian. Tác giả đoạn thư Do Thái giúp củng cố đức tin vào biến cố thập giá, không phải hổ thẹn vì cớ Đấng chịu đóng đinh, nhưng hãy luôn tự hào, vì đó là sự khôn ngoan, là ân phúc cứu độ trần gian.
Thưa anh chị em,
Giáo huấn Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy luôn vững lòng tin tưởng cậy trông vào Thiên Chúa, Đấng giầu lòng xót thương, nhẫn nại đến kinh ngạc trong việc giáo hóa con người. Giao ước là bằng chứng Chúa dùng mọi phương thế để giữ gìn sự sống trần gian.
Chiều dài giao ước là sự sửa soạn tâm lòng con người đón nhận Đức Kitô, Đấng thực hiện giao ước vĩnh cửu trong sự chết và sự phục sinh, bằng hình thức trao đổi diệu kỳ : Chúa chấp nhận đau khổ, để chúng ta được chữa lành, chấp nhận tù tội, để chúng ta được giải phóng, chấp nhận bị kết án, để chúng ta được giải án tuyên công, chấp nhận cái chết thập giá, để chúng ta được phục sinh vinh hiển.
Vậy chúng ta hãy đón nhận giáo huấn và đem ra thực hành bằng một đời sống đượm tình mến thương, mới thực sự bước đi trong ánh sáng của mùa cứu độ.
Nhiệt tâm làm việc thiện, chu toàn bổn phận trong vui vẻ là sống đức tin bằng việc làm. Chỉ những ai thực hành như vậy mới được kể là người khôn ngoan, đáng được Chúa chúc lành, cho gia nhập đoàn dân thánh hưởng tình yêu và sự sống thật, sự sống muôn đời. Amen.
46.Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu--Lm. Lâm Thái Sơn
Theo như Phúc Âm hôm nay, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp “muốn được gặp Chúa Giêsu”. Họ đến từ một đất nước phát sinh những suy luận, triết thuyết, nghệ thuật và thần thánh đa dạng, dĩ nhiên họ muốn gặp Chúa Giêsu không vì tính hiếu kỳ, nhưng có lẽ vì không thỏa mãn trong việc tìm kiếm “chân thiện mỹ“ dựa vào triết lý, hay vì các tín ngưỡng không giúp họ đạt đến sự tuyệt đối thỏa đáng.
Họ đến thờ phượng Thiên Chúa trong dịp đại lễ của người Do Thái. Tuy nhiên kỳ đại lễ này đã bị khuấy rối bởi nhiều tin đồn đáng ngại cộng thêm cuộc biểu tình của dân chúng: gần đây tin đồn Đức Giêsu đã cải tử hoàn sinh ông Ladarô gây hoang mang cho các bậc Thượng tế trong Đền Thờ và làm cho nhiều người bỏ họ mà chạy theo Đức Giêsu; thêm vào đó, Ngài còn được toàn dân ủng hộ đón rước như một vị Vua với những lời tung hô “vạn tuế Vua dân Do Thái, chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa!”. Các sự việc này gây phẫn nộ và tạo cơ hội cho đám người Pha-ri-sêu thực hiện chương trình mưu sát kẻ xách động quần chúng. Đến lúc phải chọn lựa: đối với đoàn kỳ mục, các thượng tế và kinh sư thì vụ án này được chấp thuận; còn dân chúng thì lập trường hay thay đổi (nay ủng hộ, mai đả đảo); và ngay cả trong giới lãnh đạo Do Thái cũng có một số người đã tin vào Đức Giêsu, nhưng họ không dám xưng ra, vì sợ bị nhóm Pharisêu khai trừ khỏi Hội Đường, họ chuộng vinh quang của người phàm hơn là vinh quang của Thiên Chúa (Ga 12,43).
Chính trong bối cảnh này mà có mấy người Hy Lạp đề nghị ông Philípphê và Anrê dẫn họ đi gặp Chúa Giêsu. Đức Giêsu là ai? Vị ngôn sứ này là người thế nào (?) mà có biết bao lời đồn đãi xấu có tốt có làm phấn khởi giới hạ lưu và làm run chuyển giới lãnh đạo buộc những người này phải ra tay đối phó. Cho dù tình trạng có sôi động cũng không ngăn cản đuợc ý định của những nhà thám hiểm điều vô tận: họ muốn được nhìn tận mắt, nghe tận tai, thấu hiểu sứ điệp cũng như những công trình và dấu chỉ xác thực kể cả bản thân của vị ngôn sứ đó! Họ đến thật đúng lúc, vì đã đến giờ kết thúc sứ mệnh: đấy là giờ của sự thật, giờ mà tội lỗi của trần gian dẫn đưa Đức Giêsu đến thập giá, và cũng là giờ mà thập giá đó lại trở thành bệ ngai của vinh quang.“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh“. Tuy Phúc Âm không nói đến phản ứng của những người Hy Lạp này, nhưng luận thuyết của Chúa Giêsu mở ra cho chúng ta một chân trời mới về sự sống vĩnh cửu: “hạt lúa gieo vào lòng đất sẽ mang lại nhiều hạt khác“ và “khi Con Người được giương cao lên khỏi mặt đất thì Ngài sẽ kéo mọi người lên với Ngài“.
Qua cuộc khổ nạn và Phục Sinh, Đức Giêsu mạc khải cho nhân loại biết rằng Thiên Chúa là Tình Yêu, một tình yêu tột độ, vì “không có tình yêu nào cao trọng bằng dâng hiến mạng sống cho người mình yêu“. Luật chủ yếu của Thiên Chúa là luật của hạt lúa: “nếu hạt được gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác“. Chúng ta không cần suy nghĩ viễn vông mà chỉ cần đặt mình trước Thập giá và nhìn ngắm, lúc đó ta sẽ hiểu thế nào là yêu thương thật sự, thế nào là chết đi để phát sinh sự sống; cũng như ta cứ gieo hạt vào lòng đất và chờ đợi nó mọc lên cây thì sẽ hiểu thế nào là đau thương trong gieo vãi và gặt hái trong hân hoan; cũng như các Thánh nhân hoặc những anh hùng: họ hy sinh vì chân lý, tranh đấu cho chính nghĩa, tuy chết đi nhưng vẫn sống mãi trong lòng Giáo Hội và Dân Tộc, ngàn đời Lịch Sử vẫn truyền tụng họ. Vì thế, cái chết thật sự không phải là cái chết thể chất mà chính là từ chối yêu thương, không biết hy sinh chỉ sống lẻ loi ích kỷ “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời“
Muốn thật sự đứng về phía sự “sống”, ta nên hành động như những người Hy Lạp kia luôn khát khao tìm kiếm chân thiện mỹ, tức nhiên “phải tìm gặp Đức Giêsu”. Cần tận dụng tất cả trí khôn tâm sức để hiểu biết, yêu thương và phục vụ, sống không vì lề luật tỉ mỉ hình thức, nhưng vì một Người, Đấng đang kêu gọi và sai đi, đang đối thoại và sống hiệp thông. Phải thành tín và đam mê, ta mới thiết lập được với Thiên Chúa một giây liên đới tâm đầu ý hiệp, như lời Thánh Vịnh hôm nay: “xin Chúa dạy con thấu triệt lẽ khôn ngoan... xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thủy”
Chúng ta có phải thuộc về nhóm người muốn đi gặp Đức Giêsu? Tuy nhiên, ai đã tìm gặp Ngài cũng vẫn còn phải tự chất vấn, bởi vì: giới Pha-ri-sêu đã thấy và nghe nhưng không tin theo Ngài; bậc kỳ mục đã tin nhưng không dám nhìn nhận Ngài; dân chúng đã tin và theo Ngài nhưng không đi đến cùng.
“Chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Ta nên thường xuyên đến gặp gở Ngài qua các Bí Tích, qua việc học hỏi Phúc Âm để khám phá điều mới lạ và chấp nhận dấn thân trong một thế giới và thực tại mà Ngài muốn cho ta khám phá. Bước theo Ngài là chấp nhận những nguy cơ mà chính Ngài đã đảm lấy, từ sự hiểu lầm của những tín đồ đến sự chống đối và lên án của giới hữu trách. Dấn thân theo Ngài là chết cho những tham vọng ích kỷ, tư lợi vật chất, dự tính phàm trần, chết cho những gì gọi là ưu tiên của riêng mình nhưng lại quá xa cách những hệ trọng cấp bách Phúc Âm. Ta phải chọn hoặc thủ lãnh thế gian hoặc Đấng đã bị đóng đinh. Chắc hẳn đến một lúc nào đó, sẽ có người đến hỏi chúng ta, như những người Hy Lạp đến hỏi Philípphê và Anrê “chúng tôi muốn được gặp Đức Giêsu”. Vậy chúng ta sẽ có đề nghị gì cho những người đó?
47.Hạt lúa mì gieo xuống đất--Lm Nguyễn Minh Hùng
"Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, nó sinh nhiều bông hạt". Lời Chúa nói hôm nay làm ta nhớ tới các thánh Tử đạo đã hy sinh mạng sống để hạt giống đức tin sinh nhiều hoa trái. Giáo Hội Việt Nam, chỉ là một Giáo Hội còn non trẻ, đã hiến dâng bao nhiêu người con suốt ba thế kỷ bắt đạo, cho đến nay, con số ấy vẫn không ai biết chính xác. Bất cứ ở đâu trên mảnh đất châu Á này, nếu Đức tin được rao giảng, thì ở đó lại thấm đẫm dòng máu các anh hùng Tử đạo. Con số các thánh Tử đạo càng tăng lên theo cấp số nhân nếu ta quay nhìn cả Giáo Hội hoàng vũ qua mấy ngàn năm nay. Hình như không có thời buổi nào, không có thế kỷ nào, không có Giáo Hội địa phương nào mà không bắt đầu được sinh ra từ máu Tử đạo. Những năm gần đây, Đức Thánh Cha đã phong khá nhiều vị thánh, hầu hết các vị thánh ấy là các thánh Tử đạo của thời đại mới. Máu các thánh Tử đạo cứ tiếp tục đổ xuống, càng đổ bao nhiêu, đức tin càng lớn, sức sống của Giáo Hội Chúa Kitô càng căng tràn và mạnh mẽ bấy nhiêu. Chúa Kitô, Hạt Lúa Mì Anh Trưởng đã rơi xuống đất, làm nảy sinh vô vàng hạt lúa, và những hạt lúa từ thời đại này sang thời đại khác cứ tiếp tục trổ sinh bông hạt. Bởi thế có một nguyên tắc rất kỳ diệu, rất nhiệm mầu, nhưng đã trở nên rất bình thường: Giáo Hội càng bị bắt bớ khốc liệt, người Công Giáo càng bị giết hại đẫm máu, thì Giáo Hội càng sống mãnh liệt và mau chóng lan rộng, đức tin của người Công Giáo càng được tôi luyện và trưởng thành bấy nhiêu.
Trong xã hội cũng có bao nhiêu vị anh hùng hiến dâng mạng sống vì công lý, vì hòa bình. Năm 1968, cả thế giới chấn động khi nghe tin Mục sư Martin Luther Kinh, người đã đấu tranh không mệt mỏi cho quyền bình đẳng của người da đen bị sát hại. Năm 1995, cả thế giới sững sờ thương tiếc thủ tướng Israel, ông Y Rabin, bị người Dothái quá khích giết. Họ không chấp nhận đường lối ôn hòa của ông đối với người Palestin.
Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn xúc động nhớ lại cái chết của ông Mahatma Gandhi, vị cha già của dân tộc An, đã từng bị một thanh niên An giáo quá khích sát hại. Anh ta không chấp nhận việc ngài đã tha thứ và dạy hãy tha thứ cho người Hồi giáo. Và còn biết bao nhiêu người vì tình yêu con người, tình yêu đồng loại đã hiến dâng mạng sống như thế. Họ đã chết nhưng tên tuổi, sự nghiệp của họ vẫn sống muôn đời.
Các thánh tử đạo và những tâm hồn xây dựng hòa bình ấy chính là hình ảnh của hạt lúa mì được gieo trong lòng thế giới. Hoa quả của đức tin, hoa quả của hòa bình đang tươi nỡ khắp nơi trong Giáo Hội và trên thế giới.
Ngày nay có biết bao anh chị em nhìn vào tấm gương của các ngài mà dấn thân xây dựng, gìn giữ, bảo vệ đức tin và kiến tạo hòa bình, làm nảy sinh tình yêu khắp nơi, quên cả sức lực, quên cả bản thân để danh Chúa rạng ngờ, Nước Chúa trị đến, cuộc sống bình an, thịnh vượng hơn. Những năm gần đây, đa số những vị được phong thánh là các vị tử đạo của thời đại mới. Hóa ra, những hạt lúc mì cứ rơi xuống, rồi lại sinh hoa kết quả, hết lớp này đến lớp khác. Ngày nào đức tin còn bị bắt bớ, thế giới vẫn tồn tại bất công, sự sống bị chà đạp, ngày ấy vẫn còn những hạt lúa mì rơi xuống và vô vàn bông lúa mì trỗ sinh.
Chúa Kitô, Đấng đã sống cho tình yêu, chết cho tình yêu, và sống lại vì tình yêu, luôn là mãnh lực cuốn hút muôn người hiến dâng mạng sống, và lưu danh ngàn đời. Chúa Kitô, hạt Lúa Mì cao cả làm trổ sinh vô vàn bông hạt tươi tốt...
48.Sự sống--Lm. Thu Băng
Lời Tin Mừng hôm này Chúa Giêsu nói đến Mầm sống lúa mới chỉ được trổ sinh khi hạt húa thực sự bị hủy đi, khiến tôi nhớ đến một tư tưởng chi phối khá mạnh nơi con người ngày nay là sự sống của các thai nhi mà Công đồng Vaticanô II đã phải dùng một Thông Điệp để nói về sự sống. Vậy sự sống là gì?
Romain Rolland viết: "Sự sống là cái mà không thể dùng trí khôn và con mắt mà nhận thức hay diễn tả. Sự sống là cái làm cho thụ tạo trở nên sống động". Nhìn một ngọn cây rung động, ta thấy nó chứa một sức sống mơn mởn vươn lên. Nhìn con vật đùa dỡn trước sân cỏ, ta thấy có một sức đánh động nó ngó ngoáy, ve vẩy. Nhìn con người ta lại thấy nó có một sức linh hoạt hơn nữa, khác với loài cây cỏ, khác với loài động vật hay xác chết.
Các nhà bác học chỉ có thể giải thích được sự cấu tạo của vật thể, chỉ có thể biết con người gồm có tim, óc, phèo, phổi.... Nhưng đến sự sống thì con người bất khả thuyết minh.
Trong một cuộc triển lãn nghệ thuật, điêu khắc gia Michel Angelos đã mất ngủ để suy nghĩ về câu nói của một nhà phê bình trứ danh, khi ông ngắm nhìn pho tượng đá Môsê: "Pho tượng tuyệt tác, linh động, sắc sảo như người, nhưng thiếu một điều.....". Ba đêm trời suy nghĩ không ra, Michel Angelos xin đến gặp nhà phê bình để hỏi cho ra lẽ. Nhà phê bình cười rồi bảo: "Bức tượng đá đẹp, nhưng tiếc một điều là nếu nó có thêm chút sự sống nữa thì toàn vẹn". Angelos nghe xong lời ấy có vẻ bất mãn, liền nói lên cách tự nhiên: "Sự sống ai mà tạo nên được".
Ngày nay trong các phòng triển lãm đặc biệt tại Kansas City, tôi đi tham quan, đến một gian hàng người ta chơi cái trò suy đoán "Thực hư": Trong gian phòng người ta trình bày 4 người đang ngồi đọc báo và mời các khách tham quan nhận ra trong 4 người áy ai là thật ai lả giả. Nhiều người đoán cô gái tóc đen là người thật, lại hóa ra cô là người giả. Nhiều người đoán cậu thanh niên có đôi mắt xanh, tay có từng cái lông tơ là người giả, lại hóa ra chàng trai thật 100%. Nhờ kỹ thuật vượt mức, người ta đã làm nên những vật không khác gì vật thật, nhiều cái còn đẹp và tinh vi hơn cả vật thật nữa. Tôi trồng một vườn hoa vào cuối mùa đông, có cắm xen lẫn một số bông hoa giả, nhiều người đã khen tôi mát tay, khéo trồng hoa, đến mùa Đông rồi mà hoa còn nở tươi thật là tươi. Có người phải rờ tay vào xem mới biết là hoa giả.
Sự sống thật là quí hóa, không ai tạo được, ngoại trừ Thiên Chúa. Bác Sĩ, Lương Y không dám rút ngắn cơn hấp hối của bệnh nhân. Hình phạt lớn nhất của tội nhân là tình phạt "tử hình", cắt đứt sự sống của tội nhân. Liều thuốc trường sinh vốn là liều thuốc tiên, là ước mơ của nhân loại. Vị Hoàng Đế khét tiếng của Trung Quốc dạo chơi trên bờ Vạn Lý Trường Thành cùng bày mỹ nữ và các quân thần, để ngắm nhìn công trình vĩ đại mình thực hiện, nhìn ngắm sự hưng thịnh của đất nước được mình bảo vệ. Bỗng chốc ông òa lên khóc nức nở. Các quan vấn an và hỏi căn do tại sao Hoàng Đế nhỏ châu lệ? Hoàng đế trả lời: "Đất nước ta hưng thịnh, trù phú thế này, quê hương ta đẹp đẽ biết bao! và dân ta hiền hòa thanh lịch.... Thế mà tuổi ta đã về chiều. Tiếc rằng ta không còn sống được bao lâu để cai dân trị nước". Một vì Đại Thần đứng phía sau cười nắc nẻ, khiến vua bực tức hạch tội: "Tại sao ngươi cười ta?" Vị Đại Thần tâu: "Nếu các vị Tiên Đế trước cứ sống lâu trên ngai, thì bây giờ đã đến phiên bệ hạ trị nước chưa?".
Được ngồi trên ngai mà ham ước sống đã đành, mà cả những người nghèo khổ đói rách cũng ham sống nữa. Một trong những chuyện hay của Lã Phụng Tiên có kể: Ngày đó một gã tiều phu già luống tuổi, đang ngồi nghỉ mệt bên lề đường. Ông than cho kiếp con người ông bạc phước, đày đọa kiếp thân tàn, làm ăn cực nhọc cả đời. Ông muốn chết cho xong kiếp sống lầm than. Bỗng thần chết xuất hiện giúp ông thực hiện ý muốn. Vừa trông thấy thần chết cầm hái từ thần, ông nhanh trí đánh trống lảng: "Xin nhờ Thần đưa giúp tôi bó củi lên vai, nghỉ lâu quá rồi". Bước đi mau chân ông lão không dám ngoái cổ lại nhìn sự thật đàng sau.
Sự sống ai cũng nhận thức là quí, nhưng không hiểu được.
Sự sống không thuộc về trần gian, người trần gian không ai có thể làm nên được. Cũng không ai phát sinh từ cục đá mà ra, nhưng từ ý muốn của Đấng tạo thành. Chúa nặn con người từ bùn đất, rồi Ngài thổi sinh khí vào, bỗng nó trở nên sống động. Thân xác Lazarô chết 4 ngày đã lên mùi hôi thối, nhưng với quyền năng của Chúa, Ngài đã cho nó trở lại trạng thái bình thường và cho sống lại. Vật sống chính là sinh khí của Thiên Chúa, phát sinh từ Thiên Chúa. Ta nghe tiếng "Chết" đầu tiên khi Chúa phán cùng Adam, Evà: "Khi nào các ngươi ăn trái Ta cấm, các ngươi sẽ chết", thế nhưng Adam, Evà ăn vô thể xác vẫn sống. Ông bà Tổ Tông không chết theo cách ta hiểu là hết thở. Ông bà vẫn sống, vẫn hoạt động, nhưng cái chết Chúa tuyên án đây là: Mất sự tương giao với Thiên Chúa, là bẻ gẫy, là cách xa Thiên Chúa. Con người phạm tội đã chết trong một hình thức sống.
Tai điếc là tai chết, mặc dù tai vẫn còn, âm thanh vẫn còn, nhưng không còn tác dụng với tai nữa, không còn liên lạc giữa tai và âm thanh nữa. Tai điếc là tai đã chết. Người mù cặp mắt vẫn còn, màu sắc, ánh sáng vẫn có, nhưng ánh sáng và màu sắc không còn tác dụng với mắt. Mắt đã chết. Cũng thế, con người là loài sinh linh hiện hữu, con người vẫn sống đầy mặt đất, Thiên Chúa vẫn là Thiên Chúa hằng hữu, Ngài vẫn hiện hữu trên chúng ta, nhưng con người và Thiên Chúa không còn liên lạc, không còn tác dụng với nhau nữa, vì sự tội đã phá vỡ sự tương quan đó. Con người chết. Nhưng lòng thương Chúa không bỏ con người, Ngài ban Con Một Ngài xuống trần làm nhịp cầu nối lại tình liên đới cha con. Đó là ý nghĩa đích thực khi Ngài phán: "Ta là sự sống". Do đó kẻ tin và đón nhận thì dù có chết cũng được sống. Mỗi khi chúng ta phạm tội, là chúng ta đã chết trong cái xác sinh động còn sống thôi. Cái chết theo chúng ta hiểu là một sự thay đổi hình thức. Chết là cánh cửa đóng lại với bên này và mở ra cho đời sau. Chết là con đò chở người từ bến đời này qua bến đời sau. Nếu ta phạm tội đời này thì con đò cũng chở chúng ta về bến xa Chúa là địa ngục. Nếu chúng ta được ân nghĩa với Chúa ở đời này, thì cửa mở ra cho đời sau là cửa ân nghĩa thiên đàng.
Con người vốn thiết tha với cõi đời này là vì nó thực tế, nó hiển nhiên. Con người sợ đời sau vì nó mập mờ, không biết đến bến nào. Nhưng nếu ta chỉ sống có cái xác trên trần gian thôi, thì chưa phải là sống thực. Vậy phải ráng có sự sống thực, có Chúa Kitô là sự sống, có lề luật là thành lũy tránh sự dữ, có yêu thương nhau làm bảo đảm sự sống ở đời này và bảo đảm sự sống vui của đời sau. Ước gì chúng ta luôn sống trong thể xác linh động này, sống trong bình an của tâm hồn, sống trong ân phúc liên đới mật thiết với Chúa, để khi dù thân xác ta chết, ta vẫn được sống đời đời. (Jn. 12:20-33) 3-2003
49.Giá trị của đau khổ--Lm. Minh Vận
Vào một đêm giông bão, gió thổi mịt mù, mưa rơi như trút, một ông già với bà vợ chạy vào văn phòng của một khách sạn nhỏ ở Philadelphia. Ông già tỏ dấu khiêm tốn nhã nhặn hỏi viên thư ký: "Anh có thể cho chúng tôi một phòng nhỏ không? Vì tất cả các khách sạn lớn đều đã chật rồi". Viên thư ký trả lời: "Thưa ông, tất cả các phòng đều đã có người mướn, nhưng tôi không thể để cho những người dễ thương và đáng kính như ông bà phải ra đi trong mưa gió vào lúc một giờ sáng như thế này được. Ông bà có thể ngủ trong phòng của tôi". Ông khách vội hỏi lại: "Thế thì cậu ngủ ở đâu?" Viên thư ký đáp: "Thưa, ông đừng lo, tôi sẽ tự liệu mà". Vừa nói, viên thư ký trẻ vừa dẫn hai ông bà khách lên phòng của mình. Sáng hôm sau, khi xuống trả tiền phòng, ông khách nói với viên thư ký đã nhường phòng cho mình: "Cậu là viên thư ký quảng đại, đáng làm quản lý một khách sạn lớn nhất của Hoa Kỳ. Có lẽ mai ngày, tôi sẽ xây khách sạn đó cho cậu".
Hai năm sau, viên thư ký trẻ này nhận được một bức thư, kèm theo một vé máy bay khứ hồi đi New York, với lời ghi chú của ông khách trong một đêm mưa gió nọ tại Philadelphia, muốn gặp chàng tại New York. Khi chàng tới gặp ông khách cũ, ông dẫn chàng tới một góc đại lộ số 5 đường 34, chỉ vào ngôi khách sạn mới xây nguy nga đồ sộ và nói với chàng: "Đây là ngôi khách sạn tôi đã xây cho cậu làm quản lý". Nghẹn ngào vì cảm động, chàng thư ký trẻ tuổi tên là George C. Boldt đó, chỉ biết lắp bắp lời: "Xin hết lòng cảm ơn ông". Ông khách già chủ ngôi khách sạn đó là William Walford Astoria. Và ngôi khách sạn sang nhất trong thời bấy giờ là Walford Astoria.
I. NGƯỜI CÓ CÔNG MỚI ĐÁNG THƯỞNG
Một sinh viên đại học, muốn vượt qua được các kỳ thi tuyển, muốn đoạt được mảnh bằng bác sĩ, kỹ sư, luật sư, muốn được thành công trong bất cứ nghề nghiệp nào, một chức vụ nào trong xã hội, đều cần phải chuyên chăm học hành, phải chịu khó, hy sinh, vất vả, phải thức khuya dậy sớm.
Một quân nhân, muốn được trọng thưởng, cần phải tham dự các cuộc chiến thắng vẻ vang nơi các trận địa, và khải hoàn trở về với danh nghĩa một vị anh hùng dân tộc, được dân chúng ca ngợi. Một sĩ quan quân đội, muốn chiếm được những tấm huy chương vàng bắc đẩu bội tinh, với tấm bằng tưởng thưởng; hoặc muốn được thăng quan tiến chức, cũng cần phải lập được nhiều thành tích vẻ vang, nhiều chiến công oanh liệt.
Không khi nào người ta lại trọng thưởng cho những kẻ lười biếng, những kẻ ăn không ngồi rồi, những kẻ chơi bời lêu lổng. Trái lại, những ai càng biết chịu khó, vất vả, hy sinh, chịu tủi nhục, càng lập được nhiều thành tích, càng đáng được trọng thưởng, được tôn trọng, được tán dương. Vì công trạng bao giờ cũng tương xứng với huân nghiệp đã lập.
II. ĐỂ ĐƯỢC PHỤC SINH VINH QUANG
Chúa Kitô, trong bài Tin Mừng hôm nay đã quả quyết: "Quả thật, quả thật, Ta nói với các con: Nếu hạt lúa mì gieo xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình, nhưng nếu nó thối đi, thì nó sẽ sinh nhiều bông hạt". Cũng chỉ vì muốn cho chúng ta được sự sống đời đời, mà Chúa đã phải quả quyết với chúng ta rằng: "Ai yêu sự sống mình sẽ mất, còn ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời".
Đây là một bài học rất thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mần sống đã vươn lên thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một cánh đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt. Trái lại, nếu hạt giống gieo xuống đất mà cứ trơ trơ, không đời nào có thể phát sinh bông hạt, khiến cho nhà nông phải thất vọng.
Chính Chúa Kitô, "Khi còn sống ở trần gian này, Người cũng đã phải lớn tiếng và rơi lệ dâng lời cầu xin khẩn nguyện lên Đấng có thể cứu Người khỏi chết" và "Dầu là Con Thiên Chúa, Người cũng đã phải chịu muôn vàn thống khổ, phải chịu chết tất tưởi để khi hoàn tất, Người đã trở nên căn nguyên Ơn Cứu Độ đời đời cho tất cả chúng ta" (xem Heb 5:7-9). Như thế, Người đã phải chịu chết, Người mới đem lại cho chúng ta sự sống, sự sống siêu nhiên, sự sống vĩnh cửu của Người.
Để được phục sinh vinh hiển, Chúa Kitô đã phải trải qua sự chết. Nếu chúng ta muốn được phục sinh vinh hiển với Chúa, được Chúa cho tham dự sự sống thật của Người. Để được đồng hưởng hạnh phúc đời đời với Chúa, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa, đồng chung đau khổ, hy sinh, tủi nhục với Người. Không có hy sinh đau khổ thập giá, không thể có danh dự vinh quang được. Vì: "Per Crucem ad Lucem"-"Từ Thập Giá tới Nguồn Sáng".
III. ĐỂ ĐAU KHỔ CÓ GIÁ TRỊ CỨU RỖI
Với cái nhìn có vẻ bi quan, người ta gọi trần gian là nơi khổ ải, là thung lũng nước mắt; nhưng với cái nhìn lạc quan phấn khởi thì, trần gian lại là nơi lập công, là trường tập đức. Theo Thánh Phaolô thì thời gian sống trên trần gian, còn được mệnh danh là: "Thời cơ thuận tiện, là ngày cứu độ". Nhưng dù theo quan niệm nào đi nữa, thì chắc chắn: Trần gian chưa phải là nơi an hưởng hạnh phúc, cũng chưa phải là nhà vĩnh cửu; mà mới chỉ là nơi tạm trú, là đàng dẫn tới quê hương chân thật và vĩnh cửu là Thiên Quốc. Chúng ta sống trên trần gian chỉ là những lữ khách đang trên đường tiến về quê hương bất diệt, là nơi chúng ta sẽ được đồng hưởng hạnh phúc vĩnh cửu, sung mãn tràn đầy với Chúa là Cha đầy yêu đương của chúng ta.
Dù muốn hay không thì khi còn sống trên trần gian, chúng ta còn gặp muôn vàn điều trái ý, khó khăn, nghịch cảnh; nhưng nếu chúng ta biết vui lòng lãnh nhận, vui tươi chịu đựng vì lòng yêu mến Chúa, hợp với Giá Máu Cứu Chuộc của Chúa Kitô, thì những đau khổ đó sẽ giúp chúng ta đạt được Ơn Cứu Độ, có giá trị đền tội và lập công, thánh hóa mình và thánh hóa tha nhân. Trái lại, nếu miễn cưỡng, cực chẳng đã phải chịu, thì đau khổ sẽ chẳng đem lại ích gì cho chúng ta, lại còn làm cho chúng ta phải ngã quỵ.
Kết Luận
Tấm lòng hào hiệp và quảng đại hy sinh của một viên thư ký, trong một khách sạn nhỏ dành cho ông bà khách, giữa đêm khuya bão tố trong câu truyện chúng ta vừa nghe, đã khiến ông bà khách cảm phục và đã ban cho cậu một phần thưởng trọng hậu đến thế; thì những hy sinh đau khổ chúng ta vui lòng lãnh nhận vì lòng kính mến Chúa, còn đáng được Chúa trọng thưởng chúng ta gấp trăm ngàn lần hơn nữa. Vả nữa, phần thưởng đời này chỉ có cùng có hạn, nhưng phần thưởng Chúa ban cho chúng ta đời sau sẽ vô cùng vô tận.
Lạy Mẹ, Mẹ đã can đảm và quảng đại lãnh nhận mọi đau thương thống khổ của sứ mạng Đồng Công để hiệp thông với Chúa Cứu Thế Con Mẹ, lập nên Giá Cứu Độ cho chúng con; xin Mẹ cho chúng con cũng được can đảm theo gương Mẹ, chấp nhận tất cả mọi nỗi gian truân Chúa gởi đến, để chúng con cũng được thông phần với Chúa và Mẹ, hầu cứu độ tha nhân như sứ mạng Chúa đã ủy thác cho chúng con.
50.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển
Hãy tìm kiếm thiên thần trong sa mạc tâm hồn của bạn
Vào Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, chúng ta đã nghe giao ước Noê diễn tả mối tương quan đặc biệt của Thiên Chúa với mọi loài sinh vật. Hôm nay, khi gần đến cuối Mùa Chay, chúng ta nghe trình bày một giao ước mật thiết hơn trong sách ngôn sứ Giêrêmia, đó chính là giao ước được ghi khắc trong tâm hồn. Bài đọc thứ nhất nhắc đến bản chất riêng tư trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa, một ý tưởng cũng được nhắc lại trong bài Tin mừng ngày Chúa nhật này.
Trong bài đọc thứ nhất, ngôn sứ Giêrêmia nói về một mối tương quan mới sẽ được thiết lập giữa Thiên Chúa với dân Israel và Giuđa. Bối cảnh câu chuyện là cuộc xâm lược và hủy diệt Giuđa cùng những cuộc phát lưu trong thời kỳ lưu đày ở Babylon. Trong khi nhiều người chịu đau khổ thì Giêrêmia lại viết về niềm hi vọng vào tương lai. Ông thừa nhận những thất bại trong quá khứ, khi tổ tiên đã không triệt để giữ lời cam kết trong mối tương quan của họ với Thiên Chúa. Giêrêmia mô tả việc Thiên Chúa khắc ghi lề luật vào tâm hồn mỗi người bằng một hình ảnh ấn tượng: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm hồn chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta.” Trong tiếng Do Thái, từ “trái tim” (leb) không chỉ dùng cho một cơ phận thân thể mà còn dùng để chỉ tâm trí. Trái tim được coi là nơi của tư duy lý trí và ý thức, tương tự như cách chúng ta nghĩ về bộ não. Khi Thiên Chúa khắc ghi luật nơi trái tim mỗi người, Ngài làm cho những đòi hỏi được thấm nhuần nơi sâu kín ở bên trong trung tâm của trí hiểu để con người có thể hiểu cách đầy đủ hơn ý định của lề luật, để bồi dưỡng mối tương quan tốt đẹp của con người với Thiên Chúa và gữa con người với nhau.
Trong bài Tin mừng, Chúa Giêsu gặp lại một số môn đệ của mình, chuẩn bị cho họ về cái chết sắp xảy đến với Ngài. Đầu tiên, chúng ta nghe nói về việc mấy người Hy Lạp mong muốn được gặp Chúa Giêsu, có lẽ điều này cho thấy sức hấp dẫn rộng lớn của Chúa Giêsu và hoạt động Kitô giáo trong tương lai đối với dân ngoại. Khi các môn đệ trình với Chúa Giêsu về cuộc gặp gỡ tiềm năng này, Ngài đáp lại bằng cách ám chỉ đến cái chết sắp xảy đến với Ngài. Tương tự bài đọc thứ nhất, Chúa Giêsu nói về sự đau khổ và niềm hy vọng tương lai. Chúa Giêsu báo trước việc Ngài và các môn đệ sẽ phải chịu đau khổ, nhưng Ngài nhắc nhở họ rằng để liên kết với Cha trên trời, họ phải phục vụ và đi theo Ngài.
Trong lúc tiếp tục trò chuyện với các môn đệ, Chúa Giêsu mặc khải mối liên hệ mật thiết của Ngài với Chúa Cha và lý do cái chết của Ngài. Chúng ta nghe thấy những lo lắng hết sức con người của Chúa Giêsu về cái chết, về nỗi kinh hoàng trước đau khổ mà Ngài phải gánh chịu và lời quả quyết, “bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến” (dịch sát nghĩa “tâm hồn Thầy bị khuấy động”). Khác với các sách Tin mừng Nhất lãm, Thánh Gioan không tường thuật về cơn hấp hối trong vườn Ghếtsêmani, nơi đó Chúa Giêsu cầu nguyện xin khỏi phải uống chén, tức là cho khỏi sự đau khổ và cái chết mà Ngài sắp chịu (xem Mt 26,39;Mc 14,36; Lc 22,42). Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Gioan miêu tả nỗi lo lắng của Chúa Giêsu về cái chết, mặc dù Ngài nhanh chóng nhắc nhở bản thân rằng Ngài không thể thoát khỏi nhiệm vụ này.
Chúa Giêsu thưa chuyện với Cha trên trời, và dân chúng không thể hiểu hết được điều đó, giải thích tiếng nói đó như là tiếng sấm hoặc tiếng một thiên thần. Thay vào đó, Chúa Giêsu khẳng định rằng tiếng nói từ trời đó là Chúa Cha, Đấng đang nói trực tiếp với những ai đi theo Ngài và khẳng định rằng Ngài tôn vinh Chúa Cha qua cái chết của mình. Hơn nữa, Chúa Giêsu tuyên bố rằng cái chết, sự phục sinh và lên trời của mình “kéo mọi người lên với Ngài”.
Khi bước vào những tuần cuối cùng của Mùa Chay, các bài đọc hôm nay nhắc nhở chúng ta chú tâm suy ngẫm về mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, kêu gọi chúng ta cầu nguyện, nhìn lại nội tâm và cảm tạ ơn cứu độ của Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia mời gọi chúng ta nhận ra mối liên hệ gần gũi cũng như sự quan tâm của Thiên Chúa đối với tất cả chúng ta, và thánh Gioan thôi thúc chúng ta để kết hiệp với Thiên Chúa qua mầu nhiệm Phục sinh của Chúa Kitô.
51.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Hữu An
GIỚI THIỆU CHÚA
Trên các chương trình tivi đều có mục quảng cáo. Người ta giới thiệu sản phẩm, cái gì cũng nhất, cái gì cũng đẹp cũng bền. Thông tin quảng cáo đã tác động mỗi ngày nhiều lần vào người xem tạo nên một ấn tượng mạnh. Từ đó trong tiềm thức, khách hàng sẽ tìm mua sản phẩm ấy. Quảng cáo là giới thiệu những gì là độc đáo nhất. Mục đích của giới thiệu là để biết nhau. Muốn giơí thiệu một người thì phải biết về người đó, tuỳ theo mối liên hệ giữa hai người mà mức độ biết nhau nhiều hay ít. Nếu không biết rõ về một người thì có thể giới thiệu sai về người ấy.
Trong Phúc Âm có đề cập đến việc giới thiệu. Có ba lời giới thiệu tiêu biểu:
- Chúa Cha giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là con Ta yêu dấu, làm đẹp Ta mọi đàng”. (Mt 4, 17).
- Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha: ”Ai thấy Thầy là thấy Cha”. (Ga 14, 9)
- Gioan Tẩy Giả giới thiệu Chúa Kitô: “Đây là Chiên Thiên Chúa. Đây Đấng xoá tội trần gian... Người đến sau tôi nhưng quyền thế hơn tôi vì có trươc tôi... Ngài làm phép rửa trong Thánh Thần”. (x. Ga 1, 29-34).
Trong khi toàn miền Giêrusalem và Giuđê đang coi Gioan như thần tượng, thì chỉ vì để giới thiệu Chúa Kitô, Gioan đã từ giã sự nổi danh của mình lặng lẽ rút lui. Chúa Kitô giới thiệu Chúa Cha bằng cách nói cho người nghe hãy nhìn vào chính Ngài. Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu Chúa Kitô bằng cách nói cho người nghe đừng nhìn vào mình, nhưng nhìn thẳng vào Chúa. Đây là cách giới thiệu chính xác nhất khi một người muốn giới thiệu cho người khác về Thiên Chúa.
Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa Nhật hôm nay (Ga 12, 20-33), Thánh Gioan Tông Đồ đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giêsu. Khi Người long trọng tiến vào Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến từ giã thế gian để về cùng Cha, có những người Hy Lạp khi được nghe giới thiệu, họ đã muốn tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do Thái Giáo “Họ lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua”. Việc họ tìm đến với Chúa Giêsu mang tính biểu tượng: dấu chỉ báo trước sự lên đường đến với Đức Kitô của muôn dân; dấu chỉ loan báo giờ Ơn Cứu Độ đã đến.
Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa Giêsu không phải chỉ để trông thấy mà thôi, nhưng họ muốn gặp để chuyện trò với Người, đàm đạo với Người. Họ đang bước tới trên con đường Đức Tin.
Họ đến gần Philípphê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giêsu. Philípphê đi nói với Anrê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan trọng của vai trò trung gian, của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người giới thiệu, người dẫn đường.
Hôm nay, trong Giáo Xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng vào Giáo Hội. Đây là nhừng người lương dân thiện chí muốn trở nên người Kitô hữu. Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Kitô và đón nhận tình yêu của Người. Sau sáu tháng học tập về Giáo Lý, họ được tiếp nhận vào cộng đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Thánh Tẩy trong Đêm Vọng Phục Sinh để trở thành con cái Chúa.
Kính thưa anh chị em
Dự Tòng, trở thành một Kitô hữu không chỉ là gia nhập một cộng đoàn Giáo Xứ, chấp nhận Giáo Lý của Chúa và Giáo Hội mà còn quan trọng hơn là gặp gỡ Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô tận của Người trong chính cuộc đời mỗi người.
Thật ra, mỗi người Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Người hiện diện trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ nghĩ tới để nhận ra Người. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực ra Thiên Chúa tìm kiếm anh chị em trước. Nhờ Người mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành tựu và hôm nay chúng ta đang đối diện với Người, gặp gỡ Người.
Một cuộc gặp gỡ, một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng. Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ thay đổi dần. Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận Người với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Người anh chị em hãy bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh chị em.
Kính thưa cộng đoàn, hôm nay Giáo Xứ chúng ta tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng. Hạt giống Đức Tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao nỗ lực của các Hội Đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống Đức Tin ấy để hôm nay Thiên Chúa cho mọc lên.
Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin vào Người là nhờ lời giới thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta. Có biết bao người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì trước kia đã học trường Đạo. Có người khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là người Công giáo. Cũng có những người cảm phục một tấm gương chứng tá của Phúc Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người Kitô hữu trong gia đình, làng xóm tràn đầy tình bác ái.
Hôm nay Giáo Xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công lao của biết bao người. Tạ Ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm cho Giáo Hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa ban. Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.
Thiên Chúa là tình yêu. Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn. Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều. Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay. Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nổi ban Con Một của Ngài” (Ga 3, 16) và tình yêu thương ấy là: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15, 13).
Chúng ta hãy là hạt lúa, đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.
52.Khát khao gặp Chúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trong ba câu đầu của Phúc Âm Chúa nhật hôm nay (Ga 12,20-22), Thánh Gioan đã kể lại lời giới thiệu về Chúa Giêsu. Khi Người long trọng tiến vào Giêrusalem để mừng Lễ Vượt Qua lần cuối cùng và cũng là chuyến từ giã thế gian để về cùng Cha, có những người Hylạp khi được nghe giới thiệu, họ đã muốn tìm gặp Người. Họ là dân ngoại có cảm tình với Do thái giáo “Họ lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa dịp Lễ Vượt Qua“. Những người dân ngoại này tìm gặp Chúa Giêsu không chỉ để trông thấy mà thôi, mà còn muốn gặp để chuyện trò đàm đạo với Người. Họ đang bước tới trên con đường đức tin.
Họ đến gần Philipphê và xin ông giới thiệu để gặp Chúa Giêsu. Philipphê đi nói với Anrê. Cả hai ông đến thưa với Chúa. Ở đây ta thấy tầm quan trọng của vai trò trung gian, của người giới thiệu, đến với Chúa cần có người giới thiệu, người dẫn đường.
Những người Hy lạp năn nỉ Tông đồ Philípphê: Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. Người Hy lạp ái mộ “muốn gặp Đức Giêsu”(Ga 12,21). Như thế họ đã có lòng khâm phục và muốn tin tưởng vào Chúa. “Trong Tin Mừng Gioan, gặp có nghĩa là tin. Đức Giêsu cho biết họ sẽ gặp Người nếu họ tin vào Người ngang qua cái chết” (Disciples in Mission 1999:22). Nghĩa là họ sẽ gặp Người trong vinh quang trên khổ giá. Bởi vậy thay vì trả lời trực tiếp, Đức Giêsu đã nói lên một sự thật. Giờ gặp Người là lúc Người bước vào vinh quang: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12,23). Nhưng vinh quang đó phải ngang qua khổ giá. Đúng hơn, chính trên khổ giá, chính lúc chương trình cứu độ được thực hiện, vinh quang Thiên Chúa tỏa sáng. Niềm tin của những người Hy lạp phải ngang qua thập giá mới đạt được. Đó là lý do tại sao Đức Giêsu nói với các môn đệ về sự thật trên bước đường theo Người. (Lm. Giuse Đỗ Vân Lực).
Chúng ta có ao ước gặp Chúa Giêsu không?
Để trả lời, trước hết nên tự hỏi lòng mình: tôi có yêu mến Chúa Giêsu không? Nếu thực sự tôi yêu mến Chúa, tôi rất ước muốn, khao khát gặp gỡ Người, và tôi sẽ tìm mọi cách để gặp Người cho bằng được. Dĩ nhiên, tôi cũng biết rằng, không giống như khi Chúa Giêsu còn tại thế, lúc mà những ai ao ước trông thấy Người, có thể thấy bằng mắt phàm; còn bây giờ tôi chỉ có thể thấy Chúa bằng con mắt đức tin, gặp Chúa bằng đức tin. Và nếu tôi ao ước thấy Chúa, gặp gỡ Chúa bằng đức tin, thì tôi sẽ toại nguyện, vì Chúa đã dạy rõ ràng : ai xin thì sẽ được, ai tìm thì sẽ gặp, ai gõ thì sẽ mở cho.
Thứ đến, Chúa luôn hiện diện cho chúng ta gặp Người, đặc biệt là trong Thánh lễ. Gặp gỡ Chúa khi dâng lễ mới là quan trọng. Chính vì thế mà khi Anrê và Philípphê đến thưa với Chúa Giêsu ước nguyện của mấy người Hy lạp, thì Chúa lại hướng các môn đệ đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh của Người. Chúa bảo, đã đến giờ Con Người được Tôn vinh, rồi Người lại nói đến hạt lúa mì gieo xuống đất phải chết đi mới sinh nhiều hạt khác. Và bấy giờ Người mới mời gọi ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy, và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó!. Như vậy là Ý của Chúa Giêsu đã rõ. Người hướng tất cả những ai muốn gặp Người, trong số đó có chúng ta, đến Giờ Tử Nạn Phục Sinh. Nơi đó, lúc đó chúng ta sẽ gặp được Chúa. Điều đó không có nghĩa là phải đợi đến ngày lễ Phục Sinh, chúng ta mới gặp được Chúa. Chúng ta cùng nhau gặp Chúa ngay bây giờ khi cùng nhau cử hành Thánh lễ, và đón Chúa đến với chúng ta trong lòng Giáo Hội. Với đức tin, chúng ta gặp được Chúa trong mầu nhiệm Tử Nạn Phục Sinh.
Chúa Giêsu đến trong Thánh lễ là Đấng đã chịu đóng đinh và chịu chết vì chúng ta, đã mặc lấy thân phận loài người như chúng ta, đã trải qua nhiều đau khổ, đã xin Thiên Chúa Cha cứu mình khỏi chết như lời thư gởi tín hữu Do Thái. Nhưng cuối cùng Người đã vâng phục Chúa Cha, sẵn sàng chịu chết. Chính vì thế mà Thiên Chúa đã tôn vinh Người, cho Người sống lại từ cõi chết.Đó là mầu nhiệm Giáo Hội tuyên xưng và cử hành trong mỗi thánh lễ, là bí tích Giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa với nhân loại nhờ Máu của Chúa Giêsu đổ ra trên thập giá, làm cho chúng ta thành Dân riêng của Thiên Chúa. Thánh lễ là bí tích của sự gặp gỡ, là bí tích của tình bằng hữu giữa Thiên Chúa và chúng ta nhờ Chúa Giêsu. Mỗi lần đến nhà thờ tham dự Thánh lễ, hãy nhớ câu nói của mấy người Hylạp: Chúng tôi muốn được gặp Thầy Giêsu. (ĐTGM Phaolô Bùi Văn Đọc).
Philípphê và Anrê là những người đầu tiên chia sẻ kinh nghiệm và đưa những người khác đến với Chúa (1,35-46). Bổn phận người môn đệ phải chu toàn trong đời sống là làm trung gian để cho nhân loại có thể gặp gỡ Chúa Giêsu.Thế giới ngoại giáo chưa hề biết trực tiếp Chúa Giêsu, mà chỉ nhờ lời rao giảng của các tông đồ: người ngoại đã “thấy” Chúa Giêsu nhờ Tin Mừng được rao giảng cho họ. Nhưng giữa ước muốn được “thấy” Chúa Giêsu và việc “gặp” Người còn có cuộc Thương Khó-Chết-Phục Sinh của Chúa nữa. Chỉ khi đó họ mới bắt đầu những kinh nghiệm đầu tiên về niềm tin chân chính vào Đức Kitô hằng sống, là những kinh nghiệm không thể có được trước Phục Sinh.
Hôm nay, Giáo xứ chúng ta có nghi thức tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng gia nhập vào Giáo hội. Đây là những lương dân thiện chí muốn trở nên Kitô hữu.Họ khao khát chân lý. Họ mong muốn tìm gặp Chúa Kitô và đón nhận tình yêu của Người. Sau những ngày tháng học hỏi về giáo lý, họ được tiếp nhận vào cộng đoàn và chuẩn bị lãnh nhận Bí Tích Rửa Tội trong Đêm Vọng Phục Sinh để trở thành con cái Chúa.
Kính thưa anh chị em Dự Tòng.
Trở thành Kitô hữu không chỉ là gia nhập vào cộng đoàn giáo xứ,chấp nhận giáo lý của Chúa Giêsu và Giáo hội mà còn quan trọng hơn là gặp gỡ Thiên Chúa và khám phá ra tình yêu vô bờ bến của Ngài trong chính cuộc đời mỗi người.
Thật ra, mỗi Dự Tòng đã được Thiên Chúa yêu thương. Ngài hiện diện trong cuộc đời mỗi người từ lầu rồi, mặc dù anh chị em chưa bao giờ nghĩ tới để nhận ra Ngài. Anh chị em tìm kiếm Thiên Chúa, nhưng thực sự Thiên Chúa tìm kiếm anh chị em trước. Nhờ Ngài mà cuộc tìm kiếm của anh chị em thành tựu và hôm nay chúng ta đang gặp gỡ Ngài.
Một cuộc gặp gỡ,một tình yêu có thể làm đảo lộn cả một cuộc đời. Khám phá ra tình yêu Thiên Chúa trong đời mình quả là một biến cố vô cùng quan trọng.Trong ánh sáng tình yêu của Thiên Chúa, kể từ nay cuộc đời anh chị em sẽ thay đổi dần.Thiên Chúa luôn hiện diện trong cuộc đời anh chị em. Hãy đón nhận Ngài với lòng tri ân cảm tạ. Cùng với Ngài anh chị em hãy bắt đầu một cuộc sống mới. Đó là cách tốt nhất để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho anh chị em.
Kính thưa cộng đoàn.
Hôm nay giáo xứ chúng ta tiếp nhận các anh chị em Dự Tòng. Hạt giống đức tin đã ươm mầm và mọc lên. Biết bao công sức, bao nỗ lực của các hội đoàn, bao người đã dày công chăm sóc cho những hạt giống đức tin ấy để hôm nay Thiên Chúa cho mọc lên.
Những Dự Tòng đây đến với Chúa, tin và gặp gỡ Ngài là nhờ lời giới thiệu và gương sống chứng tá của tất cả chúng ta.
Có biết bao người trở lại vì trước đây đã có những kỷ niệm đẹp về Đạo của Chúa. Có những người theo Đạo vì trước kia đã học trường Đạo. Có người khác theo Đạo vì đã có một ân nhân là người Công giáo. Cũng có những người cảm phục một tấm gương chứng tá của Phúc Âm. Có người lại nhận thấy đời sống người Kitô hữu trong gia đình, làng xóm tràn đầy tình bác ái.
Hôm nay giáo xứ chúng ta hân hoan thu hoạch một mùa lúa do công lao của biết bao người. Tạ ơn Chúa và tri ân những người truyền giáo âm thầm cho Giáo hội. Bổn phận giới thiệu Chúa cho người khác là một ân sủng Chúa ban.Khi giới thiệu Chúa cũng chính là lúc chúng ta thánh hoá bản thân mình.
Thiên Chúa là tình yêu.Vậy lời giới thiệu trung thực nhất phải là lời ca ngợi về một Thiên Chúa tình thương. Để nói về tình thương, chúng ta phải có kinh nghiệm về tình thương, ao ước và gặp gỡ Thiên Chúa tình thương. Cách chuyển thông chính xác nhất tình thương của Thiên Chúa là bản thân mỗi người yêu tha nhân với tấm lòng chân thành của mình.
Lời giới thiệu của Gioan Tẩy Giả về Chúa Kitô rất ngắn ” Đây là Chiên Thiên Chúa.Đây Đấng xoá tội trần gian“. (Ga 1,29). Điều đó nhắn nhủ rằng: Để giới thiệu về Chúa chưa chắc đã cần nói nhiều.Vì nói nhiều chưa chắc đã là nói hay.Nói hay mà không đúng thì chỉ làm người nghe lạc lối. Để giới thiệu về Chúa cần nói đúng và sống điều mình rao giảng. Khuôn mặt đúng nhất của Chúa là tình yêu thương: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài” (Ga 3,16) và tình yêu thương ấy là “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình thương của người hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).
Chúng ta hãy là hạt lúa, đến mảnh đất nào thì gieo mầm xanh tình thương để mảnh đất ấy bừng lên sự sống xanh tươi, hứa hẹn một mùa gặt tốt đẹp.
53.Con đường hạt lúa--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Con đường Chúa Giêsu đã đi qua là con đường hạt lúa: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh. Thật, Thầy bảo anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, nó vẫn trơ trọi một mình. Còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hoa trái" (Ga 12,23-24).
Hạt lúa được gieo trên ruộng đồng. Hạt lúa mục nát rồi mới nẩy mầm, đâm bông và kết hạt. Không mục nát, hạt lúa chỉ trơ trọi một mình. Sự mục nát làm trổ sinh sự sống mới, hứa hẹn mùa gặt tương lai.
Nhìn một cánh đồng lúa xanh tươi, uốn lượn theo gió, trải dài trong nắng, căng tròn sức sống, ta nghĩ đến muôn vàn hạt lúa đã mục nát để lên xanh đồng lúa bát ngát.
1. Con đường hạt lúa Giêsu.
Từ khi nhập thể, Chúa Giêsu đã trở nên như hạt lúa gieo vào lòng đất nhân loại. Thánh Phaolô trình bày mầu nhiệm tự huỷ: "Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế". Như hạt lúa bị mục nát: "Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự". Như hạt lúa nẩy mầm, lớn lên, đơm bông sinh hạt: "Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa" (Pl 2,6-11).
Phúc Âm Marcô viết: "Chúa Giêsu bắt đầu dạy cho các môn đệ biết Con Người phải chịu đau khổ rất nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết, và sau ba ngày sẽ sống lại" (Mc 8,31). Chúa Giêsu nói, Người phải chịu nhiều đau khổ. Phải có nghĩa là bắt buộc. Những kẻ gây đau khổ cho Chúa là những người có địa vị trong tôn giáo và xã hội, những người được coi là thuộc loại trí thức, chức cao, quyền trọng, gây nhiều ảnh hưởng trong dân.
Con đường Chúa đi, quá nhục nhã ê chề nên các môn đệ không thể chấp nhận. "Phêrô liền kéo riêng Chúa Giêsu ra và bắt đầu can trách Người. Nhưng khi Chúa Giêsu quay lại, nhìn thấy các môn đệ, Người liền mắng ông Phêrô: Satan, hãy lui lại đằng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Chúa, mà là của loài người" (Mc 8,32-33). Chính bản thân Chúa sẽ như hạt lúa chịu nhiều đau thương tơi tả. Mục nát là chặng đường phải đi qua để có mùa gặt trù phú.
Con đường Chúa đi thật quá hãi hùng: "Chúa Giêsu và các môn đệ đang trên đường đi Giêrusalem...Người lại kéo riêng nhóm mười hai ra và bắt đầu nói với các ông về những điều sắp xảy ra cho mình: Này, chúng ta lên Giêrusalem, và ở đó con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết Người. Ba ngày sau, Người sẽ sống lại" (Mc 10,32-34). Con đường mở mang Nước Trời sao quá khổ đau, bị nhạo báng, bị khạc nhổ, bị đánh đập. Hạt lúa Giêsu đã đi hết chặng đường đau khổ, mục nát trong cõi chết để đạt tới sự sống vinh quang.
2. Con đường hạt lúa các môn đệ.
Các môn đệ theo Chúa nên cùng đi trên con đường Chúa đã đi "Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta" (Mc 8,34). Thánh Phaolô kể về con đường đi của người môn đệ: "Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa" (CV 20,22-24). Người môn đệ của Chúa coi vinh dự là "đựơc thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết" (Pl 3,10-11). Thánh Phaolô trở thành hạt lúa Tin mừng. Trải qua tiến trình đau khổ mục nát, thánh nhân đã đứng ở vị trí đầu sóng ngọn gió trên cánh đồng truyền giáo mênh mông.
Xuyên suốt dòng lịch sử Giáo hội, biết bao hạt lúa môn đệ đã chịu mục nát để Giáo hội lớn mạnh không ngừng "Máu các vị tử đạo là hạt giống trổ sinh các tín hữu". Từng thế hệ chứng nhân như những hạt giống tốt, chết đi trong lòng đất các nền văn hoá, và đã trổ sinh rất nhiều hạt lúa mới. Tất cả làm nên cánh đồng lúa thiêng liêng, mùa màng tươi tốt trong cuộc sống đạo và truyền giáo.
3. Con đường hạt lúa chúng ta hôm nay.
Con đường hạt lúa như Chúa Giêsu hay như thánh Phaolô và các tông đồ là những con đường kiễu mẫu cho chúng ta đi theo.
Hạt giống phải mục nát đi mới sinh nhiều bông hạt. Muốn sống một cách trọn vẹn, trổ sinh hoa trái tốt lành, ta phải chết đi cho bản thân mình. Chết đi mỗi ngày một chút cho tính ích kỷ, giả dối hận thù ghen ghét. Mục nát đi trong đời sống thiêng liêng có nghĩa là chết cho tội lỗi, từ bỏ bản thân, từ bỏ ý riêng mình. Chết cho tội lỗi là dứt lìa những dục vọng đam mê trái luật Chúa. Chết cho tội lỗi là quyết tâm lánh xa những gì đưa đến sa ngã.
Định luật căn bản của sự sống là: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, còn ai bằng lòng mất sự sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho cuộc sống muôn đời" (Ga 12,25). Chết vì tình thương, vì hạnh phúc đồng loại, vì chính nghĩa, vì công lý, vì hòa bình, vì đức tin là những cái chết làm trổ sinh muôn ngàn nét đẹp cho đời.
4. Hạt lúa âm thầm và hạt lúa mục nát
Tình yêu cao quý hơn cuộc sống và mãnh liệt hơn sự chết. Cái chết của Chúa Giêsu đã nên lời yêu thương con người mọi nơi và mọi thời. Chính vì dám chết cho tình yêu nên luật yêu thương của Chúa trở nên một thách đố. Thách đố con người chui ra khỏi vỏ ốc ích kỷ của mình, ra khỏi những bận tâm, toan tính, vun quén cho mình, để sống cho tha nhân và cho Thiên Chúa. Quên mình, hiến thân, đón nhận cái chết như hạt lúa mục nát, đã từng làm cho Chúa Giêsu trăn trở, nao núng và thổn thức. Những giây phút cuối cùng giáp mặt với tử thần không thể không gay go, thống thiết và đầy thách thức: "Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến và biết nói gì? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" (Ga.12,27). Thế nhưng, Người đã biến cuộc tử nạn nên lời tôn vinh Thiên Chúa và lời yêu thương con người: "Chính vì thế mà con đã đến trong giờ này" (Ga.12,27).
Nếu "Hạt lúa âm thầm mọc lên" (x. Mc 4,26-29) là hình ảnh của Tin mừng chan hoà trong một nền văn hoá, thì "Hạt lúa phải mục nát đi" (x. Ga 12,24) là con đường gian truân vất vả để làm nên một mùa gặt phong nhiêu.
54.Chính khi hiến thân là khi nhận lãnh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đã đi được nửa chặng đường của Mùa Chay Thánh (Chúa nhật IV) với lời mời gọi “Mừng Vui Lên“, và tiến bước sang chặng thứ hai, Giáo hội khuyến khích con cái mình tiếp tục tiến lên không ngừng nghỉ trên con đường ăn năn đền tội, cải đổi đời sống để chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Việc đền tội này gia tăng niềm vui cho chúng ta khi tiến gần tới đích.
Bước vào Chúa nhật thứ V Mùa Chay, Giáo hội trình bày cho chúng ta đoạn Tin Mừng (Ga 12, 22-30), giúp chúng ta chuẩn bị bước vào Tuần Thánh tốt hơn và sống một cách sâu xa những mầu nhiệm quan trọng trong đời sống người Kitô hữu. Đàng Thánh Giá đối với người tín hữu là con đường phải qua, chết là để sống lại và hơn nữa để sống trọn vẹn đời sống người Kitô hữu, chúng ta phải chết.
Một phần đầu của đoạn Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các Tông Đồ: “Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình; nhưng nếu nó thối đi, thì nó sinh nhiều bông hạt” (Ga 12, 24). Trong hình ảnh này chúng ta tìm thấy một khía cạnh khác nữa của Thập Giá Chúa Kitô. Thật vậy, cái chết của Chúa Giêsu là một nguồn suối vô tận của sự sống mới, bởi vì nó mang theo trong chính nó sức mạnh tái sinh của tình yêu thương của Thiên Chúa. Ðược dìm mình trong tình yêu đó qua bí tích Rửa Tội, kitô hữu có thể trở thành “các hạt lúa” và đem lại nhiều bông hạt, nếu họ “liều mất sự sống mình” vì yêu thương Thiên Chúa và các anh chị em khác như Chúa Giêsu (Ga 12, 25).
Khi chú giải đoạn Tin Mừng này thánh Augustinô đã giải thích như sau: “Chúa Giêsu tự ví mình là “hạt lúa mì” được gieo vào lòng đất chịu mục nát đi để sinh nhiều bông hạt; Người được Chúa Cha sai xuống trần gian phải được hiến tế vì sự bất trung của người Do thái ngõ hầu đức tin của cả nhân loại được triển nở”. Bánh Thánh, được làm nên bởi muôn hạt lúa miến, được nhân lên và bẻ ra để trở nên tấm bánh cho mọi người. Của chết của các vị tử đạo luôn làm nảy sinh những người tín hữu; vì thế mới có cái ngược đời là, “ai yêu mạng sống mình” thì sẽ mất. Chúa Kitô chết để trao ban thịt máu mình cho chúng ta: phần chúng ta, chúng ta cũng phải bắt chước Chúa trao ban chính mình để được sống lại với Chúa và cùng với Chúa, trao ban quả phúc. Có biết bao người sống trong thinh lặng để mưu cầu lợi ích cho anh em? Từ sự thinh lặng và khiêm nhường ấy chúng ta học được bài học trở nên hạt lúa mì mục nát đi để lấy lại sự sống.
Phần kết của đoạn Tin Mừng hôm nay là một lời khuyên chúng ta tiến bước trong ánh sáng của Con Thiên Chúa trên toàn cõi địa cầu: “ … phần Ta, khi nào Ta chịu đưa lên khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta” (Ga 12, 32). Chúng ta phải cầu xin Thiên Chúa là Cha nhân lành xua tan bóng tối ra khỏi lòng chúng ta. Chúa Giêsu nói: “Ðã đến giờ con người được tôn vinh” (Ga 12, 23). Chúng ta tự hỏi: Giờ đó là giờ nào? Thưa, đây là giờ của Thập Giá! Ðó cũng là giờ bại trận của Satan, ông hoàng của sự dữ, giờ chiến thắng vĩnh viễn của tình yêu thương từ bi của Thiên Chúa. Chúa Kitô tuyên bố rằng “Người sẽ được nâng cao khỏi đất” (Ga 12, 32), đây là một kiểu diễn tả có hai nghĩa: “được nâng cao” bởi vì bị đóng đinh, và “được nâng cao” bởi vì được Thiên Chúa Cha tán dương trong việc Sống Lại, để lôi kéo tất cả mọi người đến với Người và hòa giải con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Giờ của Thập Giá, giờ đen tối nhất lịch sử, cũng là suối nguồn ơn cứu độ cho tất cả những ai tin vào Người. Đây là giờ của Thiên Chúa, giờ phút được trao ban cho chúng ta, chúng ta đừng bỏ qua! “Các con còn ngủ ư?” chúng ta không thể thôi là ánh sáng thế gian này. Khi mặt trăng phản chiếu ánh sáng mặt trời, chúng ta phải phản chiếu ánh sáng của Thiên Chúa.
Thật vậy, chính từ trên thập giá mà Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho thế gian biết tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại đang cần ơn cứu rỗi. Thiên Chúa là Chúa duy nhất của chúng ta, chúng ta là dân Ngài. Giao ước tình yêu bền vững giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được thực hiện cách trọn vẹn trong hy tế Vượt Qua của Chúa Kitô.
Nhờ tham dự vào Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Kitô, mà chúng ta có thể sống sự phong phú của hạt giống gieo xuống đất, và được Chúa đón nhận vào trong Vương Quốc trên trời. Amen.
55.Giao ước tình thương--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Lời Chúa trong bài đọc I hôm nay đề cập đến giao ước. Vậy, giao ước là gì? Giao ước là do sự thỏa thuận của hai bên về một số những điều phải giữ, chẳng hạn như: giao ước hôn nhân, khấn dòng. Nếu một bên vi phạm, giao ước sẽ không còn hiệu lực nữa.
Phản bội giao ước
Nếu xưa trên núi Sinai, Thiên Chúa đã thiết lập giao ước với dân Israel, theo đó Thiên Chúa hứa Ngài là Thiên Chúa của họ và sẽ bảo vệ họ, phần họ thì phải phụng sự Ngài như là Chúa tể duy nhất. Các điều khoản của giao ước ấy được khắc lên hai bia đá. Nhưng dân Israel đã thường xuyên vi phạm giao ước ấy, quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng (x. Xh 32), dẫn đến hậu quả là nước mất, nhà tan, dân chúng lâm cảnh lưu đày.
Thiên Chúa không đành rút lại lời hứa, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu là lý do Chúa lại trao ban cho dân một giao ước mới, giao ước của tình thương. Giêrêmia là người duy nhất nói về “giao ước mới”, ông tuyên sấm: “Chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng”. Họ đã bất trung, lỗi lời giao ước, chạy theo các thần ngoại mà thờ, không tuân giữ các điều Chúa truyền dạy, sống bất công và vô luân. Chúa là Thiên Chúa tình thương, vấn vương khi tạo dựng, lòng thành tín của Chúa trải muôn ngàn đời, không hề lỗi lời giao ước. Thay vì chia tay để con người chết trong tội, Thiên Chúa chọn để thiết lập một giao ước mới khi tuyên sấm: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Israel và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập”.
Giao ước tình thương
Nội dung của giao ước mới là: “Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: “Hãy học cho biết Đức Chúa,” vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa. Israel sẽ tồn tại mãi” (Gr 31,31-34).
Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi giận. Nay Chúa trao ban Luật cho dân với một cách thức và công thức mới là ghi tạc vào lòng con cái Israel (x. Gr 31, 33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và cá nhân với Chúa (x. Gr 31, 34) không qua trung gian: “Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em ” (Gr 31, 34). Theo nghĩa Kinh Thánh là hiệp thông với Chúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: “Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31, 34), đây là nét đặc trưng của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một giao ước “khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân” (Gr 31, 34). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô thực hiện và hoàn tất trong “giai đoạn” vượt qua.
Đức Kitô kiện toàn giao ước
Đêm Vọng Phục Sinh, có nghi thức làm phép nước rảy trên dân chúng, nếu có dự tòng thì sẽ rửa tội họ bằng nước phép này. Phép Rửa tội, bí tích khai tâm, cửa ngõ đức tin và là dấu chỉ giao ước giữa Thiên Chúa với con người. Nước dùng để rửa tội là nước lã như mọi thứ nước, nhưng được làm phép để rửa tội nên nước ấy mang một ý nghĩa đặc biệt vì trong đó có giao ước giữa con người với Thiên Chúa.
Nếu trong Cựu Ước, phép cắt được coi là “dấu chỉ giữa Thiên Chúa và người dân của Ngài” (St 17,10-14). Thì đến thời Tân Ước, Đức Giêsu đã đến và ban dấu chỉ cứu rỗi (x. Cl 2,11); (1Pr 3,11).
Ðể chứng minh giao ước này là giao ước đời đời không hề thay đổi, Đức Giêsu đã trao ban bánh và rượu trong Lễ Vượt Qua, tượng trưng cho thịt và máu của Người, làm dấu chỉ giao ước hữu hình ở lại luôn mãi với loài người chúng ta (x. Ga 6,53-56, Mt 26,17-28). Như vậy, bằng lời hứa bất biến Thiên Chúa đã liên kết với chúng ta, nên Kinh Thánh gọi chúng ta là con của lời hứa: “Hỡi anh em, như Isaac, anh em là con cái của lời hứa” (Gal 4,28).
Nhờ Bí tích Rửa tội, chúng ta nhận lời hứa và phúc lành đặc biệt của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nếu chúng ta giữ lời giao ước với Thiên Chúa và không vâng phục lời Chúa, chúng ta sẽ đánh mất phúc lành ấy.
Giao ước Thiên Chúa đã ký kết dân Israel qua trung gian Môise, cứu họ khỏi ách nô lệ Ai-cập, đưa vào đất Canaan, là xứ của lời hứa. Lúc ấy, Thiên Chúa không đưa họ tiến thẳng vào xứ Canaan ngay lập tức mà lại dẫn họ 40 năm trường trong sa mạc, ban cho họ các giới răn xem họ có vâng phục không (x. Đnl 8,2-16). Tuy nhiên, họ đã không tuân giữ, phần lớn trong số họ phải chết (x. Ed 20,10-13). Chỉ có hai người là Calép và Giôsuê vâng lời Thiên Chúa, và những người sinh ra trong sa mạc mới được đi vào xứ của lời hứa (x. Ds 14,6-38).
Hành trình vào Đất Hứa của dân Israel báo trước hành trình của người kitô hữu chúng ta về Nước Trời. Thật là bài học quí giá. Chúng ta cũng sẽ không thể vào được nếu chúng ta bất tín (x. Dt 3,18-19, 1Cr 10,1-11). Chúng ta hãy cỗ gắng tuân giữ luật Chúa và vâng theo lời Chúa để được vào Thiên Đàng. Amen.
56.Chết là khởi đầu đời sống mới--Lm. Giuse Nguyễn Văn Hữu
Hạt lúa mang mầm sự sống, nhưng có chết đi mới sinh nhiều bông hạt, nếu không chết đi, nó chỉ trơ trọi một mình. Đó là quy luật của mọi mầm sống hướng tới ngày sinh hoa kết trái. Nhưng trước cái qui luật ấy, ai cũng sợ hãi, kể cả Đức Giê-su, vị Thiên Chúa làm người: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến ! Thầy biết nói gì đây? Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”.
Tuy xao xuyến, sợ hãi trước ‘Giờ chết’, nhưng Đức Giê-su đã ý thức rằng: Chính lúc chết đi là thời khắc “Con Người được tôn vinh”. Nên Ngài đã sẵn sàng thưa lên cùng Chúa Cha rằng: “nhưng chính vì giờ này mà Con đã đến” trong trần gian.
Quả thật, Đức Giê-su đã can đảm, tự nguyện chấp nhận chết treo trên cây thập giá và bị chôn vùi trong lòng đất, rồi ngày thứ ba mới sống lại vinh quang. Hơn nữa, Đức Giê-su có chấp nhận chết đi và chết một cách nhục nhã như thế, thì Hội thánh mới được sinh ra và mọi người mới được kéo lên cùng Thiên Chúa.
“Chết đi để được bước vào đời sống mới” là quy luật của sự sống tự nhiên cũng như sự sống siêu nhiên. Thế nhưng con người, nhất là người thời nay, kể cả các Ki-tô hữu thường chỉ áp dụng quy luật này trong việc tìm kiếm vinh quang trần thế và hạnh phúc đời này, còn sự sống và hạnh phúc đời sau thì chẳng thấy mấy ai. Cụ thể:
Có người sẵn sàng thức khuya dạy sớm, lao tâm khổ tứ để làm giàu, nhưng lại ngại khó ngại khổ trong đời sống đạo.
Có người học đủ mọi thứ, đọc đủ mọi chuyện, nhưng lại không chịu học giáo lý, không chịu đọc Tin Mừng.
Có người tham gia mọi cuộc chơi, không cuộc vui nào vắng mặt, nhưng lại ngại ngùng không tham gia hoạt động tông đồ.
Có người đi đủ mọi nơi mọi chỗ, nhưng nhà thờ, nhà xứ, lễ lạy không thấy đi bao giờ.
Có người tôn thờ, sùng bái mọi thứ, nhưng lại không chịu tôn thờ Chúa.
Có người sẵn sàng đầu tư tiền của, sức khoẻ, thời gian, tâm huyết cho công việc thế trần, nhưng lại chểnh mạng coi nhẹ việc đầu tư cho Nước Trời mai sau.
Có người cẩn thận tuân theo ngày tháng và ‘tứ thời bát tiết’ trong trời đất, để điều chỉnh cuộc sống và thu xếp công việc làm ăn, nhưng lại chẳng tuân theo ngày tháng và Mùa trong năm Phụng vụ mà điều chỉnh cuộc sống và thu xếp việc linh hồn
Có người tận tâm phục vụ mọi đối tượng đến nỗi bán rẻ cả nhân phẩm và coi thường mạng sống của mình, nhưng lại ngại ngùng phục vụ Đức Ki-tô và Vương quốc của Ngài.
Sống như thế là chỉ lo giữ mạng sống mình và tìm kiếm những sự đời này. Đức Giê-su dạy rằng: “Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời sau. Ai tin theo và phục vụ Thày, thì Thày ở đâu, kẻ tin theo và phục vụ Thày cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thày, Cha Thầy sẽ quý trọng người ấy”.
Lạy Chúa Giê-su, Ngài là hạt lúa mì của Thiên Chúa Cha gieo xuống cánh đồng trần gian đã vui lòng chết đi trên cây thập giá và phục sinh vinh hiển, để khai mở cho nhân loại một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự sống bất diệt nơi Thiên Chúa. Xin cho con cũng biết đóng đanh tính xác thịt, thế gian và tội lỗi cùng với Chúa, để được cùng với Ngài trỗi dậy trong vinh quang vĩnh cửu. Amen.
57.Mục nát đi để trổ sinh dồi dào bông hạt--Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
(Gr 31,31-34; Dt 5,7-9; Ga 12,20-33)
Theo quy luật tự nhiên, chúng ta thấy cỏ cây ngoài đồng được mọc lên là nhờ vào những hạt giống đã chấp nhận bị chôn vùi, mục nát, để trổ sinh những cây non khác.
Theo quy luật sinh tồn của loài người cũng vậy! Cuộc sống của người này phụ thuộc vào người kia, nhất là sự sống của con cái phụ thuộc và sự sống và hy sinh của cha mẹ.
Trong đời sống thiêng liêng cũng thế, con người có được sự sống thần linh, ấy là nhờ vào mầu nhiệm khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu. Ngài đã chấp nhận trở nên như hạt giống gieo vào lòng đất, để mục nát, để sinh ra và để nuôi sống chúng ta.
Như vậy, nếu hành trình của Đức Giêsu trên trần gian là hành trình mục nát của hạt lúa gieo vào lòng đất, thì với các môn đệ cũng như với tất cả chúng ta, những người mang danh của Ngài, chắc chắn không còn con đường nào khác để được hạnh phúc và sự sống đời đời mà không đi qua con đường của hạt lúa!
1. Con đường tự hủy của Đức Giêsu
Thiên Chúa yêu thương nhân loại vô bờ, nên đã cống hiến “hạt giống Giêsu” cho loài người. Vì muốn làm đẹp lòng Chúa Cha, nên ngay từ giây phút đầu tiên trong thân phận hạt lúa, Đức Giêsu đã sống trọn vẹn vai trò của mình, khi “… không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế”. Và: “Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (x. Pl 2, 6-8).
Thật vậy, con đường của Đức Giêsu đi là con đường tự hủy dẫn đến cái chết tức tưởi trên thập giá. Vì thế, việc hạ mình của Ngài đã làm cho rất nhiều người không thể hiểu được, nên đôi khi lại trở thành trò cười cho thiên hạ, thành sự thất vọng cho các môn đệ.
Chính vì Đức Giêsu lội ngược dòng như vậy, nên Phêrô đã không thể chấp nhận thầy của mình phải chịu như thế, nên khi được nghe loan báo về cuộc khổ nạn qua con đường khổ giá, ông đã mạnh mẽ lên tiếng can ngăn để Thầy khỏi bị những điều đó! (x. Mt 16, 22).
Nhưng Đức Giêsu đã nhất quyết vâng phục Thiên Chúa Cha để đi trọn vẹn con đường của hạt lúa trong thân phận tự hủy mà Cha của Ngài đã muốn Ngài phải đi. Chính vì điều đó, nên đến “Giờ” của Ngài: “Thiên Chúa đã siêu tôn Người, và ban tặng danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất, và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ, và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,9-11).
2. Con đường tiếp bước của các môn đệ
Cùng một con đường như Thầy đã đi, các môn đệ là những người sẽ tiếp bước trên con đường ấy. Vì thế, nơi các ông không thể có một con đường nào khác để thay thế con đường tự hủy trong thân phận hạt giống mục nát.
Quả thật, Đức Giêsu đã nói với các ông: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34).
Như vậy, đi theo Chúa là đi trên con đường khổ giá, con đường của hy sinh, con đường dẫn đến cái chết. Tất cả những điều đó đang rộng mở để đón chờ người môn đệ của Thầy Giêsu bước tới. Điều này đã được thánh Phaolô cảm nghiệm và chia sẻ, ngài nói: “Giờ đây bị Thánh Thần trói buộc, tôi về Giêrusalem. Không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó, trừ ra điều này, là tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng: xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng gì, miễn sao tôi chạy hết chặng đường, chu toàn chức vụ tôi đã nhận từ Chúa Giêsu, là long trọng làm chứng cho Tin mừng và ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20,22-24).
Quả đúng như lời Đức Giêsu đã nói: “Trò không hơn thầy, tớ không hơn chủ” (Mt 10, 24). Vì thế, người môn đệ chân chính chắc chắn phải là người phác họa lại hình ảnh, lối sống và hành vi của Thầy mình cách rõ nét hơn bao giờ hết! Thế nên, với người môn sinh, không có gì vinh dự và hãnh diện cho bằng: “Được thông phần những đau khổ của Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa trong cái chết của Người, với hy vọng cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3,10-11).
Khi nắm được quy luật tất yếu: “Phải qua đau khổ mới vào trong vinh quang” (x. Lc 24,26), các môn đệ đã trung thành đi đến cùng con đường khổ giá bằng việc lấy chính mạng sống của mình để làm chứng cho Đức Giêsu. Tuy nhiên, không chỉ riêng các môn đệ, mà trải qua suốt dòng lịch sử, thời điểm nào cũng vẫn có người tiếp bước trên con đường tự hủy của hạt lúa mì, đó là chấp nhận từ bỏ ý riêng, sẵn sàng vâng phục và chấp nhận cái chết để đổi lấy sự sống đời đời.
3. Con đường dấn thân của mỗi chúng ta
Người ta vẫn thường nói: “Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh”. Thật vậy, ngày chúng ta lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, chúng ta được mời gọi trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Giêsu, tức là chúng ta mang trong mình đặc tính, hình ảnh của Đức Giêsu và thuộc về Ngài hoàn toàn.
Nếu Đức Giêsu đã đi qua con đường vâng phục, đón nhận khổ giá và chấp nhận cái chết để cứu chuộc con người. Thì đến lượt chúng ta, có lẽ không con đường nào có thể đem lại cho mình sự sống đời đời ngoài con đường khổ giá và hy sinh. Vì thế, cùng một lời mời gọi cho các môn đệ khi xưa, hôm nay Đức Giêsu cũng mời gọi chúng ta: “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta” (Mc 8,34).
Lời mời gọi này đã đưa chúng ta vào con đường của Đức Giêsu đã đi. Vì thế, chúng ta sẵn sàng mục nát đi cho ý riêng, để thay vào đó là hoa trái của đức vâng phục. Mục nát đi tính tự kiêu, tự phụ, khoe khoang, thích được ăn trên ngồi trước, được mọi người trọng vọng, để thay vào đó là hoa trái của lòng khiêm nhường. Mục nát đi sự dửng dưng, vô cảm để thay vào đó là sự liên đới, tình huynh đệ. Mục nát đi tính ích kỷ, óc bè phái để thay vào đó là hoa trái của lòng bao dung, quảng đại, yêu thương, thứ tha và hiệp nhất. Mục nát đi sự giả dối, gian tham, lọc lừa, để thay vào đó là hoa trái của sự thật thà, liêm chính. Mục nát đi thái độ được phục vụ, để thay vào đó là tinh thần hiến thân phục vụ mọi người. Mục nát đi những trào lưu tục hóa, dục vọng, để thay vào đó là hoa trái của sự thánh thiện. Và, mục nát đi những “chân lý nửa vời”, những hành vi tôn thờ ngẫu tượng, để thay vào đó là lòng khát khao đi tìm chân lý trọn vẹn là chính Chúa và tin tưởng tuyệt đối ở nơi Ngài….
Như vậy, khi chúng ta chấp nhận đi trên con đường của Đức Giêsu trong thân phận của hạt lúa, chắc chắn cuối con đường ấy, chúng ta sẽ gặp được niềm vui, bình an và hạnh phúc, nhất là được sự sống đời đời làm gia nghiệp.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn giúp sức cho chúng con, để chúng con can đảm, trung thành đi đến cùng con đường mà chính Chúa đã đi khi xưa, ngõ hầu chúng con được hạnh phúc bất diệt trong ngày mùa sau hết. Amen.
58.Xin tôn vinh Danh Cha--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến
Giờ của Chúa Giêsu lần đầu tiên được loan báo đã đến (12,23; x. 8,20). Bước sang chương 13 giờ của Người về với Chúa Cha bắt đầu được thực hiện dần. Bố cục của chương 12: – Xức dầu (cc. 1-8), – Vào Giêrusalem (cc. 9-19), – Loan báo sự chết và vinh quang (cc. 20-36), – Kết luận về sứ vụ của Người (cc. 37-50). Có thể chia 12,20-33 làm hai phần: đoạn 12,20-28 với dẫn nhập (cc. 20-22) và đoạn 12,28b-33 với kết luận (c. 33). Ngoài dẫn nhập và kết luận là lời của thánh sử, phần còn lại của đoạn tin mừng nầy được kể là lời của Chúa Giêsu. Có hai lưu ý: 1- Người nói theo cách trực tiếp, ở ngôi thứ nhất; 2- Có những chỉ dẫn về thời gian như “giờ” (cc.23.27[2x]), “bây giờ” (c.27.31[2x]) liên quan đến sự chết và sống lại của Người.
Người Hy lạp tìm đến và muốn gặp Chúa Giêsu (cc.20-22). Điều nầy ám chỉ ơn cứu độ của Người đã đến lúc mở ra cho mọi người; chỉ được bắt đầu từ “giờ” của Người. Đoạn 12,23-28 được đóng khung bởi câu 23 và 28, nói đến “giờ” và “sự tôn vinh” của Chúa Giêsu; đoạn nầy có thể chia thành hai: cc. 23-26 và cc 27-28. Trong cc. 23-26 Chúa Giêsu đưa ra ba quy luật về sự chết và sự sống: – Nếu không chết đi không thể sống lại (c. 24; x. 1 Côr 15,36); – Nếu từ bỏ sự sống đời nầy đi sẽ tìm thấy sự sống lại ngay trong đó (c. 25); – Nếu theo Chúa sự sống lại sẽ được bảo đảm (c. 26; x. 14,3; 17,24).
Chúa Giêsu áp dụng các quy luật nầy cho chính mình trước tiên. Thánh Gioan không thuật lại cảnh Người trong vườn Giệtsêmani, mà chỉ có các câu 12,27-28a. “Giờ” mà Người xin Chúa Cha cứu khỏi là giờ chết. Giờ nầy chính là “chén” mà Người xin khỏi uống (x. Mc 14,36). Tuy nhiên, Người đã xin Chúa Cha tôn vinh chính danh của Người, nghĩa là thực hiện ý định cứu chuộc nhân loại bằng sự chết của Người (c. 28a; x. 18,11).
Đoạn 12,28b-33 ghi lại lời của Chúa Cha và kết quả sự chết của Chúa Giêsu. Chỉ trong phúc âm Gioan mới có tiếng Chúa Cha đáp lại Chúa Giêsu trong cơn hấp hối. Động từ “tôn vinh” được dùng hai lần, ở thể chủ động, và ở thì quá khứ và tương lai. Chúa Cha chuẩn nhận lời cầu xin của Chúa Giêsu, và xác nhận là Người đã tôn vinh danh của Người qua những việc Chúa Giêsu đã làm và sẽ còn làm vinh danh Người nữa trong sự chết và sống lại của Con của Người. Như thế, trong phúc âm nhất lãm, sự im lặng của Chúa Cha trước lời cầu xin của Chúa Giêsu hàm ý là Người muốn Chúa Giêsu phải chết để tôn vinh danh Người.
Việc Chúa Giêsu chết có hai kết quả đối nghịch nhau: kéo những người tin đến với Người (cc. 30.32), và loại ra ngoài những ai không tin (cc. 31-31). Xét theo thời gian, việc Chúa Cha tôn vinh danh Người (c. 28), việc phán xét thế gian (c. 31), việc mọi người được hưởng ơn cứu độ (c. 32) diễn ra cùng lúc khi Chúa Giêsu bị treo cao trên thánh giá, chết và được tôn vinh (c.23.32).
Vì yêu thương và muốn cứu thế gian mà Thiên Chúa đã ban Người Con. Đừng để Người Con ấy phán xét vì đã không tin vào tình yêu của Cha Người.
59.Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi
Để mô tả một sứ mệnh, người đời thường nêu lên những chương trình, kế hoạch to lớn mà họ sẽ thực hiện trong cuộc sống. Tuy nhiên chẳng có ai nói về cái chết của họ như phần cốt yếu trong sứ mệnh cả! Đối với Chúa Giêsu, cuộc Thương khó và cái chết của Người mới là tột đỉnh của sứ mệnh. Cái chết của Người cần thiết để chu toàn sứ mệnh, sứ mệnh của “Con Một” được Chúa Cha ban cho nhân loại để minh chứng sự thật “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian” như thế nào. Bài Tin Mừng tuần trước cho ta hình ảnh cái chết cứu độ của Chúa Giêsu: “Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3,14). Chúa Nhật hôm nay, bài Tin Mừng lại đề cập đến cái chết cứu độ của Chúa Giêsu qua một hình ảnh sống động và quen thuộc: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
a) Cái chết đem lại sự sống
Qua hai hình ảnh, con rắn đồng treo cao trong sa mạc và hạt lúa gieo vào lòng đất, Chúa Giêsu đều muốn nói lên ý nghĩa và hiệu quả cái chết của Người, là cứu sống và ban sự sống. So sánh giữa con rắn đồng trong sa mạc với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên đồi Gôn-gô-tha thật vô cùng ý nghĩa. Rắn lửa sa mạc đã làm cho nhiều người Ít-ra-en phải chết. Cũng thế, trong vườn địa đàng con rắn Xa-tan quỷ quyệt đã cắn nguyên tổ loài người và gieo nọc độc là tội lỗi và sự chết cho nhân loại. Thiên Chúa thực hành nguyên tắc dĩ độc trị độc, đã dùng hình ảnh con rắn đồng để cứu sống dân Ít-ra-en. Giờ đây, Người lấy chính cái chết của Con Một Người trên thập giá để đánh bại cái chết và tội lỗi, đem lại sự sống cho nhân loại.
Hình ảnh hạt lúa gieo xuống lòng đất cũng hết sức linh hoạt. Hạt lúa muốn trở thành một cây lúa và sinh bông hạt cần phải trải qua một tiến trình kỳ lạ. Trước hết nó phải nằm trong bàn tay người gieo hạt. Ông ta vung nó xuống đất. Nằm trong lòng đất, nó phải chờ đợi những yếu tố cần thiết để bắt đầu một cuộc biến đổi: một khoảng đất màu mỡ, hơi ẩm của đất, ánh nắng mặt trời... Tất cả sẽ ảnh hưởng tới lớp vỏ bên ngoài, làm cho nó vỡ ra và mục nát. Lúc vỏ trấu vỡ ra là lúc hạt lúa thấy mình sắp sửa không còn là hạt lúa nữa! Rồi mầm sống dấu ẩn bên trong được đánh thức dậy, nảy nở, biến thành một mầm xanh, thoát ra khỏi lớp vỏ đã vỡ và từ từ chui lên khỏi lòng đất để đón lấy ánh mặt trời. Biến thành cây lúa, nó không còn là hạt lúa nữa. Nhưng chính nó sẽ đem lại nhiều hạt lúa khác.
Nếu đem so sánh hình ảnh trên với cuộc đời Chúa Giêsu, ta sẽ thấy một tiến trình y hệt. Chúa Cha đã gieo hạt lúa Giêsu xuống trần gian, đặt trong cung lòng Đức Trinh nữ Maria. Người đã sinh ra, lớn lên và sống ẩn dật tại Na-da-rét. Người đã lên đường thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Sau hết, qua cái chết cứu chuộc, Người đã cứu mọi người khỏi tội lỗi, phục hồi cho nhân loại sự sống đời đời mà ma quỷ đã cướp đi khi nguyên tổ không tuân phục Thiên Chúa. Đặc biệt, cuộc Thương khó, cái chết trên thập giá, an táng trong mồ và sự Phục sinh của Chúa Giêsu quả thực là những diễn tiến y hệt như tiến trình biến đổi của hạt lúa. Như hạt lúa phải chết đi để đem lại sự sống cho những hạt lúa khác thì Chúa Giêsu cũng phải chết đi để chia sẻ sự sống đời đời cho toàn thể nhân loại.
b) Những bài học về hạt lúa
Không phải Chúa Giêsu chỉ nói về sứ vụ của Người là chết để loài người được sống, nhưng Người còn đưa ra những bài học vô cùng ý nghĩa về cái chết của hạt lúa.
Bài học đầu tiên là về sự ưu tiên của sự sống đời đời, được trình bày qua nghịch lý sống và chết, tạm bợ và vĩnh cửu. Sống ở đời này, nếu ta chỉ lo lắng hưởng thụ mà không lấy cuộc sống để phục vụ, ta sẽ mất cuộc sống vĩnh cửu mai sau, tức là chết muôn đời. Nếu ta lấy cuộc sống đời này như một cơ hội để phục vụ, làm điều lành mặc dù phải chịu thiệt thòi, thì ta sẽ được sự sống muôn đời.
Bài học thứ hai về gương phục vụ của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu đã phục vụ mọi người vì Người nhìn thấy hình ảnh của Thiên Chúa nơi người khác. Phục vụ người khác là phục vụ chính Thiên Chúa ở trong họ. Giờ đây, Chúa Giêsu đã đồng hóa Người với anh chị em. Người khẳng định: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40). Ta là môn đệ Chúa Giêsu nên là người phục vụ Chúa trong anh chị em. Sống đời phục vụ, ta sẽ được Thiên Chúa Cha “quý trọng” như Người đã quý trọng Con Một Người.
Bài học thứ ba là biết xử sự sao cho đúng khi ta cảm thấy xao xuyến vì phải chấp nhận hy sinh. Chúa Giêsu biểu lộ hoàn toàn những tâm tình hãi sợ, xao xuyến khi thấy cái chết tủi nhục đến gần. Cảm giác “biết nói gì đây?” đã cho ta thấy Người như bị tê liệt, hoảng hốt. Nhưng đó cũng chính là lúc Chúa Giêsu biểu lộ trọn vẹn sự tín thác của Người nơi bàn tay quan phòng của Chúa Cha. Người chỉ còn nhìn thấy một điều ưu tiên phải làm, tức là làm cho Danh Cha được tỏ rạng. Tất cả ý nghĩa cuộc đời của Chúa Giêsu ở trần gian này là để tôn vinh Danh Cha. Cái chết của Người sẽ là hành vi cuối cùng làm cho Danh Cha được chiếu sáng tột đỉnh. Lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha đã biểu lộ sự tuân phục tuyệt đối. Lập tức Chúa Cha nhìn nhận việc tôn vinh Chúa Giêsu đã làm cho Người và đáp lại với lời hứa chính Người sẽ tôn vinh Chúa Giêsu qua cuộc Phục Sinh vinh hiển.
c) Cuộc phán xét thế gian này đang diễn ra
Nói đến cái chết của Người, Chúa Giêsu nhắc nhở ta hướng đến một trời mới đất mới: quyền lực ma quỷ và thế gian sắp bị đánh bại. Cái chết của Người sẽ dứt khoát làm cho “thủ lãnh thế gian này bị tống ra ngoài”. Sau chiến thắng ở vườn Địa đàng, thế gian này đã biến thành lãnh thổ của Xa-tan rồi. Nó tha hồ tung hoành và khống chế con người. Nhưng sau chiến thắng của Chúa Giêsu nhờ cái chết, Xa-tan không còn đất đứng nữa. Con đường đi đến với Thiên Chúa đã được nối lại để ta có thể gặp gỡ Thiên Chúa trong Đức Kitô.
Tuy nhiên ta nên hiểu cuộc phán xét thế gian, hoặc chiến thắng của Chúa Giêsu là điều đang tiếp tục xảy ra và sẽ kết thúc vào ngày thế mạt khi Người trở lại để phán xét muôn loài. Do đó, ngay bây giờ và tại thế gian này, Chúa Giêsu mời gọi ta tham dự vào cuộc chiến thắng ấy bằng cách để cho Người “kéo ta lên với Người”. Đừng chống cự, nhưng ta cứ theo Người, để cho Người kéo ta vào trong mối thâm giao với Người và ngày sau được chung hưởng vinh phúc với Người. Nhưng ngay bây giờ, ta hãy để cho Người kéo ta lên với Người trên thập giá, bắt chước Người cam chịu mọi gian nan thử thách, nhưng vẫn luôn trung thành và hoàn toàn tín thác nơi Thiên Chúa.
d) Suy nghĩ và cầu nguyện
Có khi nào tôi suy nghĩ về ý nghĩa cái chết của Chúa Giêsu không? Tôi đã cầu nguyện về cái chết của Người như thế nào? Cái chết ấy ảnh hưởng gì đến đời sống đức tin của tôi?
Bài học nào về hạt lúa Chúa dạy làm cho tôi phải suy nghĩ nhất? Tại sao? Tôi sẽ thực hành như thế nào?
Điều gì ngăn cản tôi, không để cho Chúa Giêsu kéo tôi lên với Người? Tôi sẽ nghe Chúa nói gì về tình trạng này?
Cầu nguyện
“Lạy Cha, xin ban cho con điều khó hơn cả,
đó là ơn nhận ra Thánh giá của Con Cha
trong mọi nỗi khổ đau của đời con,
và ơn bước theo Con Cha trên đường Thánh giá
bao lâu tùy ý Cha định liệu.
Xin đừng để con trở nên chua chát
nhưng được trưởng thành nhờ đón nhận đau khổ
với sự kiên nhẫn, quảng đại, nhân từ
và lòng khát khao nóng bỏng
có ngày sẽ được ở nơi không còn khổ đau.
Ngày đó, Cha sẽ lau khô mọi giọt lệ
của những người đã yêu mến Cha,
đã tin vào tình yêu Cha giữa nỗi thống khổ,
tin vào ánh sáng của Cha giữa đêm đen.
Nhờ Cha, ước gì đau khổ của con
nói lên lòng tin của con
vào những lời hứa của Cha,
lòng cậy của con vào tình yêu trung tín của Cha
và lòng mến mà con dành cho Cha.
Lạy Cha, xin cho con yêu Cha hơn yêu bản thân
và yêu Cha chỉ vì Cha,
chứ không mong phần thưởng.
Ước gì Thánh giá trở nên mẫu gương cho con,
là ánh sáng cho đêm tăm tối,
nhờ đó con không còn coi khổ đau
như một tai họa hay một điều vô lý,
nhưng như một dấu chỉ cho thấy
con đang thuộc về Cha mãi mãi.”
- Cha Karl Rahner
(Trích RABBOUNI, lời nguyện 63)
60.Học Yêu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
“Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng, Lề luật của Ta” (Gr 31,33). Chắc hẳn Lề luật mà Thiên Chúa muốn khắc ghi vào tâm khảm dân của Người chính là Luật của tình yêu. Sau này chính Con Một Người nhập thể đã khẳng định rằng mọi lề luật và lời ngôn sứ gồm tóm trong điều này là anh em hãy làm cho tha nhân những gì anh em muốn tha nhân làm cho mình (x.Mt 7,12).
Một trong những khao khát đượm tình hiện sinh của con người đó là được sống và sống mãi. Cái khát vọng này như đã trở thành vô vọng với cả những người quyền cao chức trọng, với các vua chúa xưa nay. Sở dĩ nó đã trở thành vô vọng, vì người ta quá băn khoăn về cuộc sống đời này trong sự vị kỷ. “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời”(Ga 12,25). Sự coi thường ở đây không phải là thái độ lơ là, vô trách nhiệm, mà là một sự hiến mình vì tha nhân trong tình yêu.
Quy luật của tình yêu đã được thánh Phanxicô Axidi phác họa trong lời kinh hoà bình: “Chính khi thứ tha là khi được tha thứ. Chính khi hiến thân là khi được nhận lãnh. Chính khi quên mình là lúc gặp lại bản thân. Chính khi chết đi là khi vui sống muôn đời”. Chắc hẳn thánh nhân thuộc nằm lòng lời khẳng định của Chúa Giêsu: “Thật, Thầy bảo thật với anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu nó chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12,24).
Đã là quy luật thì có tính khách quan cần phải tuân thủ. Để tuân thủ quy luật nào đó thì trước hết phải nhận biết nó. Thế nhưng không phải mọi quy luật đều hiện hữu cách minh nhiên dễ thấy, dễ nhận ra. Định luật vạn vật hấp dẫn đã có từ khi vũ trụ hình thành thế mà đến cuối thế kỷ XVII Isaac Newton mới phát hiện. Việc khám phá định luật này là kết quả của một quá trình nghiên cứu mà việc thấy quả táo rơi chỉ là điểm khởi đầu. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã khẳng định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Chúa Giêsu đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục…” (Dt 5,9), nói đúng hơn, đó là Chúa Giêsu đã trải qua nhiều đau khổ mới học biết thế nào là yêu thương.
Yêu thương không hẳn chỉ là cho đi những gì mình có. Với quyền năng của Đấng tạo thành, có từ đời đời với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần, Chúa Kitô có thể biểu lộ tình yêu bằng việc cung cấp lương thực cho con người. Người cũng đã biểu lộ tình yêu bằng việc giáng phúc thi ân chữa lành bệnh tật, cho người què được đi, người mù được thấy người điếc được nghe… Người cũng đã biểu lộ tình yêu khi làm chủ thiên nhiên hay làm chủ cả quỷ thần. Người lại đã từng biểu lộ tình yêu khi làm cho một số người sống lại từ cõi chết. Tuy nhiên, nếu chỉ cho đi những gì mình có bằng khả năng và quyền hạn của mình thì cũng chưa hẳn đã là yêu đến cùng.
Yêu thương cách đích thực là cho đi những gì mình là. Phút giây nhập thể trong cung lòng Mẹ Maria, Ngôi Hai Thiên Chúa đã tự nguyện cho đi thân phận của một vị Thiên Chúa. Lời đáp ca trong Thánh Lễ Truyền Tin, nói đúng hơn là Thánh Lễ mừng mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể: “Hy sinh và lễ vật, thì Chúa chẳng ưng, này Con xin đến để thực thi ý Người” (x.Tv 40). Suốt ba năm công khai rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã nỗ lực không ngừng cho đi cái thân phận của Đấng Thiên Sai, Đấng từ trời mà xuống, để sống kiếp “không chỗ tựa đầu”(x.Lc 9,58). Vì yêu thương Chúa Giêsu đã đau xót đến tột độ đến nỗi mồ hôi tuôn ra pha lẫn máu trong vườn cây dầu, để rồi cho đi thân phận một con người, thân phận của vị vua trên các vua và cả thân phận Con Thiên Chúa của mình bằng cái án bất công và cái chết ô nhục trên thập giá. “Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì hãy xuống khỏi thập giá xem nào!” (Mt 27,40). “Nếu ông là vua dân Do Thái thì cứu lấy mình đi!”(Lc 23,37). Người vẫn ở đó, trên thập giá cho đến hơi thở cuối cùng.
Mất những tất cả gì mình có, thật đau xót, nhưng dẫu sao vẫn còn chính mình. Mất tất cả những gì mình là, đúng là một điều tồi tệ, vì chẳng còn gì, ngay cả bản thân. Thế nhưng khi cái điều tồi tệ ấy khi được thực hiện bằng sự ý thức và tự do vì hạnh phúc của tha nhân, thì nó trở thành tiền đề cho tiến trình yêu thương và phát triển. Khi bị mục nát đi, chẳng còn là hạt lúa thì cây lúa mọc lên và các gié lúa trĩu hạt hình thành.
Đã yêu là phải tuân thủ quy luật của tình yêu. Để biết được quy luật thì phải học hỏi, tìm tòi. Học mà thôi, vẫn chưa đủ, cần phải tập luyện liên lỉ. Có đau đớn và cũng có xót xa. Có xao xuyến và cũng có hy sinh. Nhưng không thể không tập luyện. Để được sống và sống dồi dào, để sinh được hoa trái và hoa trái tồn tại, khởi đầu xin hãy tập cho đi những gì mình có và tiến dần đến chỗ trao ban những gì mình là, vì người mình yêu, vì người yêu mình, vì cả người ghét mình lẫn kẻ bách hại mình.
61.Chuyện tình có hậu--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Hàng năm theo niên lịch phụng vụ, để chuẩn bị cho đại lễ Giáng Sinh, Hội Thánh không chỉ dành quãng thời gian mùa Vọng mà còn dành một tuần đặc biệt từ 17-24/12 như thời gian chuẫn bị gần. Tuần đặc biệt này có các bài đọc riêng để giúp tín hữu y thức hơn. Để đón mừng đại lễ Phục Sinh, đón mừng mầu nhiệm Khổ Nạn - Phục Sinh của Đức Kitô thì có những ngày mùa chay thánh và tuần lễ chuẩn bị gần khởi từ chủ nhật thứ V mùa chay. Xin chia sẻ đôi nét suy nghĩ được gợi ý từ hai bài đọc của ngày thứ hai tuần đặc biệt này: bài trích sách tiên tri Đaniel kể về chuyện bà Suzana và bài trích tin mừng thánh Gioan về chuyện người phụ nữ phạm tội ngoại tình bị bắt quả tang.
Thưở còn "làm chú" trong Tiểu Chủng Viện dù phải nghe một bài đọc rất dài, bài trích sách tiên tri Daniel nhưng không ai trong chúng tôi cảm thấy oải vì chuyện kể về bà Suzana vừa hấp dẫn vừa lôi cuốn trí tò mò của các chú thiếu niên đang độ tuổi nhổ giò. Hơn nữa, ai cũng hể hả như vừa theo dõi một cuốn phim hay, một câu chuyện đậm tính bi hài mà lại kết thúc có hậu: kẻ gian ác phải chết còn người vô tội thì được cứu sống. Câu chuyện bà Suzana còn trên môi miệng những chú tinh nghịch trong các giờ chơi những ngày sau đó: nè,cho tao biết cây chò hay cây sồi? Sự tinh nghịch của chúng tôi cũng có phần do thích thú trước trí thông minh của cậu bé Đanien biết phân biệt điểm khác nhau giữa sự thật và điều dối trá. Sự thật vì chỉ có một nên phải tương đồng còn điều dối trá thì dễ khác biệt. Đây là một trong những chìa khoá giúp các nhà điều tra tìm ra sự thật hoặc phát giác sự giả dối. Hai người gian dối nếu không quá lanh mưu hay lưu manh thì rất dễ lộ tẩy do những khác biệt trong lời khai về một vấn đề hay một sự kiện. Đanien đã khôn ngoan tách hai ông lão dù tóc đã bạc nhưng tuổi mãi ở tầm 35 riêng ra để tra xét. Và thế là sự dối trá đã lộ ra nơi chính lời khai của hai ông. Người thì nói bà Suzana phạm tội dưới gốc cây sồi ông kia lại bảo dưới gốc cây chò. Thú thật khi chọc ghẹo nhau, lũ mới lớn chúng tôi đã tự thú nhận trí tò mò của mình về những chuyện " rồi ai cũng sẽ biết". Tuy nhiên phải nhìn nhận điều này rằng tính có hậu của câu chuyện làm ai ai cũng hể hả. Kẻ gian ác, dù là vị vọng hay quyền cao chức trọng cũng phải chết, phải bị nghiêm trị còn người vô tội cần được cứu sống, người thấp cổ bé miệng và người bị bóc lột, bị áp bức cần được giải phóng. Chúa đã thực thi điều ấy và chúng ta đương nhiên phải làm như vậy. Phải có công bình và cần giữ công lý nghiêm minh.
Trên núi cây dầu, trời vừa tảng sáng, một đoàn người trai gái, già trẻ, lớn chức, bé quyền đủ cả, mặt hí hửng dẫn một chị phụ nữ ngoại tình đến gặp Chúa Giêsu: " Thưa thầy hạng phụ nữ này theo luật Môsê thì phải ném đá. Còn Thầy, Thầy dạy thế nào?". Thánh Gioan nhận ra đây chính là một mũi tên nhắm hai mục đích mà mục đích chính là Chúa Giêsu. Những tưởng rằng trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan, Chúa Giêsu thế nào cũng bị sập bẫy, một cái bẫy tinh quái, hiểm độc do các luật sĩ và biệt phái giăng ra để thực hiện âm mưu thâm độc của mình. Các ông này không ngần ngại thức trắng đêm để bắt tại trận tội yếu đuối, bất trung của người phụ nữ để làm mồi nhử, hãm hại Chúa Giêsu. Nếu tội của người phụ nữ là một thì tội các ông này phải đáng mười vì đâu phải do yếu đuối như chị phụ nữ kia mà là do lòng nham hiểm ác độc, một sự ác độc nham hiểm tột độ đến nỗi không chừa một thủ đoạn bỉ ổi nào.
Chúa Giêsu cúi xuống lấy ngón tay viết trên đất và khi bị gặn hỏi nhiều lần Ngài đã đứng lên rồi ôn tồn: "Ai trong các ngươi xét mình vô tội hãy ném đá chị này trước đi'. Rồi Ngài lại cúi xuống tiếp tục lấy ngón tay viết lên đất. Không biết Chúa Giêsu viết những gì nhưng chắc chắn khó có ai đọc ra vì trời vừa tảng sáng và khoảng cách giữa Ngài với đám đông chắc không thể gần vì có sự ngăn cách của người phụ nữ, nhất là đám đông đứng đối diện thật khó mà đọc được những gì Ngài viết. Xét theo công lý như cảm nghĩ của con người thì những người có mặt sáng hôm ấy (trừ Chúa Giêsu), tất thảy đều phải chết, nhất là những kẻ lòng dạ nham hiểm, ác độc.
Tư tưởng của ta không phải là tư tưởng của các ngươi và đường lối của ta cũng không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu thì tư tưởng của ta và đường lối của ta vượt cao hơn tư tưởng và đường lối các ngươi bấy nhiêu. Mạc khải của Thiên Chúa dần hé mở qua lời của tiên tri Isaia. Mạc khải ấy nay hiện thực và nên hoàn hảo nơi chính Đức Giêsu: kẻ có tội, người gian ác không phải chết. Đám đông hung dữ hôm ấy lẫn người phụ nữ phạm tội ngoại tình đã được cứu sống bằng lòng nhân hậu của Chúa Giêsu. "Ta cũng không kết tội chị hãy về và đừng phạm tội nữa". Chúa Giêsu không chỉ khoan dung với chị phụ nữ mà còn tế nhị đánh thức lương tri của đám đông hiểm độc bấy giờ. Thánh Gioan đã tường thuật rằng sau khi ngẩng lên nói: "Ai trong các ngươi...... “thì Ngài lại cúi xuống viết dưới đất. Giả như lúc bấy giờ sau khi nói, Chúa Giêsu vẫn ngước mắt nhìn chằm chằm vào đám đông thì thử hỏi có được mấy ai tự nguyện rút lui, nhất là người rút lui đầu tiên. Hình như Chúa Giêsu không muốn nhìn, Ngài tế nhị tạo cơ hội cho những người hôm ấy nhìn nhận tôi lỗi mình và rút lui trong danh dự. " Chúa nhắm mắt làm ngơ, không nhìn đến tôi lỗi của loài người, để họ còn ăn năn hối cải' (Kn 11,23).Kẻ gian ác đã được cứu sống đúng như lời Chúa đã phán: "Ta lấy mạng sống ta mà thề: Ta đâu muốn cho kẻ dữ phải diệt vong, nhưng là muốn nó bỏ đường tà để được sống". (x.Ed 18,23).
Lẽ công minh theo cảm nghĩ của con người, một kết cục có hậu mà thường ai cũng thích khi xem phim hay đọc tiểu thuyết đó là kẻ gian ác phải chết và người công chính được cứu sống. Tuy nhiên đây chỉ là lẽ công minh hay là sở thích của đám đông dân thường. Với các hiền triết, các nhà đạo đức thì dường như có cao hơn một bậc. Nên khoan dung với người có tội, cần lượng thứ cho người gian ác để giúp họ hoán cải, ăn năn. "Buông đao thành Phật. Quay đầu là bờ". Những lời giáo huấn trong Phật giáo cho ta hay chân lý này. Các quốc gia tiến bộ đã và dần bỏ án tử hình. Án hình giam giữ cũng là một trong những cách thế giúp tội nhân có cơ hội ăn năn và sửa đổi. Kẻ gian ác không bị diệt trừ ngay nhưng cần được giáo huấn để đổi thay.
Tuy nhiên để thực hiện điều này thì một người công chính, duy nhất xứng là công chính đã không được cứu sống. "Người này đích thực là người công chính" (Lc 23,47). Để kẻ gian ác được cứu sống thì Giêsu Kitô, người công chính đích thực đã phải chết. Chuyện thật nghịch lý nhưng rất đượm tình. Chết cho người công chính thì xưa nay vốn hiếm, ở đây Thiên Chúa lại tự nguỵên hy sinh vì chúng ta là những tội nhân. Tình yêu thật khó lý giải vì Thiên Chúa chính là Tình Yêu. Có nhiều người dễ biện minh rằng nếu ta hành xử như thế thì có thể làm cho nhiều người lạm dụng tình yêu và không chịu đổi thay hay vươn lên. Cũng có thể lắm nhưng ngược với khôn ngoan loài người như Tào Tháo đã quan niệm: thà ta phụ người chứ không để người phụ ta hay thà giết lầm hơn bỏ sót thì với tình yêu đích thật phải chăng phải là thà yêu lầm còn hơn bỏ sót. Dẫu có lầm thì cái lầm trong tình yêu cũng thật đáng yêu vậy.
62.Bước đường theo Chúa--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy
Tin Mừng Ga 12: 20-33: Quả thật "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".
Qua bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói với chúng ta: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác».
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Hạt lúa mì được geo xuống lòng đất. Nó nằm sâu trong lòng đất, nóng nực, bức bối. Rồi nó lại phải thối đi. Thối đi qua việc hút nước ẩm trong lòng đất. Rồi phải xé rách vỏ hạt. Đau đớn lắm chứ! nhưng nhờ đó, nó mới có thể cắm rễ vào lòng đất rồi nẩy mầm. Sau đó tiếp tục phát triển để có thể sinh sản nhiều hoa trái khác.
Con người cũng vậy. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Do đó, chết là điều kiện thiết yếu của sống, và đau khổ là điều kiện thiết yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác?
Theo như Flor McCarthy thì “chết là một phần của sống. Chúng ta sinh ra là để chết, hầu có thể sống sung mãn hơn”. Thực vậy,
- mỗi một hành vi khiêm tốn là một phần tính kiêu ngạo chết đi,
- mỗi một hành vi can đảm là một phần tính hèn nhát chết đi,
- mỗi một hành vi dịu dàng là một phần tính hung hăng chết đi,
- mỗi một hành vi yêu thương là một phần tính ích kỷ chết đi.
Quả thật "Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác".
Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo: vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo tựa đề "Khi Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa".
Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh lao phổi. Mặc dù được điều trị bằng rất nhiều thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện nhưng bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng.
Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8 năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa nhậm lời.
Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: "lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là do ý của Chúa!". Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.
Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên nhưng bà không thể quên được câu chuyện ấy. Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: "Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con mỏi mệt lắm rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật, con cũng xin vâng!". Về sau, Catherine kể lại rằng, chính vào lúc đó, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.
Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin Mừng hôm nay.
Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết đi với ý riêng của mình, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa. Nếu chị nữ tu không chết đi với ý riêng của mình để nói lên câu: "Lạy Chúa, con đã tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!" thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế nhân. Nhưng chị đã chết đi với ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa trái. Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên câu: "Lạy Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn", thì có lẽ bà vẫn nằm lại trong tình trạng bệnh tật. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà đã được lành bệnh và kết sinh hoa trái.
Cả hai câu chuyện về chị nữ tu và Catherine Marshall đều dạy chúng ta cùng một bài học. Chúng ta phải biết sẵn lòng làm chết đi ý riêng của mình nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa dạy chúng ta phải biết sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay Ngài nếu chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời.
Thật thế, qua kinh nghiệm trên, mỗi người chúng ta khám phá ra rằng: nếu lúc nào chúng ta cũng nghĩ đến sự an toàn bản thân thì chỉ tạo ra sự sợ sệt, lo lắng và mất bình an.
Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến.
Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hằng và bền vững, khác với thứ bình an trước đây. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết.
Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả thật là một điều cần thiết cho những ai đang bước theo Chúa trên con đường khổ giá: «Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều bông hạt khác». Amen.
63.“Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”--Gs. Phạm Văn Lưỡng
I. BỐI CẢNH BÀI TIN MỪNG
Trình thuật Tin Mừng hôm nay diễn ra trong bối cảnh người Do Thái lũ lượt tiến về Giêrusalem để mừng đại lễ Vượt Qua theo luật dạy. Khi “nghe tin Đức Giêsu cũng tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!” (Ga 12, 12-13). Họ đâu ngờ rằng, trong đại lễ này, chính Đức Kitô, là Chiên Vượt Qua Mới, sẽ biến thành lễ Vượt Qua Mới để cứu chuộc nhân loại.
Ngay đầu trình thuật (câu 20), tác giả Gioan kể rằng, không chỉ có người Do Thái lên Giêsusalem thờ phượng Thiên Chúa mà còn có mấy người Hy Lạp là những người ngoại giáo cũng đến đền thờ để tỏ lòng tôn kính thờ phượng Người. Câu 21-22, tác giả Gioan kể tiếp, những người Hy Lạp này đã qua trung gian các môn đệ Philipphê và Anrê mà xin được gặp Đức Giêsu. Từ "gặp" trong Kinh Thánh có nghĩa là "tin". Những người ngoại giáo này đã tin vào Người, Sự kiện này cho thấy chương trình Cứu Độ là phổ quát, ơn cứu độ được mở rộng cho tất cả mọi người thuộc mọi dân tộc chứ không chỉ hạn hẹp trong dân Do Thái. Đức Giêsu trả lời khi hai môn đệ hỏi Người:
"Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23) hàm ý Ơn Cứu Độ phổ quát ấy giờ đây bắt đầu được thực hiện. Từ câu 23, tác giả Gioan không còn nói gì đến những người ngoại giáo này nữa, cũng chẳng cho biết lời yêu cầu của họ có được toại nguyện hay không, nhưng để tập trung bài trần thuật của mình vào Đức Giêsu Kitô, Đấng được tôn vinh nhờ mầu nhiệm khổ nạn, thập giá mà Người sẽ phải Vượt Qua để vào vinh quang Phục Sinh.
II. GIỜ CON NGƯỜI ĐƯỢC TÔN VINH:
1. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Từ "giờ" được sử dụng hai mươi sáu lần trong Tin Mừng của Gioan, thường thường ám chỉ một thời điểm đặc biệt thuận tiện trong đó ơn cứu độ được thực hiện. Xuyên suốt phần thứ nhất của Tin Mừng, "giờ" này còn chưa đến. Chúng ta lấy một ví dụ: Thân mẫu của Đức Giêsu, trong khi muốn cậy nhờ đến Con mình ở tiệc cưới Ca-na, được nghe trả lời rằng: "Giờ của con chưa đến" (Ga 2, 4)... Mãi đến đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu mới mặc khải "giờ" của Người đã đến.
2. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Giờ, vừa là sự chết, vừa là sự tôn vinh. Giờ, vừa là Thứ Sáu Tuần Thánh, vừa là Chúa Nhật Phục Sinh. Để diễn tả sự phong phú từ cái chết của mình được mời gọi tiến đến vinh quang, Đức Giêsu đi từ một dụ ngôn ngắn gọn, quen thuộc ở nơi thôn dã về hạt lúa cần phải mục nát đi để mang lại nhiều hoa trái. Đây là một bài học thực tế, một hình ảnh rất cụ thể ngay trong thiên nhiên: Nhà nông gieo hạt giống xuống đất, sau ít lâu thấy làn vỏ mục thối, một mầm sống trồi lên, và với ngày tháng trôi qua, mầm sống đã vươn lên thành cây, phát sinh bông hạt nặng trĩu và một đồng lúa chín vàng, ngào ngạt hương thơm, đem lại cho nhà nông một mùa gặt phong nhiêu và một niềm vui dào dạt (trích bài suy niệm của Lm. Minh Văn CMC). Cũng như hạt giống, Đức Giêsu cần phải được gieo vào lòng đất, chết đi, nhờ đó mang lại hoa trái là ơn cứu độ cho mọi người, kể cả lương dân.
3. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Cái chết của Đức Giêsu không chỉ là một sự bắt buộc phải kinh qua để tiến đến vinh quang phục sinh, mà còn là điều kiện để khai sinh và phát triển Giáo Hội.
Cái chết của Đức Giêsu quả là thời điểm kiến tạo con người Kitô hữu, bởi vì "Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó" (Ga 12, 26). Quả vậy, các câu 25 – 26 nối kết cộng đoàn tín hữu vào với thân phận của Đức Giêsu:
"Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thướng mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời (Ga 12, 25)... Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy" (Ga 12, 26)... Ai yêu quý mạng sống mình, theo ngôn ngữ của Gioan, là kẻ ưa thích sự tối tăm, yêu thích thế gian này và sự vinh quang riêng mình.
Ở đây vẫn còn là vấn đề Đức Tin, dù nó không rõ ràng như trong Tin Mừng Nhất Lãm nhằm nhấn mạnh mối tương quan với Đức Giêsu: "Ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy" (Mc 8, 35). Tương quan với Đức Giêsu còn được nêu rõ qua câu: "Ai phục vụ Thầy, thì hãy theo Thầy". Môn đệ cần phải đi bất cứ nơi nào Đức Giêsu đi, nghĩa là cũng như Người đi vào cái chết để dự phần vào vinh quang phục sinh. Trong trường hợp này, Đức Giêsu đã nói: "Cha Ta sẽ tôn vinh nó".
4. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Giờ khổ nạn và thập giá gần kề, tâm hồn Đức Giêsu xao xuyến! Người đã cầu nguyện với Cha. Chúng ta cùng lắng nghe hai lời cầu nguyện của Người: "Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này" và "Lạy Cha, xin tôn vinh danh Cha". Đức Giêsu đã chọn lời cầu nguyện thứ hai. Nghĩa là Người đã chu toàn cách tuyệt hảo sứ mệnh Chúa Cha giao phó: thí mạng sống mình để cứu rỗi toàn thế giới. Trốn tránh giờ đó là hủy bỏ mọi giá trị của nó đã từng được gói ghém trong mầu nhiệm nhập thể. Còn chấp nhận giờ đó là làm vinh danh Chúa Cha. Vì vậy, nhờ cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu mà chương trình cứu độ phổ quát của Người được thực hiện.
5. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23).
Sự chết của Đức Giêsu sẽ mang lại nhiều bông hạt. Người ta thấy dân chúng tuốn đến với Người: Ban đầu là dân Do Thái (Ga 12, 9.12.17.18.34), rồi đến dân ngoại làm nên hoa trái đầu mùa (Ga 12, 20 – 22). Đó cũng là điều được nói lên ở câu 32: "Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi". Khởi đầu của việc Đức Giêsu được giương cao là khi Người chịu đóng đinh trên thập giá.
6. “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh” (Ga 12, 23)
Giờ Con Người được tôn vinh cũng là giờ thế gian bị xét xử. Cuộc sáng tạo cũ đến đây chấm dứt để bắt đầu cuộc sáng tạo mới. Số phận mọi người tùy thuộc giờ Đức Giêsu là giờ phán xét, giờ phân chia: giờ này ai từ chối Đức Giêsu thì bị xếp vào phe của Sa-tan, thủ lãnh thế gian, đối thủ lợi hại của Đức Giêsu, và bị luận phạt như nó.
III. KẾT LUẬN:
Bản văn Tin Mừng hôm nay với những gợi ý nêu trên, nhằm gửi đến mỗi người chúng ta tín thư sau:
Giờ của Đức Giêsu là trung tâm điểm của lịch sử ơn cứu độ. Giờ này đánh dấu việc Ngôi Lời nhập thể hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu chuộc nhân loại. Cả cuộc sống của Đức Kitô đều qui hướng về Giờ đó. Từ Giờ đó mà có sự phán xét nhân loại, có sự phân chia những kẻ tin hay không tin mầu nhiệm Đức Kitô chết và phục sinh vinh quang. Ai tin thì được cứu rỗi và được sống; còn ai từ chối thì bị luận phạt và phải chết.
Để tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giêsu và mừng Đại Lễ Phục Sinh của Người trong những ngày sắp tới, mỗi chúng ta hãy sẵn sàng mở toang cánh cửa lòng mình ra với tình yêu chân thật và sâu thẳm để đón nhận Đức Kitô, Đấng đã chết khổ hình thập giá và phục sinh vinh hiển, nguồn Ơn Đức Độ của chúng ta.
Xin được đưa ra một vài gợi ý áp dụng vào thực tế cuộc sống Kitô hữu:
1. Con người chỉ lớn lên khi từ bỏ. Đứa bé rời khỏi bụng mẹ để chào đời. Đôi bạn trẻ rời bỏ nhà để lập một tổ ấm mới. Con người rời bỏ cuộc sống này để vào vĩnh cửu. Bạn và tôi, sự từ bỏ nào là khó hơn cả?
2. Tưởng mình được, hóa ra lại mất. Vui lòng mất, hóa ra lại được. Bạn và tôi có kinh nghiệm cụ thể nào về điều đó không?
3. Đức Kitô đã chấp nhận bị nghiền nát để trở nên Thánh Thể – bánh trường sinh cho nhân loại, cho bạn và cho tôi. Nếu lãnh nhận thứ bánh ấy mà không có sự đồng cảm với Đức Kitô thì có nghĩa gì đâu? Cánh cửa nguồn ơn cứu độ đã mở rộng từ lâu lắm rồi... phải chăng bạn và tôi vẫn đi vào mà lại không nhận ra là mình đi đâu?
64.Lẽ sống chết--Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn
“Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời” (Ga 12:25).
Từ một câu chuyện có thật:
Anh Sundar được sinh ra trong một gia đình theo Ấn giáo. Lớn lên, được nghe biết về Chúa Giêsu, anh đã xin rửa tội theo Kitô giáo, sau đó tình nguyện ở lại Ấn độ làm thừa sai, chứng tá cho niềm tin của mình.
Một chiều kia, Sundar cùng với một tu sĩ Phật giáo phải băng qua vùng núi Himalaya để đi đến một tu viện. Trời lạnh buốt và màn đêm như sắp bao phủ không gian. Sundar và nhà tu kia được báo cho biết họ sẽ bị lạnh và có thể mất mạng nếu không kịp về đến tu viện trước khi trời tối.
Đang lúc đi vào một đoạn đường hiểm trở, với những vách đá cheo leo, thì chợt, họ nghe có tiếng cầu cứu. Một người đàn ông đã trợt chân rơi xuống khe núi từ khi nào. Chân anh ta bị gãy, không thể nào leo lên được, và đang nằm chờ chết.
Người tu sĩ kia lên tiếng nhắc nhở Sundar:
- Chớ dừng lại. Ý trời đã định cho hắn như vậy rồi, ta không nên can dự vào làm chi. Phần chúng ta, phải đi gấp lên nếu như không muốn bỏ mình nơi này.
Sundar đáp lại:
- Theo tôi, ý Trời đã định cho ta đi ngang qua đây để cứu giúp kẻ không may này đấy. Tôi không thể bỏ rơi anh ta.
Nói xong Sundar tìm cách trèo xuống khe núi. Vị tu sĩ kia vội vã tiếp tục cuộc hành trình.
Nơi khe núi, nhìn đôi chân bị gãy, biết nạn nhân không thể tự bước đi được, Sundar phải dùng tấm mền bó anh lại, cõng lên lưng, nặng nhọc lần mò trèo khỏi khe núi, tìm trở lại con đường lúc nãy.
Sau mấy tiếng đồng hồ vất vả, Sundar và nạn nhân đến được lối mòn dẫn về tu viện. Lúc này tuyết rơi mỗi lúc một dày. Trời tối. Cóng lạnh. Sức lực hầu như khô cạn. Đang lúc tưởng chừng không còn bước thêm được nữa thì Sundar chợt thấy có ánh lửa phát ra từ một cánh cửa sổ của tu viện.
Mừng quá! Sinh khí dường như được phục hồi. Sundar hăng hái dấn bước về phía có ánh lửa. Chợt anh vấp té, bổ nhào trên tuyết lạnh.
Không phải anh đuối sức. Nhưng vì vấp phải một vật gì đó nằm chắn ngang đường đi. Sundar quì xuống, lấy tay gạt lớp tuyết phủ bên trên thì nhận ra đấy là xác của người tu sĩ đã cùng đi với mình ban chiều. Thương cho người bạn đồng hành xấu số, Sundar âm thầm dâng lên Chúa một lời nguyện…. Và rồi từ thẳm sâu của tâm hồn, anh chợt nghe vang vọng một câu Phúc Âm: “Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, ai ghét sự sống mình nơi thế gian này, thì sẽ giữ nó cho sự sống đời đời. “(Theo lời kể của William Bausch)
“Sự sống thoát thai từ nỗi chết,” một linh mục đã nói như thế. Mà đúng lắm, trong thực tế của đời người, để sự sống tiếp diễn, sự chết đã phải xảy ra không ngừng. Khi chấp nhận nỗi đau thương mất mát trong cái chết, mầm sống mới được phát sinh ra và triển nở. “Nếu hạt lúa gieo xuống đất không chết đi, nó sẽ trơ trọi một mình; nhưng nếu chết đi, nó mới sai hoa lắm quả” là vậy.
Khi chỉ biết lo cho sự sinh tồn của mình mà làm ngơ trước nỗi khổ đau của kẻ khác, khi chỉ chú trọng đến lợi ích riêng tư hơn là nhu cầu của tha nhân, tôi đã tự đóng khung trong chiếc vỏ trấu để rồi cứ trơ trọi giữa giòng đời. Nhưng nếu biết chết đi con người vị kỷ, tôi sẽ có được một mầm sống mới làm phát sinh bao niềm hy vọng của một mùa gặt thành công.
Thói ích kỷ trong tôi càng chết đi, hình ảnh Thiên Chúa càng rạng sáng. Càng cương quyết chiến đấu với chính mình, dung nhan Thiên Chúa càng được hiện tỏ.
Thánh Kinh có kể lại: Trong một cuộc hành hương thánh địa nhân dịp lễ Vượt qua, có sự hiện diện của một số người Hilạp. Họ là những người ngoại, có lẽ đang khao khát tìm ra Lẽ Sống của cuộc đời. Khi nhìn vào Do thái giáo, họ thấy thấp thoáng bóng hình của Lẽ Sống mà họ đang kiếm tìm. Thế rồi trong dịp hành hương đền thờ Giêrusalem lần này, họ nghe nói về một con người có tên Giêsu, nơi Ngài biết bao nhiêu tâm hồn đã tìm thấy ý nghĩa cho cuộc sống-từ những cô gái điếm cho đến các kẻ thu thuế tội lỗi, từ những người khốn khổ bần cùng đến các quan lính của ngoại bang…
Thế rồi những người Hilạp đã tìm hỏi và xin được “trông thấy” Đức Giêsu. Đây không phải là một sự trông nhìn thuần tuý, vì đứng đâu mà lại không thấy được Ngài. Song, họ muốn gặp gỡ, trao đổi, hiểu biết, và nhất là muốn bước vào một tương quan thân thiết với Đức Giêsu.
Trong ngôn ngữ thần học của Thánh sử Gioan, sự “trông thấy” đó luôn đi kèm với “niềm tin”. Như sau này, khi vào mồ Chúa trong ngày Phục sinh, Gioan “đã thấy và tin” (Ga 20,8).
Thế nhưng trước khao khát chân thành của người Hilạp, Đức Giêsu lại trả lời với các môn đệ, những trung gian của niềm tin: “Giờ đã đến!”
Ngài đã chẳng trả lời “cho gặp” hay “không cho gặp”, Ngài chẳng bảo “đang bận” hay “đợi lúc khác. “Song Ngài tuyên bố: Giờ đã đến!” Mà đây là giờ gì nếu không phải là giờ tử nạn.
Thế ra để mang lại ý nghĩa cho cuộc đời con người, để tăng thêm sức sống cho các tâm hồn đang khát khao tìm kiếm Lẽ Sống, để trả lời cho tất cả mọi câu hỏi của nhân loại, Chúa Giêsu lại nói đến giờ chết. Phải chăng đó chính là giờ cao điểm của cuộc sống Ngài: bước vào sự chết để diễn tả tột cùng hình ảnh của một Thiên Chúa yêu thương con người-yêu thương đến độ chấp nhận cái chết “hầu thế gian được sống,” để nhân loại “thấy” được Lẽ Sống đích thật của cuộc đời.
Nhưng chính trong cái chết của Chúa Giêsu lại mang mầm một cuộc phục sinh vinh quang. Bởi vì đây là cái chết diễn tả tình yêu. Mà tình yêu thì chẳng bao giờ chết. Tình yêu sẽ bất diệt. Nghe có vẻ nghịch lý, nhưng những giá trị của yêu thương lắm khi không thể đo lường hay lý giải được. “Con tim có những tiếng nói mà lý trí không hiểu thấu” là vậy.
Thế nhưng, ai có dám chết cho yêu thương-yêu thương Thiên Chúa và bao người đang sống bên mình-họ sẽ dần dần khám phá ra chân dung của sự không-thể-hiểu-thấu kia. Chính khi biết tự hủy những đam mê, ích kỷ, tự mãn, tự kiêu, tự ái…, con người sẽ cảm nhận sâu xa tại sao.
“Chính lúc trao ban lại là khi nhận lãnh,
Chính lúc quên là lúc gặp lại bản thân,
Chính khi thứ tha là khi được tha thứ,
Chính lúc chết đi là khi vui sống muốn đời.”
Và niềm vui sống này chỉ được trao ban cho những ai biết quên mình vì Yêu Thương.
65.Nếu hạt lúa chết đi, nó mới sinh nhiều hạt khác--Lm. Trầm Phúc
Vào dịp lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu lên Đền thờ mừng lễ. Dân chúng rước Ngài long trọng và tung hô Ngài là Đấng Mêsia. Có mấy người Hy Lạp tòng giáo cũng đi dự lễ, họ ngỏ ý muốn gặp Ngài. Họ nói với Philipphê. Ông này bối rối không biết nghĩ sao, đến nói với Anrê. Cả hai cùng đến với Chúa và trình bày cho Ngài biết ý định của mấy người Hy Lạp.
Chúa Giêsu không trả lời trực tiếp, nhưng nói lên những lời mang nhiều ẩn ý. Vừa như độc thoại vừa nói với các môn đệ: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. “Đến giờ” là giờ nào?
Trong Tin Mừng Gioan từ giờ được nói đi nói lại nhiều lần. Từ này chỉ có nghĩa chung chung, là lúc chương trình của Chúa Cha được thực hiện. Chúa Giêsu không bao giờ làm gì theo ý Ngài, chính Ngài cũng đã xác nhận như thế. Ngài đến trong trần gian là thực hiện chương trình cứu độ của Chúa Cha vì “ý Cha là muốn cứu rỗi mọi người”. Giờ của Ngài chính là giai đoạn mà Chúa Cha đã ấn định. Chỉ một lần, Ngài đi trước ý Cha khi Ngài chấp nhận theo yêu cầu của Mẹ Ngài trong tiệc cưới Cana. Vâng lời Mẹ cũng như vâng lời Cha, vì Mẹ cũng có quyền.
Nhiều lần người Do Thái muốn bắt Ngài, nhưng vẫn không thể được vì “giờ Ngài chưa đến”. Giờ của Ngài cũng là lúc chấp nhận chịu treo trên thập giá và cũng là lúc phục sinh vinh hiển.
Trong giây phút này, lúc những người Hy Lạp đến xin gặp Ngài, Chúa lại tuyên bố: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh”. Có liên hệ gì với những người Hy Lạp này?
Được tôn vinh có nghĩa là được những dân tộc khác biết đến. Tôn vinh không thể hiểu theo nghĩa trần thế mà theo viễn tượng của Thiên Chúa. Những người ngoại được hưởng ơn cứu độ như người Do Thái. Họ đang khao khát và họ được no đầy. Họ muốn gặp Ngài và gặp Ngài là gặp Đấng cứu độ. Tôn vinh chính là hồng ân cứu độ được lan tràn cho mọi người, kể cả những người ở xa.
Nhưng Chúa Giêsu đi xa hơn khi nói đến hạt lúa mì chết đi để sinh bông hạt. Ngài chính là hạt lúa mì được gieo vào luống cày đẫm máu của nhân loại. Tôn vinh chính là chết đi để sống lại, để sinh nhiều bông hạt. Tôn vinh chính là chấp nhận theo ý Cha đến tận cùng, là tình yêu đã nên trọn vẹn. Ngài chấp nhận chết đi cho mọi người, đó là cách Ngài tôn vinh Cha Ngài, là cho mọi người biết Chúa Cha đã yêu thương trần gian như thế nào.
Và đây chính là định luật của tình yêu. Mọi người đều được mời gọi đi vào tình yêu hiến dâng đó: “Ai yêu quí mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được nó cho sự sống đời đời”. Chúng ta xem sự chết như một mất mát lớn, vì chúng ta bám vào sự sống như một sở hữu vô giá. Chúa Giêsu ngược lại, Ngài xem cái chết như một hiến tế, như một cử chỉ yêu thương tột đỉnh. Còn chúng ta lại ngại nói đến cái chết, chúng ta sợ chết. Chúa Giêsu không coi trần gian này như một tài nguyên quí giá mà là dụng cụ của tình yêu. Ngài xem mình như hạt lúa thôi, được gieo vào trần gian, lệ thuộc vào trần gian, vào những mùa màng của nhân loại, của các nền văn minh và chờ ngày lúa chín. Ngài chấp nhận những mùa đông của lịch sử và đợi mùa xuân để phục sinh.
Ngài mời gọi chúng ta đi vào lối bước của Ngài: “Ai phục vụ Thầy, hãy theo Thầy”. Theo Thầy, mục nát với Thầy để cùng Thầy mang lại hoa trái.
Ngài chấp nhận tất cả và biết rõ tất cả. Nhưng làm sao khỏi xao xuyến khi Ngài mang lấy xác thịt như chúng ta: “Bây giờ tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây? Một lời thật não nuột! Tiếng kêu thương của một con người yếu đuối đứng trước gánh nặng của vâng phục, nhưng đầy yêu: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này”. Tiếng than thở như một lời cầu cứu. Một ngày nào đây, Ngài cũng nói lại như thế: “Lạy Cha, nếu có thể được thì xin cho con khỏi uống chén này”. Nhưng sau cùng vẫn là vâng phục: “Nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. ““Nhưng không theo ý con mà theo ý Cha”. Tất cả tình yêu của Chúa Con được chứa đựng trong một vài câu ngắn ngủi này. Và hơn nữa: “Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha”. Tôn vinh Danh Cha bằng sự vâng phục trọn vẹn của con. Tôn vinh Danh Cha bằng cách chịu giương cao lên khỏi mặt đất. Vì lúc ấy, con sẽ kéo mọi người lên với con”. Đó là ý muốn của Cha. Đó là tình yêu của Cha đối với trần gian, đã ban người Con Một.
Trong giờ phút ấy, cái chết ô nhục đã hiện rõ trong tâm trí của Ngài. Mọi sự đã được quyết định và sự vâng phục đã trở nên như một dấu hiệu tình yêu không phai tàn. Chính trong cái chết ô nhục mà “thủ lãnh thế gian này bị tống ra ngoài”. Đây chính là cuộc chiến thắng vẻ vang làm vinh danh Chúa Cha. Chính Cha đã xác nhận bằng một tiếng nói bởi trời: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” Thập giá ô nhục kia trở thành vinh quang vì sự vâng phục đầy yêu thương của Chúa Con.
Chúng ta cũng phải đi vào con đường thập giá mới chiến thắng sự dữ và tội lỗi. Thập giá mới là vũ khí hữu hiệu nhất để diệt trừ thủ lãnh thế gian. Tự nhiên chúng ta không thể dễ dàng chấp nhận thập giá. Chúng ta bám ghì vào thế gian, vào cuộc sống nhàn hạ dễ dàng. Chúng ta muốn hưởng thụ hơn là hy sinh.
Chúng ta có muốn gặp Chúa như những người Hy Lạp kia không? Hay chúng ta lại tránh né, sợ Ngài đòi hỏi chúng ta hy sinh? Hay chúng ta đã quá quen với Ngài rồi, Ngài không còn hấp dẫn nữa? Thế gian với những sự sung sướng của nó hấp dẫn hơn?
Chúng ta đã tin Ngài rồi, đã được gần gũi với Ngài nhiều rồi, cây thập giá của Ngài không còn gây sự chú ý nữa. Mấy người đã nhìn đó như dấu hiệu tình yêu tuyệt hảo, tình yêu dám liều mạng vì bạn hữu? Mấy người dám tôn vinh Ngài như Ngài đã tôn vinh Chúa Cha bằng chính sự vâng phục tuyệt đối của Ngài?
Chúng ta sắp bước vào Tuần thánh là giai đoạn cực kỳ quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu mà cũng là cực kỳ quan trọng đối với chúng ta là những người đã nhìn lên Đấng được giương cao, vì nơi Ngài, chúng ta được cứu chuộc, được chữa lành, được trở thành con của Chúa Cha. Hãy nghe tiếng mời gọi của Ngài, hãy theo Ngài đến nơi Ngài chịu giương cao, cùng với Mẹ Maria thông phần vào đau khổ của Ngài để được sống lại với Ngài vinh quang. Chỉ khi nào chúng ta chịu theo Ngài, chúng ta mới được ở với Ngài, vì Thầy ở đâu, anh em cũng sẽ ở đó với Thầy.
Theo Ngài, chúng ta phải mang lấy thân phận hạt lúa mì, thối đi, bị dìm trong lòng đất nhân loại, nhưng cây lúa sẽ mọc lên và sinh nhiều bông hạt. “Anh em đừng sợ, Thầy đã thắng thế gian”. Dù chúng ta bị chôn vùi nhưng hy vọng vẫn không bao giờ hao hụt vì chúng ta tin vào Đấng là sự sống và là sự sống lại. Ngài được giương cao không phải chỉ là chết mà sống lại vinh hiển. Và chúng ta cùng chết với Ngài sẽ được sống lại với Ngài. Đó là niềm hy vọng cuối cùng của chúng ta, những kẻ tin vào Ngài, phục vụ Ngài và Ngài ở đâu chúng ta cũng sẽ được ở đó với Ngài, trong tình yêu của Cha muôn thuở.
Và khi chúng ta chấp nhận chết với Ngài thì chính Ngài sẽ đến với chúng ta, nuôi dưỡng chúng ta bằng thịt máu Ngài, để ngay hôm nay, chúng ta đã được ở cùng Ngài trên thiên đàng. Thiên đàng đó chính là Ngài, hôm nay và mãi mãi.
66.Thề hứa--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Trong cuộc sống có nhiều dạng thề hứa. Thế hứa là giao ước thực hiện điều gì đó. Những người sống đời sống hôn nhân có lời hứa chung thủy phu thê, nhưng người sống đời sống tu trì có lời hứa mà chúng ta gọi là lời khấn – ít nhất là ba lời khấn: Vâng lời, nghèo khó, khiết tịnh. Lời thề hứa nào cũng rất cần chữ TÍN.
Giữa các quốc gia có các hiệp ước, các công ty có hợp đồng, giữa các cá nhân cũng có giao kèo. Trẻ em cũng thường ngoéo tay nhau mỗi khi thề hứa với nhau. Trong nhạc phẩm “Ngoéo Tay Nhau Thề”, tác giả Vinh Sử và Cô Phượng mô tả: “Ngoéo tay nhau thề lòng không dối lòng, ngoéo tay nhau thề tình nghĩa mênh mông…”. Chính tình yêu cũng có lời nguyện ước giữa hai người yêu nhau.
Tuy nhiên, hứa thì dễ, giữ mới khó. Lời hứa cũng nhiêu khê. Sử gia Thomas Fuller (1608-1661) nói: “Lời thề trong giông bão bị lãng quên lúc bình yên”. Triết gia Jean-Jacques Rousseau (1712-1778) nhận định: “Những người chậm chạp khi đưa ra lời hứa là những người trung thành với việc thực hiện nó nhất”.
Chuyện kể rằng…
Một anh chàng giật mình khi nghe một giọng nói khàn khàn, run run. Trước mắt gã, một bà cụ già yếu, lưng còng cố ngước lên nhìn gã, bên cạnh là mẹt rau chỉ có vài mớ rau muống xấu mà có lẽ có cho cũng không ai thèm lấy.
– Ăn hộ tôi mớ rau…!
Giọng bà cụ vẫn khẩn khoản. Bà cụ nhìn gã ánh mắt gần như van lơn. Gã cụp mắt, rồi liếc xuống nhìn lại bộ đồ công sở đang khoác trên người để tới chỗ làm sáng sớm. Bần thần một lát rồi gã chợt quay đi, đáp nhanh:
– Dạ, con không ăn, bà ạ!
Gã nhấn ga phóng nhanh như kẻ chạy trốn. Gã chợt cảm thấy có lỗi, nhưng rồi gã quên rất nhanh cái cảm giác ấy. “Mình thương người thì ai thương mình?” – ý nghĩ ích kỷ ấy lại nhen lên trong đầu gã.
– Ăn hộ tôi mớ rau, cô ơi! – Tiếng bà cụ yếu ớt.
– Rau thế này mà bán cho người ăn à? Bà mang về mà cho lợn! – Tiếng chan chát của một cô gái đáp lại lời bà cụ.
Gã ngoái lại, một cô gái cũng tầm tuổi gã. Cau mày, đợi cô gái đi khuất, gã đi đến nói với bà:
– Rau này bà bán bao nhiêu?
– Hai nghìn một mớ – Bà cụ mừng rỡ.
Gã rút tờ mười nghìn đưa cho bà cụ.
– Sao chú mua nhiều thế?
– Con mua cho cả bạn con. Bây giờ con phải đi làm, bà cho con gửi đến chiều con về qua con lấy!
Rồi gã nhấn ga lao vút đi như sợ sệt ai nhìn thấy hành động vừa rồi của gã. Nhưng lần này có khác, gã cảm thấy lòng mình vui vui...
Chiều hôm ấy mưa to, mưa xối xả. Gã đứng trong phòng làm việc ngắm nhìn những hạt mưa lăn qua ô cửa kính và theo đuổi nhưng suy nghĩ mông lung. Gã thích ngắm mưa, gã thích ngắm những tia chớp xé ngang trời, gã thích thả trí tưởng tượng theo những hình thù kỳ quái ấy. Chợt gã nhìn xuống hàng cây đang oằn mình trong gió, gã nghĩ đến những phận người, và gã nghĩ đến bà cụ…
– Nghỉ ngơi thế đủ rồi đấy!
Giọng người trưởng phòng làm gián đoạn dòng suy tưởng của gã. Gã ngồi xuống, dán mắt vào màn hình máy tính, gã bắt đầu di chuột và quên hẳn bà cụ.
Mấy tuần liền gã không thấy bà cụ, gã cũng không để ý lắm. Gã đang bận với những bản thiết kế chưa hoàn thiện, gã đang cuống cuồng lo công trình của gã chậm tiến độ. Gã quên hẳn bà cụ rồi.
Chiều Chúa Nhật, gã xách xe máy chạy loanh quanh, gã vẫn thường làm như vậy, có lẽ gã thích thế. Gã ghé qua quán trà đá ven đường, nơi có mấy bà rỗi việc đang “buôn chuyện”.
Chưa kịp châm điếu thuốc, gã chợt giật mình bởi giọng oang oang của một bà béo:
– Bà bán rau chết rồi.
– Bà cụ hay đi qua đây hả chị? – chị bán nước khẽ hỏi.
– Tội nghiệp bà cụ! Cách đây mấy tuần, bà cụ giở chứng, cứ ngồi dưới mưa bên mấy mớ rau. Có người thấy thương hỏi mua giúp nhưng bà nhất quyết không bán, rồi nghe đâu bà cụ bị cảm lạnh mà... chết!
Câu chuyện khiến lòng chúng ta chùng xuống, nỗi bâng khuâng rất lạ, rất khó tả. Bà cụ là người chân thật, trọng chữ tín. Mấy mớ rau chẳng đáng gì, nhưng với bà cụ, lời hứa rất đáng giá. Lời hứa nào cũng vô giá – dù lớn hay nhỏ, và phải được thực hiện bằng mọi giá!
Giữa Thiên Chúa và con người cũng có những lời thề hứa, chúng ta gọi là giao ước. Thời Cựu Ước, Đức Chúa đã tuyên phán: “Này sẽ đến những ngày Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai-cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng. Nhưng đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Ít-ra-en sau những ngày đó. Ta sẽ ghi vào lòng dạ chúng, sẽ khắc vào tâm khảm chúng Lề Luật của Ta. Ta sẽ là Thiên Chúa của chúng, còn chúng sẽ là dân của Ta” (Gr 31:31-33). Thiên Chúa đã hứa gì thì chắc chắn được làm, làm đến nơi đến chốn.
Chúng ta chỉ là tội nhân, chẳng đáng gì để được Ngài hứa, nhưng vì lòng thương xót mà Ngài dành cho chúng ta những giao ước kỳ diệu và vô giá: “Chúng sẽ không còn phải dạy bảo nhau, kẻ này nói với người kia: ‘Hãy học cho biết Đức Chúa’, vì hết thảy chúng, từ người nhỏ đến người lớn, sẽ biết Ta. Ta sẽ tha thứ tội ác cho chúng và không còn nhớ đến lỗi lầm của chúng nữa” (Gr 31:34). Quả thật, tác giả Thánh Vịnh đã phải thốt lên: “Ôi lạy Chúa, nếu như Ngài chấp tội, nào có ai đứng vững được chăng?” (Tv 130:3).
Thiên Chúa không đòi buộc gì nhiều, Ngài chỉ cần chúng ta thành tâm sám hối. Thế thôi, mọi thứ sẽ ô-kê ngay! Thế nhưng chúng ta là phàm nhân, không chỉ có máu Pharisêu mà còn có máu Cuội. Quá quắt lắm, vừa giả hình vừa hứa lèo. Mùa Chay về, dịp thuận tiện để chúng ta nghiêm túc xét lại chính mình, và rồi hãy sám hối: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4).
Chút tro rắc trên đầu (hoặc vẽ trên trán) cũng chỉ vô ích nếu chúng ta không “xức tro” tâm hồn và “xé lòng” vì tự cảm thấy bất xứng với Thiên Chúa là Đấng chí thánh. Chắc chắn Ngài xót thương mà bỏ qua hết nếu chúng ta thành tâm đấm ngực chính mình, đấm vào chỗ sâu thẳm nhất của con tim, chứ đừng đấm ngực người khác. Không chỉ vậy, chúng ta còn phải cầu xin Thiên Chúa biến đổi chúng ta bằng cách “đại tu” linh hồn chúng ta: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:12-15). Lời cầu nguyện chân thành như thế này là lời cầu nguyện có màu tím nhưng lại lung linh sắc hồng. Đẹp biết bao!
Sinh hữu hạn, tử bất kỳ. Cái khổ nhiều hơn cái sướng, cái buồn nhiều hơn cái vui, nước mắt nhiều hơn nụ cười. Đời phàm nhân là thế. Khi xuống thế làm người, Chúa Giêsu cũng phải chịu trăm cay ngàn đắng. Cay đến xé lòng, đắng đến cứng miệng. Còn con đường nào đau thương hơn Đường Thập Giá?
Thánh Phaolô cho biết: “Khi còn sống kiếp phàm nhân, Đức Giêsu đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Người khỏi chết. Người đã được nhậm lời, vì có lòng tôn kính. Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người” (Dt 5:7-9). Đức vâng lời rất cần thiết, cần thiết hơn cả lễ tế, thế nhưng lại là bài học khó học và khó áp dụng nhất.
Một hôm, trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy-lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin được gặp Chúa Giêsu. Ông Philípphê đi nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Ngài không trả lời thẳng vấn đề mà lại nói: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh! Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác. Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời. Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:23-26).
Đó là “giao ước” mà nghe lại như không là giao ước: Nếu thế này thì sẽ thế kia, nếu thế kia thì sẽ thế nọ. Rất bình thường mà lại rất lạ. Cũng với tinh thần đó, Thánh Phanxicô Assisi đã xác định: “Chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân, chính lúc hiến thân là khi được nhận lãnh, chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời” (Kinh Hòa Bình). Quả thật, vô cùng kỳ diệu! Người ta phải tìm hiểu thấu đáo, rồi phải can đảm sống, nhờ đó mới có kinh nghiệm, có kinh nghiệm rồi thì mới cảm nghiệm được dạng giao ước “ngược đời” như vậy.
Thiên Chúa đã giao ước với nhân loại sau khi Ông Bà Nguyên Tổ sa ngã. Ngài đã hứa chắc chắn: “Một khi đã thề với danh nghĩa là Đấng Thánh, thì cùng Đa-vít, Ta chẳng thất tín đâu” (Tv 89:36). Ngài hứa ban Con Một làm Đấng Cứu Độ, và Ngài thực hiện đến cùng. Chúa Cha cương quyết đến mức Chúa Giêsu, theo nhân tính, còn tưởng Ngài bị Chúa Cha bỏ rơi trong nỗi đau khổ tột cùng và thốt lên: “Sao Cha nỡ bỏ con?” (Mt 27:45; Mc 15:34).
Vâng, lời hứa phải được thực hiện, Ý Cha phải được thể hiện. Nhưng với nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy lo sợ nên Ngài đã tâm sự với các môn đệ: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27a). Và rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:27b-28). Dù sợ nhưng Ngài vẫn chỉ mong Ý Cha nên trọn mà thôi. Ngay lúc đó có tiếng xác nhận từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:29). Dân chúng đứng ở đó nghe vậy, người thì bảo đó là tiếng sấm, người thì bảo đó là tiếng của một thiên thần. Người trần mắt thịt làm sao hiểu nổi! Và rồi Đức Giêsu nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người. Giờ đây đang diễn ra cuộc phán xét thế gian này. Giờ đây thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:30-31).
Giờ G đã điểm. Sự giằng co rất gay go. Thời đại chúng ta đang sống cũng là thời điểm “tranh tối, tranh sáng”, Thánh Phaolô đã có lần thốt lên: “Mầu nhiệm của sự gian ác đang hoành hành” (2 Tx 2:7). Nhưng dù thế nào, Chúa Giêsu vẫn muốn thực hiện trọn đức tuân phục, và dù đau khổ tột cùng, Ngài vẫn hứa với chúng ta: “Phần tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32). Ngài nói thế để ám chỉ Ngài sẽ phải chết cách nào: Chết treo trên Thập Giá. Chúa Giêsu chịu chết để hoàn tất lời hứa của Chúa Cha.
Chúng ta được Thiên Chúa giao ước, chúng ta cũng phải thề hứa với Ngài và tha nhân, nhưng phải thực hiện đúng. Bằng cách nào? Đồng lao cộng khổ với Chúa Giêsu qua những điều trái ý mình hằng ngày. Mùa Chay, Mùa Thương Khó, chúng ta hãy noi gương Thánh nữ Faustina cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế hoạch thất bại của con” (Nhật Ký, số 343).
Ý nguyện thật là cao đẹp vì hoàn toàn muốn tuân phục Ý Chúa, nhưng để thực hiện thì chúng ta phải cố gắng lắm mới có thể hoàn tất lời ước nguyện, lờ thề hứa. Thật không dễ dàng chút nào! Nhưng với ơn Chúa, người yếu đuối nhất cũng khả dĩ thực hiện.
Hành trình giao ước rất gian khổ, đầy máu đỏ tươi và nước mắt mặn chát, hành trình lời thề hứa là Hành Trình Thập Giá, phải qua Đường Thập Giá mới tới được Miền Ánh Sáng – Per Crucem ad Lucem.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con biết chọn Chúa là cùng đích cuộc đời, xin giúp chúng con can đảm thực hiện mọi lời thề hứa với Ngài và với tha nhân. Đã biết bao lần chúng con lỗi lời thề với Ngài, xin Ngài thương tha thứ; đã bao lần chúng con sai lời hứa với nhau, nhưng chúng con không cho đó là tội phạm tới tha nhân, chúng con thành tâm sám hối và quyết tâm chấn chỉnh, xin Ngài đại lượng thương xót. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
67.Chuyện sống – chết--Thom. Aq. Trầm Thiên Thu
Tục ngữ Việt Nam nói: “Cọp chết để da, người ta chết để tiếng”. Có nhiều cách chết, có cái chết đáng khâm phục và có cái chết “lãng nhách”, do đó cái “tiếng” cũng có thể tốt hoặc xấu. Người Công giáo gọi là chết lành hoặc chết dữ. Phàm cái gì có khởi đầu thì có kết thúc. Cũng vậy, có sinh ắt có tử.
Thánh Phaolô là người đã từng hăng hái và quyết ra tay triệt tiêu Ông Giêsu, nhưng rồi cuối cùng ông đã hoàn toàn biến đổi và phải thú nhận: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô, và chết là một mối lợi” (Pl 1:21), và ông nói về “Người Ấy”: “Đức Kitô đã hạ mình, vâng lời cho đến chết trên cây thập tự” (Pl 2:8).
SỐNG LÀ YÊU
Sống là yêu, và yêu là sống. Sấm ngôn của Chúa nói qua miệng ngôn sứ Giêrêmia: “Này sẽ đến những ngày Ta lập với nhà Ít-ra-en và nhà Giuđa một giao ước mới, không giống như giao ước Ta đã lập với cha ông chúng, ngày Ta cầm tay dẫn họ ra khỏi đất Ai Cập; chính chúng đã huỷ bỏ giao ước của Ta, mặc dầu Ta là Chúa Tể của chúng” (Gr 31:31-32). Giao-ước-mới này khác giao ước đã ký kết với cha ông. Giao ước đó là gì? Là giao ước Thiên Chúa lập với nhà Ít-ra-en, chính Ngài ghi vào lòng dạ dân chúng, khắc vào tâm khảm dân chúng Lề Luật của Ngài. Ngài là Thiên Chúa của họ, còn họ là dân của Chúa. Họ sẽ không còn phải dạy bảo nhau, và họ truyền miệng nhau: “Hãy học cho biết Đức Chúa” (Gr 31:34a). Học cho biết Đức Chúa về nhiều thứ, trong đó có việc học yêu. Do đó mà mọi người từ nhỏ đến lớn đều nhận biết Chúa. Điều tuyệt vời nhất là “Thiên Chúa sẽ tha thứ tội ác cho họ và không còn nhớ đến lỗi lầm của họ nữa” (Gr 31:34b). Là tử tội mà được tha bổng, được trắng án, có ai lại không hạnh phúc? Được sống thì phải biết yêu!
Giao-ước-mới đó gọi là Tân ước, là Luật Yêu Thương – không chỉ yêu người yêu mình mà phải yêu cả kẻ thù (x. Mt 5:44; Lc 6:27 & 35). Khó quá! Vâng, không dễ chút nào. Nhưng yêu thương và tha thứ có hệ lụy lẫn nhau, không thể có cái này mà thiếu cái kia. Chúa Giêsu đã nói: “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7:12). Ai có lỗi cũng muốn được bỏ qua, nhưng muốn được tha thì phải biết tha cho tha nhân, và thành tâm xin Chúa: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm; tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy” (Tv 51:3-4). Thành tâm cầu xin như thế thì Chúa không thể không tha, vì Ngài chỉ chờ mong giây phút được tha thứ cho tội nhân biết sám hối.
Được tha rồi, nhưng “vết chàm” chưa sạch, thế nên chúng ta phải xin Chúa “đại tu” tâm hồn mình, và xin Ngài không ngừng nâng đỡ, nếu không thì chúng ta lại sa ngã ngay: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con Thần Khí Thánh của Ngài” (Tv 51:12-13). Phần riêng Chúa ban cho chúng ta nhưng chúng ta đã “phung phí” hết, cho nên chúng ta lại phải tiếp tục kêu cầu: “Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con; đường lối Ngài, con sẽ dạy cho người tội lỗi, ai lạc bước sẽ trở lại cùng Ngài” (Tv 51:14-15).
CHẾT LÀ YÊU
Sống là yêu, sống để yêu, sống vì yêu, đó là chuyện dễ hiểu. Chết cũng là yêu, để yêu và vì yêu lại là điều khó hiểu, thậm chí nghe chừng nghịch lý. Nhưng đó là sự thật hiển nhiên.
Muốn gì thì phải nói, chứ ai biết “ngứa” chỗ nào mà “gãi”? Chính Đức Giêsu, khi còn sống kiếp phàm nhân, đã lớn tiếng kêu van khóc lóc mà dâng lời khẩn nguyện nài xin lên Đấng có quyền năng cứu Ngài khỏi chết. Ngài đã được nhậm lời, vì Ngài có lòng tôn kính. Ngài “được nhậm lời” không có nghĩa là không phải đau khổ và không phải chết. Nhưng Ngài “được nhậm lời” để “thoát chết” là được Chúa Cha cho sống lại vinh quang. Hành-trình-sống-chết của Đức Kitô là để củng cố đức tin cho chúng ta.
Thánh Phaolô xác định: “Dầu là Con Thiên Chúa, Ngài đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5:8). Vậy đó, cái gì cũng phải khổ luyện, không thể cứ “khơi khơi” mà có thể uyên thâm, hiểu sâu và biết rộng. Học thì phải hành, không thực hành thì chỉ là mớ lý thuyết suông, không thực tế, vô ích. Học đàn phải luyện ngày đêm thì mới nhuần nhuyễn, văn thơ thi phú cũng phải làm nhiều thì mới “lên tay”, làm bếp cũng phải nấu hằng ngày mới có thể nấu ăn ngon,… Và mọi thứ đều cần kinh nghiệm. Lười biếng thì chỉ có nước “bó tay”. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đã theo đúng “quy trình” đó: “Khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Ngài trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Ngài” (Dt 5:9).
(Ga 12:20-33) Trong số những người lên Giêrusalem thờ phượng Thiên Chúa, có mấy người Hy Lạp. Họ đến gặp ông Philípphê, người Bếtxaiđa, miền Galilê, và xin rằng: “Thưa ông, chúng tôi muốn được gặp ông Giêsu” (Ga 12:21). Một ước muốn tuyệt vời. Người Pháp nói: “Vouloir, c’est pouvoir” (muốn là có thể được). Ông Philípphê nói với ông Anrê, ông Anrê cùng với ông Philípphê đến thưa với Đức Giêsu. Và Ngài trả lời: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” (Ga 12:23).
Rồi Ngài trầm giọng: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12:24). Một hình tượng giản dị và rất thực tế. Có lẽ Ngài biết có người không kịp hiểu nên Ngài giải thích luôn: “Ai yêu quý mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” (Ga 12: 25). Ngài biết “giờ G” sắp đến, lòng Ngài cũng bồn chồn lo lắng vì thấy thương các đệ tử còn “non nớt”, nên Ngài nói như trút lòng ra: “Ai phục vụ Thầy thì hãy theo Thầy; và Thầy ở đâu, kẻ phục vụ Thầy cũng sẽ ở đó. Ai phục vụ Thầy, Cha của Thầy sẽ quý trọng người ấy” (Ga 12:26).
Theo nhân tính, Chúa Giêsu cũng cảm thấy xốn xang nên tâm sự với các đệ tử: “Bây giờ, tâm hồn Thầy xao xuyến! Thầy biết nói gì đây?” (Ga 12:27). Rồi Ngài thưa với Chúa Cha: “Lạy Cha, xin cứu con khỏi giờ này, nhưng chính vì giờ này mà con đã đến. Lạy Cha, xin tôn vinh Danh Cha” (Ga 12:28a). Ngài cảm thấy sợ, nhưng Ngài biết trọng trách của mình và muốn Chúa Cha được tôn vinh mà thôi. Và rồi có tiếng từ trời vọng xuống: “Ta đã tôn vinh Danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12:28b).
Nghe tiếng vọng từ trời, dân chúng đứng ở đó nghe vậy có người cứ tưởng là “tiếng sấm”, người khác lại cho là “tiếng một thiên thần” nói với Ngài. Đức Giêsu biết họ xì xầm nên nói: “Tiếng ấy đã vọng xuống không phải vì tôi, mà vì các người” (Ga 12:30). Giờ của Ngài sắp đến, “giờ” mà Ngài gọi là “giờ của kẻ ác”, là “thời của quyền lực tối tăm” (x. Lc 22:53). Thế nhưng chính “giờ” ấy lại là lúc “diễn ra cuộc phán xét thế gian này, lúc thủ lãnh thế gian này sắp bị tống ra ngoài!” (Ga 12:31). Một sự hoán vị ngoạn mục, chiến bại mà chiến thắng!
Chúa Giêsu bình tĩnh và hứa: “Phần Tôi, một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, Tôi sẽ kéo mọi người lên với Tôi” (Ga 12:32). Đức Giêsu nói thế để ám chỉ Người sẽ phải chết cách nào, nhưng đầu óc phàm nhân của các đệ tử – dù thân tín nhất – cũng không đủ hiểu ý Ngài muốn nói. Và đó chính là lời-hứa-kỳ-diệu!
Có lẽ chưa bao giờ Ngài nói nhiều như lần này. Nói để chia tay. Nói để từ giã. Nói để trăng trối. Nói như không còn dịp để nói. Nhưng Ngài muốn nói nhiều để mọi người biết yêu thương nhau, yêu cả lúc sống và khi chết.
Lạy Chúa Giêsu, xin tái tạo trái tim chúng con nên giống Ngài hơn, để chúng con có thể kính mến Chúa và yêu thương tha nhân trong từng hơi thở của cuộc sống. Xin giúp chúng con dám chết với Ngài để xứng đáng cùng Ngài phục sinh. Ngài hằng sống và hiển trị cùng với Chúa Cha, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần, đến muôn thuở muôn đời. Amen.
68.Hạt lúa chết đi--Lm Mark Link, SJ
Chủ đề: "Nếu muốn sống và phát sinh hoa trái,
chúng ta cũng phải bắt ý riêng mình chết đi tựa như hạt lúa mì bé nhỏ."
Câu chuyện bà Catherine Marchall và chị nữ tu truyền giáo:
Vài năm trước đây, bà Catherine Marshall có viết một bài báo nhan đề "Khi Chúng Ta Dám Tin Vào Thiên Chúa". Bài báo thuật lại rằng bà bị liệt giường suốt 6 tháng không ăn uống được vì một bệnh nhiễm trùng phổi trầm trọng. Mặc dù được điều trị bằng vô số thuốc men và được bao nhiêu người cầu nguyện cho, bà vẫn cảm thấy tuyệt vọng hoàn toàn.
Một hôm có người biếu bà một cuốn sách nhỏ kể chuyện một nữ tu truyền giáo bị một chứng bệnh kỳ lạ. Chị nữ tu này bị cơn bệnh đó dày vò suốt 8 năm trời và chị không thể hiểu nổi tại sao Chúa lại để cho tấm thảm kịch này đến với mình. Ngày nào chị cũng cầu xin cho mình được khoẻ mạnh để chu toàn công việc truyền giáo của mình. Nhưng lời cầu xin của chị vẫn chưa được Chúa nhậm lời. Một ngày kia, thất vọng quá chị khóc lóc với Chúa: "Lạy Chúa, con tuyệt vọng rồi! Nhưng không sao; nếu Chúa muốn con trở thành tàn phế, thì đó là do ý của Chúa!". Thế rồi hai tuần sau, chị nữ tu đó được hoàn toàn bình phục.
Catherine Marshall để cuốn sách đó sang một bên. Câu chuyện kỳ lạ ấy khiến bà bối rối. Bà nói: "Dẫu sao tôi vẫn không quên được câu chuyện ấy!". Thế rồi một buổi sáng nọ, bà Catherine kêu cầu Chúa bằng những lời tương tự như lời cầu nguyện của chị nữ tu ấy: "Con kêu xin Chúa ban sức khoẻ cho con, con đã mỏi mệt quá rồi! Xin Chúa hãy quyết định là Chúa muốn cho con khoẻ mạnh hay bệnh tật đi!". Về sau, Catherine kể lại rằng, vào lúc ấy, sức khoẻ bà bắt đầu hồi phục lại.
Ý nghĩa của câu chuyện giúp hiểu bài tin mừng hôm nay
Câu chuyện vị nữ tu truyền giáo và câu chuyện của bà Catherine Marshall giúp chúng ta hiểu những gì Đức Giêsu đang muốn nhắn nhủ trong bài Tin Mừng hôm nay. Hai câu chuyện đó chứng tỏ lời Chúa Giêsu dạy: nếu hạt lúa không chết đi, nó sẽ chẳng đem lại hoa trái. Nói cách khác, nếu chúng ta không chết ý riêng của mình đi, chúng ta cũng không thể sinh hoa trái cho Thiên Chúa được. Nếu chị nữ tu không chết ý riêng của mình đi để nói lên câu: "Lạy Chúa, con đã tuyệt vọng rồi; nhưng không sao!" thì có lẽ bà ta vẫn mãi mãi là một phế nhân. Nhưng chị đã chết ý riêng của mình, nên đã bình phục và sinh hoa trái.
Nếu Catherine Marshall đã không hy sinh ý riêng mình để nói lên câu: "Lạy Chúa xin hãy quyết định điều Ngài muốn", thì có lẽ bà vẫn nằm lại trong tình trạng bệnh hoạn. Nhưng bà đã hy sinh ý riêng, nên bà cũng được lành bệnh và kết sinh hoa trái.
Câu chuyện của chị nữ tu và của bà Catherine Marshall khiến chúng ta nhớ lại câu chuyện của Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani. Trong cơn hấp hối tại đó, Ngài đã thốt lên cùng Thiên Chúa: "lạy Cha…. không phải ý con… nhưng xin theo ý Cha" (Lc 22: 42). Giả như Chúa Giêsu không bắt ý riêng Ngài phải chết đi trong mảnh vườn ấy, thì anh chị em cũng như tôi sẽ không được cứu khỏi tội lỗi mình.
Tất cả những câu chuyện về chị nữ tu, về Catherine Marshall và về Đức Giêsu đều dạy cho chúng ta cùng một bài học. Chúa dạy ta biết sẵn lòng làm chết ý riêng mình đi nếu chúng ta muốn mang lại hoa trái cho Thiên Chúa. Chúa dạy ta phải biết sẵn lòng tín thác vào Chúa và giao phó bản thân mình trong tay Ngài nếu chúng ta muốn đạt được sự sống đời đời.
Những câu chuyện có ý nghĩa gì đối với ta? Nói một cách cụ thể, tất cả điều này có ý nghĩa gì đối với cuộc sống thường nhật của anh chị em và tôi?
Chúng ta hãy xem xét vài sự kiện có khả năng xảy ra:
Giả như cuộc hôn nhân của chúng ta bị tan vỡ và chúng ta cần sự trợ giúp từ bên ngoài, nhưng vì quá kiêu căng chúng ta không muốn yêu cầu điều ấy. Như vậy "bắt ý riêng chết đi" có nghĩa là bắt lòng kiêu ngạo của ta chết đi và sẵn sàng tìm kiếm sự trợ giúp.
Hoặc giả như chúng ta được bạn bè thân tín cho biết chúng ta đang ngày càng bê tha rượu chè, nhưng chúng ta cứ tiếp tục không nghe dù tình trạng bê tha gia tăng rõ ràng. Như thế chết cho ý riêng có nghĩa là nhìn nhận vấn đề của chúng ta và tìm kiếm phương thuốc điều trị.
Giả như một bạn bè hoặc một người thân trong gia đình xúc phạm đến chúng ta một cách nào đó, khiến chúng ta cứ giữ mãi mối ác cảm với người ấy, thì "Chết cho ý riêng mình" có nghĩa là thật lòng tha thứ cho người ấy và lại tiếp tục dùng tình thương cư xử với y.
Chết cho ý riêng mình là điều không dễ
Chị nữ tu đã không cảm thấy dễ dàng khi nói với Chúa rằng chị chấp nhận làm một kẻ tàn phế nếu ý Ngài muốn như thế. Catherine Marshall đã không cảm thấy dễ dàng khi thưa với Chúa bà sẽ chấp nhận bất cứ số mệnh nào ngài quyết định cho bà. Đức Giêsu đã không cảm thấy dễ dàng trong việc ưng thuận thi hành bất cứ điều gì Cha Ngài muốn. Nhưng cả ba người - chị nữ tu, Marshall và Đức Giêsu đã tin Thiên Chúa và phó mình trong tay Ngài. Họ đã chết "cho chính mình’ và từ đó đem lại kết quả là sinh nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Kết luận:
Tin Mừng trong các bài đọc hôm nay là. chúng ta có thể làm được như thế. Chúng ta có thể noi gương vị nữ tu, bà Catherine Marshall và Đức Giêsu. Và chúng ta cũng có thể đem lại nhiều hoa trái cho Thiên Chúa.
Có thể chúng ta phải chiến đấu giống như vị nữ tu và Catherine đã làm, hoặc có thể chúng ta phải hấp hối như Đức Giêsu, nhưng nếu chúng ta làm như họ, chúng ta cũng sẽ mang hoa trái về cho Thiên Chúa và được sống vĩnh cửu.
Điều quan trọng là biết đặt cuộc sống chúng ta vào tay Thiên Chúa trong niềm tín thác trọn vẹn
Điều quan trọng là cứ để cho Thiên Chúa thực hiện bất cứ điều gì Ngài muốn đối với cuộc đời của chúng ta. Và đó chính là Tin Mừng trong bài Phúc Âm hôm nay.
Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước hạt lúa mì và biết "chết cho chính mình", chúng ta cũng sẽ đem lại nhiều hoa trái. Tin Mừng đó là nếu chúng ta bắt chước gương chị nữ tu, bà Catherine Marshall, và gương Chúa Giêsu, chúng ta cũng sẽ mang lại hoa trái cho Thiên Chúa và đạt được sự sống đời đời.
Chúng ta hãy cầu nguyện để kết thúc. Xin anh chị em cùng im lặng cầu nguyện với tôi.
Lạy Thiên Chúa là cha chúng con. Trong khi chúng con chuẩn bị cùng bẻ bánh với nhau, xin hãy giúp chúng con nhận ra rằng.
Nếu những hạt lúa mì không bị xay thành bột và nếu những trái nho riêng lẻ không bị ép thành rượu, chúng con sẽ không thể chia sẻ với nhau tiệc thánh này.
Xin giúp chúng con bắt chước hạt lúa và chùm nho, biết dâng chính đời sống chúng con cho Ngài để tuỳ Ngài định đoạt theo thánh ý Ngài.
69.Suy niệm của JKN
Đức Giêsu loan báo
Người sẽ được tôn vinh nhờ cái chết của Người
Câu hỏi gợi ý:
1. Trong việc buon bán, muốn thu tiền vào, trước hết người ta phải bỏ tiền ra để đầu tư (mua hàng). Tại sao phải làm điều trái ngược như vậy? Đó là chuyện lạ hay là lẽ thường tình? Muốn hạnh phúc, có cần phải chịu đau khổ trước không? Có hạnh phúc nào không đòi hỏi phải đau khổ không?
2. Bạn có rút được qui luật gì về sự sống và sự chết, hạnh phúc và đau khổ không? Giữa hai thái cực ngược nhau ấy, có sự liên hệ mật thiết nào không?
3. Lời Đức Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời” có mâu thuẫn hay phi lý không? Bạn có kinh nghiệm nào về chân lý này không?
Suy tư gợi ý:
1. Định luật đời sống: muốn thu vào phải biết bỏ ra, muốn hạnh phúc phải chấp nhận đau khổ
Trên đời, ta thấy sự vật luôn luôn biến đổi và có chiều hướng tiến hóa. Nhưng tiến hóa không phải theo kiểu thẳng một đường, ma theo kiểu hình “sin” hay hình lưỡi cưa, nghĩa là vẫn có tiến có lùi, nhưng tiến nhiều lùi ít, để rồi nhìn chung là luôn luôn có tiến hóa. Do đó, muốn tiếp tục tiến, nhiều khi cần thiết phải biết lùi: lùi một để tiến hai, hoặc lùi hai để tiến ba, v. v... Cũng như muốn đóng đinh, không thể chỉ đập búa xuống, mà còn phải nhấc búa lên. Nếu không nhấc búa lên thì tuyệt đối không thể tiếp tục đập xuống. Nâng búa lên tuy chẳng làm đinh lún thêm chút nào, nhưng cũng cần thiết và quan trọng không kém gì đập búa xuống, mặc dù chỉ động tác đập xuống mới có tác dụng hữu ích. Nâng búa lên tuy vô ích nhưng lại rất cần thiết!
Tương tự, một người buôn bán cứ phải bỏ tiền ra để mua hàng hóa khiến tiền bạc bị hao hụt đi, nhưng nhờ vậy mà có hàng bán ra để thu tiền vào và có lời, khiến tiền bạc ngày càng gia tăng và trở nên giàu có. Nếu người ấy không chịu bỏ tiền ra để đầu tư, cứ giữ khư khư số tiền mình có, thì làm sao gia tăng số tiền ấy lên được? Vậy, điều cần thiết để có thêm là phải cho ra hay cho đi. Nhưng đời thường, hễ thu vào thì vui, còn cho ra thì buồn. Vì thế, kẻ thiểu trí chỉ muốn thu vào mà không muốn bỏ ra, nên thu vào chẳng được bao nhiêu. Người ngu chỉ muốn hưởng sướng mà không chấp nhận chịu khổ nên chẳng sướng được nhiều. Còn người khôn thì sẵn sàng bỏ ra để thu vào cho nhiều, sẵn sàng chấp nhận đau khổ để được hạnh phúc hơn. Bỏ ra càng nhiều thì thu vào cũng càng nhiều. Cũng vậy, càng chấp nhận đau khổ thì càng có khả năng hưởng thụ hạnh phúc. Những người thiểu trí thường không nhận ra qui luật này.
2. Đau khổ và hạnh phúc luôn gắn liền và đi đôi với nhau
Bài Tin Mừng hôm nay giúp ta áp dụng định luật ấy vào đời sống, vào cuộc hành trình đi đến hạnh phúc đích thực và vĩnh cửu của ta. Đức Giêsu cho biết: “Đã đến giờ Con Người được tôn vinh!” Và Ngài cho ta biết lý do nào khiến Ngài được tôn vinh, hay nói cách khác, Ngài phải sống hay làm thế nào mới được tôn vinh: “Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác”. Ngài còn diễn tả chân lý ấy theo kiểu khác: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”.
Qua những lời ấy, Đức Giêsu cho thấy sự song đôi tất yếu của từng cặp yếu tố trái ngược nhau: chết đi và sinh ra, hạnh phúc và đau khổ. Hạt lúa có chết đi mới sinh ra những hạt khác. Con người có đau khổ mới làm cho mình và người khác hạnh phúc. Thật vậy, nếu người ta cứ sống mãi không chết, làm sao thế giới có đủ chỗ và tài nguyên cho các thế hệ con cháu sinh ra sau? Đời sống kinh tế mới khó khăn lên một chút là người ta đã lo hạn chế sinh sản, lo ngừa thai phá thai rồi! Do đó, chết là điều kiện tối yếu của sống, và đau khổ là điều kiện tối yếu của hạnh phúc. Thật vậy, trên đời, có hạnh phúc nào mà không được xây dựng trên đau khổ, hoặc của chính mình, hoặc của người khác? Đúng thế, hạnh phúc và sự no ấm của con cái chính là thành quả của những vất vả, cực nhọc của cha mẹ. Sự yên vui của người dân là do sự hy sinh xương máu của nhưng chiến sĩ xả thân bảo vệ quê hương. Vinh quang của một học sinh thi đậu xây dựng trên những ngày vất vả cắp sách đến trường, những đêm thức khuya cặm cụi với bài vở. Ngược lại, có biết bao đau khổ phát sinh vì những hạnh phúc mà chính mình hay người khác đã hưởng quá sớm, hoặc đã hưởng một cách trái đạo. Thật vậy, dân chúng nghèo đói là do các quan trên tham nhũng. Gia đình túng thiếu, vợ con cảm thấy cay đắng là vì người chồng đàng điếm, rượu chè. Biết bao thanh thiếu niên làm hỏng cả một cuộc đời chỉ vì sa đà vào nghiện hút, vì biếng học ham vui.
Vì thế, Đức Giêsu nói: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời nay, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”. Trên thương trường, người buôn bán muốn thu thêm tiền vào thì lại phải chấp nhận bỏ tiền ra đầu tư. Cũng vậy, trong đời sống, người muốn được hạnh phúc thì phải chấp nhận đau khổ. Người buôn bán muốn thu tiền vào mà lại không chịu bỏ tiền ra đầu tư thì chẳng thu được đồng nào, mà còn bị mất tiền vì phải tiêu dùng cho những nhu cầu cần thiết của đời sống. Cũng vậy, tìm hạnh phúc mà không muon trải qua đau khổ, thì cuối cùng chẳng những không đạt được hạnh phúc mà nhiều khi phải chuốc lấy những đau khổ nặng nề. Chẳng hạn những người muốn giàu có mà không chịu lao tâm khổ trí, không muốn làm lụng vất vả, ben dùng những cách bất chính như trộm cướp, tham nhũng… thì thường đi đến những hậu quả hết sức bi đát (như tù tội, bị trả thù, sạt nghiệp...).
Còn rất nhiều câu Kinh Thánh khác nói lên sự đi đôi giữa sống và chết, giữa đau khổ và hạnh phúc, trong đó một vài câu ta thường nghe như: “Người đi trong nước mắt, đem hạt giống gieo trên ruộng đồng. Người về miệng vui ca, tay ôm bó lúa ngào ngạt hương” (Tv 126,6). “Nếu ta cùng chết với Ngài, ta sẽ sống với Ngài; nếu ta cùng đau khổ với Ngài, ta sẽ thống trị với Ngài” (2Tm 2,11-12; x. Rm 6,8; 8,17).
3. Giải thoát khỏi nỗi sợ chết, sợ đau khổ, sẵn sàng chấp nhận đau khổ hoặc chết (vì Chúa, vì lương tâm) là bí quyết để sống thanh thản, bình an và hạnh phúc
Về câu nói của Đức Giêsu: “Ai yêu quý mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời”, tôi có kinh nghiệm sau đây, xin chia sẻ với mọi người. Tôi cũng như mọi người, rất ham sống sợ chết. Trong mọi trường hợp, tôi luôn luôn nghĩ đến sự an toàn của bản thân tôi trước tiên. Vì thế, mỗi khi thấy chuyện gì nguy hiểm xảy đến cho tôi là tôi run sợ, lo lắng, bất an. Tình trạng lo lắng ấy có thể kéo dài nhiều ngày tháng, khiến tôi không còn cảm thấy hạnh phúc nữa. Nhưng cách đây vài năm có xảy ra một trường hợp: tôi phải chọn lựa dứt khoát giữa sự an toàn bản thân và tiếng lương tâm. Phải dứt khoát, vì chọn làm theo sự thúc đẩy của lương tâm thì thật là nguy hiểm cho bản thân, và chắc chắn còn liên lụy đến gia đình: cha mẹ, anh em, vợ con; còn chọn an toàn cho bản thân thì bị lương tâm cắn rứt, chịu không nổi. Sau khi bị lương tâm dằn vặt nhiều ngày chịu không nổi vì chưa làm theo sự đòi hỏi của nó, tôi quyết định làm theo tiếng lương tâm, bất chấp mọi sự. Thà chấp nhận nguy hiểm còn hơn để lương tâm bất an! Thế rồi những khó khăn xảy đến... trong nhiều ngày tháng… Như một phản ứng tự vệ, tôi phó thác mạng sống và sự an nguy của tôi trong tay Chúa. Khi hồi hộp lo âu, tôi lẩm nhẩm hát trong trí: “Chúa khoan nhân là mục tử tôi, tôi không còn thiếu gì, tôi không còn e sợ nỗi gì (...) Dầu tôi đi qua trong thung lũng tối đen hiểm nguy, lòng tôi không lo ngại tai họa gì: vì Chúa ở cùng tôi, cây trượng và cây gậy Chúa khiến tôi an lòng” (Tv 23). Thế rồi mọi khó khăn đều qua!
Nhiều lần phải chọn lựa tương tự như vậy, lần nào tôi cũng làm theo sự đòi hỏi của lương tâm. Dần dần tôi cảm thấy nhu cầu đòi hỏi an toàn cho bản thân giảm đi, khiến hiện nay, khi gặp nguy hiểm cho bản thân, tôi cảm thấy an tâm hơn trước rất nhiều. Giữa những nguy hiểm, tôi tập sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, kể cả mạng sống. Lạ lùng thay, dần dần tôi cảm nghiệm được một sự thanh thản, bình an sâu thẳm trong tâm hồn. Và tôi khám phá ra thật sự có bàn tay quan phòng của Thiên Chúa luôn bảo vệ tôi, luôn lo lắng cho tôi tất cả những nhu cầu cần thiết.
Qua kinh nghiệm trên, tôi khám phá ra rằng: lúc nào cung nghĩ trước hết đến sự an toàn bản thân chỉ tạo cho ta một thói quen sợ sệt, lo lắng, mất bình an. Còn tập buông bỏ tất cả những gì mình vẫn thường bám víu như: sự sống, sự an toàn, các tham vọng, tiền bạc, nhà cửa, danh dự... sẵn sàng chấp nhận mất tất cả, chỉ bám víu vào một mình Thiên Chúa, thì sự bình an và hạnh phúc sẽ đến. Hiện nay, tôi cảm thấy tâm hồn bình an và hạnh phúc hơn trước rất nhiều: một thứ bình an hạnh phúc thường hang và bền vững, khác với thứ bình an trước đó. Bình an và hạnh phúc của tôi bây giờ phát xuất từ bên trong, từ Thiên Chúa, không bị chao đảo khi những điều kiện bên ngoài thay đổi nữa. Qua kinh nghiệm này, tôi thấy chính lúc mình chấp nhận đau khổ, thì đau khổ không còn ảnh hưởng tới mình nhiều như trước nữa. Chính lúc mình sẵn sàng chấp nhận chết bất kỳ lúc nào, thì mình lại sống thanh thản và trọn vẹn hơn bao giờ hết. Điều Đức Giêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay quả là đúng!
Cầu nguyện
Lạy Cha, Đức Giêsu cho con thấy tương quan mật thiết giữa sống và chết, giữa hạnh phúc và đau khổ. Xin cho con đủ tình thương để chấp nhận đau khổ hầu làm cho những người chung quanh con hạnh phúc. Con biết rằng nếu con làm được điều ấy, con sẽ thấy cuộc đời này tràn đầy ý nghĩa và hạnh phúc. Xin cho con đủ dũng cảm để làm điều ấy.
70.Để được ơn nghĩa Chúa, cần chết đi con người tội lỗi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Sau khi đã đi được nửa đường với lời mời gọi "Hãy Vui Lên" tuần trước khuyến khích chúng ta tiếp tục tiến lên không ngừng nghỉ trên con đường ăn năn đền tội, cải đổi đời sống để chuẩn bị Lễ Phục Sinh. Việc đền tội này xảy đến trong Mùa Chay lúc mà sự mệt nhọc không làm giảm bớt, nhưng đúng hơn gia tăng niềm vui được đến gần mục đích.
Giao ước mới được ký kết
Kể từ khi dân Israel quay lưng lại với Thiên Chúa, thờ bò vàng(x. Xh32), giao ước giữa Thiên Chúa vớidân Ngài bị nhiều lần gián đoạn, do dân lỗi lời giao ước. Vì thế Chúa đã dùng miệng các tiên tri để phán dạy và trao ban một điều căn bản mới.
Trong Cựu Ước, Giêrêmia là người duy nhất nói về "giao ước mới", nên lời của ông rất quan trọng, tại sao vậy? Vì lời ấy trình bày một sự thay đổi căn bản trong tương quan giữa Thiên Chúa với con cái Israel.
Nếu Luật của Thiên Chúa trước kia được khắc vào đá và Môisen phải đọc và truyền cho dân, dân đã lỗi phạm do vô tình hay hữu ý, khiến Chúa nổi giận. Nay Chúa ban hành Luật với một cách thức và công thức mới. Thiên Chúa sẽ ghi tạc vào lòng con cái Israel (Gr 31,33). Mỗi người sẽ nhận được trực tiếp và cá nhân vớiChúa (Gr 31,34)không qua trung gian: "Người này sẽ không còn phải dạy người nọ, anh sẽ không còn phải dạy em" (Gr 31,34) theo nghĩa Kinh Thánh là hiệp thông vớiChúa cách sâu xa nhất. Công thức của hai bên: "Ta sẽ là Chúa của chúng, và chúng sẽ là dân của Ta" (Gr 31,34), đây là nét đặctrưng của giao ước kể từ khi Xuất hành (x. Xh 6, 7) sẽ được áp dụng cho từng người trong dân. Một giao ước "khiến mọi người từ nhỏ chí lớn đều nhìn biết Chúa, vì Chúa sẽ tha thứ tội lỗi cho dân" (Gr 31, 34). Giao ước mới này sẽ được Đức Kitô thực hiện và hoàn tất trong "giai đoạn" vượt qua.
Hoán cải tận con tim
Điều cần thiết hơn cả để đi vào trong giao ước là hoán cải, hoán cải để được Chúa thứ tha và làm mới lại giao ước. Tác giả Thánh Vịnh khơi dậy lòng thương xót của Thiên Chúa khi thứ tha tội lỗi cho dân. Trong Kinh Thánh có nhiều hình ảnh về sự tha thứ như:Thiên Chúa xóa, rửa và tẩy sạch, nên cũng có nhiều cách thế diễn tả sự đổi thay nơi con người được tha thứ. Nhưng sâu xa hơn cả là sự tái sinh: “Xin tạo cho con quả tim trong sạch, và canh tân tinh thần cương nghị trong người con” (Tv 50, 12-13). Quả tim trong Kinh Thánh không chỉ là nơi chứa đựng cảm xúc nhưng còn là nơi chất chứa sự thông minh và đưa ra những quyết đoán nữa. Người có lòng trong sạch thì luôn hướng trọn về Chúa. Thần khí (trong tiếng Do Thái) là hơi thở, sự sống và nguyên lý sáng tạo. Tác giả Thánh Vịnh thưa với Chúa khi nói về các vật sống: "Người rút lại hơi khí của chúng, chúng liền tắt thở, chúng sẽ trở về với đất bụi! Người sai khí của Người, chúng được tạo thành và Người đổi mới mặt đất" (Tv 103, 29-30). Giống như các tội nhân được tha thứ, từ tội nhân, họ có thể trở thành chứng nhân của lòng thương xót Chúa.
Hãy là hạt lúa mì rơi xuống đất
Khi những người Hy Lạp đến xin được gặp Chúa Giêsu tại Giêrusalem trong dịp lễ Vượt Qua, họ nói với ông Philipphê rằng: "Thưa ngài, chúng tôi muốn gặp Đức Giêsu" (Ga 12, 24). Ước muốn nơi những người Hy Lạp mong gặp Chúa Giêsu và lắng nghe Lời Người đã nhận được câu trả lời long trọng của Chúa Giêsu như sau: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23). Thử hỏi Chúa Giêsu muốn nhắc đến "giờ" nào đây? Khung cảnh lúc đó giúp chúng ta biết rõ rằng: Đây là "Giờ" Mầu nhiệm và long trọng về cái chết và sống lại của Chúa.
Bằng một ẩn dụ về hạt lúa mì, Chúa Giêsu dùng với hình ảnh giầu biểu cảm về mầu nhiệm Vượt Qua, mầu nhiệm của sự biến đổi từ cõi chết qua cõi sống, tự nhiên nói lên tất cả. Chúng ta ghi nhận sự đảo ngược ý nghĩa của lễ Phục Sinh: mất sự sống mình, để lấy lại. Đây là hình ảnh dễ hiểu, phát xuất từ kinh nghiệm tự nhiên. Chắc chắn, "Nếu hạt lúa mì rơi xuống đất mà không thối đi, thì nó chỉ trơ trọi một mình" (Ga12, 24). Để sinh tồn nói phải mục nát. Tiếp theo là sự so sánh ít thuyết phục của Chúa Giêsu khi chúng ta chưa có kính nghiệm về chính mình: "Ai yêu sự sống mình thì sẽ mất, và ai ghét sự sống mình ở đời này, thì sẽ giữ được nó cho sự sống đời đời" (Ga12, 25). Nhưng nếu chúng ta suy tư về cái chết của người khácthì sẽ thấy không ai mang được điều gì mình đã chiếm hữu hay yêu thích khi còn sống. Sự mất mát này còn lớn hơn đối với những người đã đặt đời mình vào mọi sự ở trần gian.
Không giống như các Phúc Âm Nhất Lãm, nơi Tin Mừng Gioan không có cảnh Chúa Giêsu hấp hối trong vườn Giệtsimani. Nhưng cảnh này cách nào đó: ở đây Chúa Giêsu nói "xao xuyến" và nói đến "giờ" của mình. Bây giờ linh hồn Ta xao xuyến, và biết nói gì? (Ga12, 27) Người xin Chúa Cha "cứu khỏi giờ này?" (Ga12, 27) Người không trối giờ này, khi xin Cha tôn vinh "danh Cha", thể hiện vinh quang Cha, nghĩa là sự sống và quyến năng thần linh của Cha nơi Đức Giêsu. Một dấu chỉ trao ban được Chúa Cha chấp nhận. Bản văn kết thúc với một "lời tien tri" của Chúa Giêsu tuyên bố Người phải chết cách nào. Lời này đã có từ câu đầu của Tin Mừng: "Đã đến giờ Con Người được tôn vinh" (Ga 12, 23).
Mong gặp Thấy Chúa Giêsu giống như nhóm người Hy Lạp xưa kia. Chúng ta đã nhìn thấy Chúa qua đôi mắt đức tin, nhìn nhận Người là Đấng Thiên Sai, đã chịu đóng đinh chết và đã sống lại. Vậy chúng ta hãy để cho Chúa chiếm lấy và đã trở thành môn đệ Người.
"Khi nào Ta chịu đưa lên cao khỏi đất, Ta sẽ kéo mọi người lên cùng Ta" (Ga12, 32). Thật vậy, chính từ trên thập giá mà Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho thế gian biết tình yêu thương vô biên của Thiên Chúa đối với nhân loại đang cần ơn cứu rỗi. Thiên Chúa là Chúa duy nhất của chúng ta, chúng ta là dân Ngài. Giao ước tình yêu bền vững giữa Thiên Chúa và nhân loại đã được thực hiện cách trọn vẹn trong hy tế Vượt Qua của Chúa Kitô.
Nhờ tham dự vào Mầu Nhiệm Thương Khó của Chúa Kitô, mà chúng ta có thể sống sự phong phú của hạt giống gieo xuống đất, và được Chúa đón nhận vào trong Vương Quốc trên trời. Amen.
71.Ánh sáng của Thập Giá--Lm. FX. Vũ Phan Long
Đã đến “giờ”. “Giờ” này đánh dấu lúc hoàn tất sứ mạng mạc khải và cứu độ, được Ngôi Lời làm người thực hiện.
1.- Ngữ cảnh
Câu truyện này nằm trong bối cảnh thời gian và thần học là tuần lễ cuối cùng trong sứ vụ của Đức Giêsu, tuần lễ Vượt Qua (x. Ga 12,1.12; 13,1; 18,28; 19,31) mà cuộc hy sinh của Đức Kitô, là Con Chiên Vượt Qua, sẽ biến thành lễ Vượt Qua mới và vĩnh viễn có sức giải phóng tất cả mọi người. Việc xức dầu ở Bêtania (12,1-11) chính là mở đầu mang tính tiên tri. Hành vi của Maria, chị của Ladarô, xức chân Đức Giêsu bằng dầu thơm cam tùng quý giá, đã loan báo việc mai táng Người (12,7). Quả thật, người ta không xức dầu lên chân một người sống như thế, mà thường xức cho một thi hài vào lúc làm nghi thức tắm rửa. Ta ghi nhận rằng theo TM Mc (14,3-9), người phụ nữ chỉ đã xức dầu lên đầu Đức Giêsu, và đấy là cử chỉ tiêu biểu trong việc xức dầu tấn phong ai làm vua và tấn phong đấng Mêsia.
Hôm sau, khi Đức Giêsu vào Giêrusalem (12,12-19), dân chúng đã tung hô Người như là “vua Israel”. Tác giả TM IV coi việc dân chúng cầm nhành lá thiên tuế hoan hô reo hò như là mức độ cuối cùng của sự sai lầm của dân chúng và Đức Giêsu im lặng để sửa chữa những niềm hy vọng thiên sai lầm lạc. Người cỡi lên một con lừa nhỏ vào lúc ấy – chứ không ngay từ đầu như trong các TMNL –, Đức Giêsu muốn cho họ thấy là giống như ông hoàng khiêm tốn mà ngôn sứ Dacaria đã loan báo (Dcr 9,9-10), Người hoàn toàn không có một mưu đồ chính trị nào. Cuộc Vượt Qua sắp tới của Người, tức cuộc Thư