Lời chúa mỗi ngày

+ Chúa Nhật 25/02/2024 – CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY năm B. – Con Ta rất yêu dấu.

  • In trang này
  • Lượt xem: 5,062
  • Ngày đăng: 24/02/2024 10:00:00

Con Ta rất yêu dấu.

25/02 – CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY năm B.

"Ðây là Con Ta rất yêu dấu".

 

Lời Chúa: Mc 9, 1-9

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao, và Người biến hình trước mặt các ông, và áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không thợ giặt nào trên trần gian có thể giặt trắng đến thế. Rồi Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Chúa Giêsu.

Bấy giờ Phêrô lên tiếng thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm. Chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê, và một cho Êlia". Phêrô không rõ mình nói gì, vì các ông đều hoảng sợ.

Lúc đó có một đám mây bao phủ các Ngài, và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người". Bỗng nhìn chung quanh, các ông không còn thấy ai khác, chỉ còn một mình Chúa Giêsu với các ông.

Và trong lúc từ trên núi đi xuống, Chúa Giêsu ra lệnh cho các ông đừng thuật lại cho ai những điều vừa xem thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: "Từ trong cõi chết sống lại nghĩa là gì?"

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

 

CHÚA NHẬT 2 MÙA CHAY B

Lời Chúa: St 22,1-2.9a.10-13.15-18; Rm 8,31b-34; Mc 9,2-10

 

1.     Được biến đổi hình dạng--‘Manna’

2.     Rực rỡ trắng tinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.

3.     Biến hình--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

4.     Sống thân mật với Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

5.     “Lên núi”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

6.     Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

7.     Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

8.     Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

9.     Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

10.   Thử thách trong cuộc sống--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

11.   Đức tin trong đau khổ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP.

12.   Hãy nghe lời Người--Lm. Đan Vinh

13.   Biến đổi lòng tin, biến đổi cuộc đời!--Lm. Anmai, CSsR

14.   Xin ơn biến đổi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

15.   Xin ơn biến đổi trong Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

16.   “Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

17. Đường lối của Thiên Chúa và tư tưởng của con người--Jos. Vinc. Ngọc Biển, SSP

18.   Đây là Con Ta yêu dấu--Lm. Trầm Phúc

19.   Nhìn vào mặt tốt--Lm. Ignatiô Trần Ngà

20.   Từ Tabor đến Golgotha--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc

21.   Hai khuôn mặt một tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’

22.   Chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

23.   Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

24.   Thế giới nào là ảo?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

25.   Thôi đừng đầy đọa nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

26.   Tuân phục--Trầm Thiên Thu

27.   Đức Tin cột trói chúng ta--Peter Feldmeier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ

28.   Thay đổi--Lm. Vũ Đình Tường

29.   Con yêu dấu--Lm. Vũ Đình Tường

30.   Ngộ ra--Lm. Vũ Đình Tường

31.   Ánh sáng của đức tin--Lm. Hà Ngọc Đoài

32.   Ai hiểu được chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

33.   Crux est lux-Thập Giá là vinh quang!--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

34.   Lên núi--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

35.   Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta--Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu

36.   Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực

37.   Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?--Lm. Trần Xuân Lãm

38.   Đức Giêsu hiển dung--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

39.   Con người phải lòng Thiên Chúa--Lm. Giuse Lê Danh Tường

40.   Lên núi cầu nguyện--Tôma Nguyễn Xuân Hiệp

41.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Đức Ông James M. Reinert--Đan Quang Tâm dịch

42.   Lên núi để được biến đổi--Lm. Minh Anh

43.   Hai khuôn mặt một tình yêu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc

44.   Vâng phục thánh ý Chúa: Đường trọn lành hoàn hảo--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê

45.   Hãy Nghe Lời Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

46.   Biến hình trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

47.   Một thoáng Thiên Đàng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

48.   Từ cõi chết sống lại, nghĩa là gì?--Lm Trần Bình Trọng

49.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--‘Tin Vui Xuân Lộc’

50.   Đức Giêsu biến đổi hình dạng--Lm PX Vũ Phan Long

51.   Tin vào Đức Giêsu Kitô--Lm. Fx. Vũ Phan Long

52.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông

53.   “Hãy nghe Lời Người”--Lm. Xuân Hy Vọng

54.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng

55.   Từ Tabor đến Golgotha--Thiên Phúc

56.   Biến hình--tinmung.net

57.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Alfonso

58.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển

59.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

60.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--AM Trần Bình An

61.   Một thoáng Thiên Đàng--AM Trần Bình An

62.   Hạnh phúc thiên đàng--Lm. Minh Vận, CRM

63.   Sống trọn ơn gọi của mình--Lm. Tuấn Bình, CRM

64.   Đệ tam nhãn--Lm. Vincent Travers

65.   Suy Niệm của JKN

66.   Tình yêu tận hiến--Lm. Anphong Trần Đức Phương

67.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan

68.   Hãy lắng nghe--Rolland Dionne

69.   Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest

70.   Chúa tỏ vinh quang Ngài--Noel Quesson

71.   Cuộc biến hình--Jacques Hervieux

72.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Noel Quesson

73.   Vinh quang trên đỉnh núi--William Barclay

74.   Đức Giêsu hiển dung trên núi--Fiches Dominicales

75.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt

76.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Anthony Trung Thành

77.   Đức tin và đau khổ--Lm. Giuse Nguyễn Quốc Quang--Joshepus Quang Nguyễn

78.   Abraham

79.   Vinh quang

80.   Đau khổ

81.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay

82.   Thập Giá, Vinh Quang

83.   Y phục Người trở nên rực rỡ

84.   Đức Giêsu biến hình vinh quang

85.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay

86.   Chúa Nhật 2 Mùa Chay

87.   Con đường Chúa và tôi đi

88.   Vinh quang thập giá

89.   Tabor với Đức Giêsu

90.   Đức tin và đau khổ

91.   Chúa biến hình

92.   Sống với Chúa

93.   Biến hình

94.   Giây phút tột đỉnh

95.   Trên đỉnh Taborê

96.   Thiên Chúa về phía

97.   Sự hy sinh của Isaac

98.   Tin để lên núi--Huệ Minh

 

 

1.Được biến đổi hình dạng--‘Manna’

Suy Niệm

Đức Giêsu mê những ngọn núi vắng vẻ,

đó là nơi Ngài gặp gỡ Cha, chìm đắm trong cầu nguyện.

Có nhiều ngọn núi trong cuộc đời Đức Giêsu:

núi của Bài Giảng về các mối phúc,

núi Tabo nơi Ngài biến hình,

núi Sọ và núi Ô-liu nơi Chúa thăng thiên.

Những ngọn núi trở thành cột mốc đánh dấu.

Những ngọn núi đan vào nhau làm nên cuộc hành trình.

Ba môn đệ thân tính được Ngài đưa lên núi Tabo,

để củng cố niềm tin của họ,

trước khi họ thấy Ngài như người bị Cha bỏ rơi

và bị mọi người khai trừ ruồng rẫy trên núi Sọ.

Nhưng vinh quang của núi Tabo

chỉ là một loé sáng bất ngờ và tạm thời,

báo trước vinh quang viên mãn khi Ngài về Thiên Quốc.

Biến hình là một hành động của Thiên Chúa Cha.

Sau khi gặp Cha, Đức Giêsu được Cha biến hình.

Sự biến đổi này ảnh hưởng đến thân xác và khuôn mặt,

và đến cả y phục của Ngài.

Vinh quang của Con Thiên Chúa làm người vốn bị che khuất,

nay được Cha hé mở cho các môn đệ.

Ông Môsê ngày xưa, sau khi lên núi gặp Đức Chúa

cũng đã phải che lại khuôn mặt chói lọi của mình.

Chẳng ai gặp Thiên Chúa thực sự mà lại không biến hình.

Đời sống kết hiệp thực sự với Thiên Chúa

làm cho người Kitô hữu tỏa sáng rực rỡ.

Biến hình không phải là trở thành cái gì khác mình,

như Tôn Ngộ Không với các trò biến hoá.

Biến hình là trở lại với cái tôi sâu thẳm của mình:

tôi là con yêu dấu của Thiên Chúa.

Từ khi chịu phép Thánh Tẩy,

chúng ta đã bước vào một cuộc biến hình, từ từ và liên tục.

Nếu chúng ta chấp nhận đi vào đường hẹp của Thầy Giêsu

chúng ta sẽ được biến hình đổi dạng

và phản ánh ngời sáng hơn vinh quang Chúa (x. 2Cr 3,18).

Chúng ta phải trở thành điều chúng ta đang là.

Đời sống Kitô hữu là một cuộc lên núi

và xuống núi với Chúa Kitô mỗi ngày.

Cần cảm nếm được sự dịu ngọt và hạnh phúc

khi được chiêm ngắm Chúa Giêsu trên núi cao.

Nhưng cũng phải xuống núi với Chúa

để đi đến nơi hiến mình, nơi phục vụ, đi cùng

và đi sau Chúa Giêsu đến với Vườn Dầu và Núi Sọ.

Ước gì chúng ta dám đón nhận những gai góc đời thường

và nhìn mọi khổ đau bằng cái nhìn mới mẻ.

Người Kitô hữu lên núi gặp Chúa

để rồi được sai xuống núi hành đạo.

Nhưng xuống núi rồi, lại có khi thấy cần lên núi.

Gợi Ý Chia Sẻ

Một số bạn trẻ bỏ rất nhiều tiền để sửa sang sắc đẹp và chạy theo mốt. Bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn con người?

Cầu nguyện có thể làm con người "biến hình". Bạn có tin điều đó không? Bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?

Cầu Nguyện

Khi bị bao vây bởi muôn tiếng ồn ào,

xin cho con tìm được những phút giây thinh lặng.

Khi bị rã rời vì trăm công ngàn việc,

xin cho con quý chuộng những lúc được an nghỉ trước nhan Chúa.

Khi bị xao động bởi những bận tâm và âu lo,

xin cho con biết thanh thản ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người.

Khi bị kéo ghì bởi đam mê dục vọng,

xin cho con thoát được lên cao

nhờ mang đôi cánh thần kỳ của sự cầu nguyện.

Lạy Chúa,

ước gì tinh thần cầu nguyện thấm nhuần vào cả đời con.

Nhờ cầu nguyện, xin cho con gặp được

con người thật của con và khuôn mặt thật của Chúa.

 

2.Rực rỡ trắng tinh--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.

Suy Niệm

Vào thế kỷ thứ 8 và thứ 9, các vị hoàng đế Byzantin

đã ra lệnh đập phá các ảnh tượng tôn giáo,

bởi họ tin rằng Kinh Thánh cấm không được tạc ảnh tượng.

Đầu thế kỷ thứ 8, thánh Gioan Đamascô đã chống lại chuyện này.

Ngài viết: “Vào thời xưa, Thiên Chúa không có hình có dạng,

nên không bao giờ có thể được vẽ ra.

Nhưng nay, khi Thiên Chúa đã mang xác thể,

trò chuyện với con người,

tôi sẽ vẽ một bức tranh theo Thiên Chúa mà tôi thấy.”

Nhờ khẳng định mạnh mẽ này của thánh nhân

mà ngày nay chúng ta có những ảnh tượng thánh.

Qua mầu nhiệm Nhập Thể, nơi con người Đức Giêsu,

Thiên Chúa vô hình đã có một khuôn mặt, một thân xác,

giống như bất cứ người nào trong chúng ta.

Các môn đệ đã rất quen với khuôn mặt ấy, thân xác ấy.

Họ đã có thời gian sống chung, trò chuyện và gặp gỡ

với người mà họ gọi là Thầy, là Rabbi !

Cách đây sáu ngày, tại vùng đất dân ngoại (Mc 8,27),

Thầy đã nói cho các môn đệ biết về tương lai của mình:

bị đau khổ, bị loại trừ, bị giết và sống lại.

Thầy cũng nói cho các môn đệ biết về tương lai của họ:

từ bỏ mình, vác thập giá, mất mạng sống để rồi tìm được lại.

Họ đã có dấu hiệu chùn bước khi nghe về tương lai u ám…

Chẳng ai để ý đến việc Thầy nói về phục sinh (Mc 8,31),

hay về việc Thầy sẽ đến trong vinh quang rực rỡ (Mc 8,38).

Hôm nay, Thầy dẫn ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao,

nơi Thầy quen gặp Cha, Đấng sai Thầy.

Chính nơi đây Thầy đã được Cha biến đổi hình dạng.

Không phải chỉ khuôn mặt, nhưng toàn bộ con người.

Cả con người Thầy rạng ngời ánh vinh quang thần linh.

Cả y phục của Thầy cũng mang sắc trắng của thiên giới.

Vị Thầy thân quen của họ như bước ra từ một thế giới khác.

Rồi có hai nhân vật đáng kính là Êlia và Môsê xuất hiện.

Các vị này trò chuyện với Thầy Giêsu.

Cảnh tượng linh thiêng này làm họ ngây ngất và hoảng sợ.

Đỉnh điểm của thị kiến này là tiếng nói phát ra từ đám mây.

Mây vừa che giấu, vừa tỏ bày sự hiện diện của Thiên Chúa.

Thiên Chúa trực tiếp nói với các môn đệ từ đám mây.

Ngài giới thiệu cho họ biết Thầy Giêsu của họ là ai.

Thầy không chỉ là Đấng Kitô như Phêrô tuyên xưng.

Thầy chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa,

có tương quan thân thiết với Cha chẳng ai sánh bằng.

Hai ông Êlia và Môsê xuất hiện rồi lại biến đi.

Chỉ Thầy Giêsu còn ở lại, chỉ Thầy được gọi là Con yêu dấu.

Thiên Chúa Cha ra lệnh: Hãy lắng nghe Người (Mc 9,7).

Lắng nghe về định mệnh đang chờ đợi cả Thầy lẫn trò,

rồi chấp nhận và đi vào con đường Thiên Chúa dọn sẵn,

con đường hẹp, chẳng ai muốn đi,

nhưng lại dẫn đến sự sống, chứ không phải là ngõ cụt.

Cứ mỗi Chúa nhật 2 Mùa Chay ta lại đọc bài Chúa Biến hình.

Đây là một hy vọng xanh ngát ngay giữa màu tím của phụng vụ.

Rồi cũng đến lúc Thầy trò phải xuống núi hạnh phúc này

để lên núi Cây Dầu và núi Sọ.

Rồi có lúc ba môn đệ sẽ thấy khuôn mặt xao xuyến của Thầy,

khuôn mặt đầy máu và thương tích trong cuộc Khổ nạn.

Nhưng Phêrô sẽ không quên được kinh nghiệm này (2 Pr 16-18):

nghe tiếng của Thiên Chúa Cha phán từ trời trên núi thánh.

thấy Thầy Giêsu với vẻ lẫm liệt uy phong.

Biến hình là quà tặng của Thiên Chúa dành cho Đức Giêsu.

Khi Ngài đón lấy ý định nhiệm mầu của Cha,

thì thần tính vốn bị che giấu nay được Cha vén mở.

Mùa Chay là thời gian chúng ta lên núi để được biến hình,

nếu chúng ta chấp nhận lắng nghe và tuân giữ lời Con Chúa.

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,

xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.

Mỗi lần con thấy Chúa,

xin biến đổi ánh mắt con.

Mỗi lần con rước Chúa,

xin biến đổi môi miệng con.

Mỗi lần con nghe lời Chúa,

xin biến đổi tai con.

Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hon

sau mỗi lần gặp Chúa.

Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa

trong nụ cười của con,

thấy sự dịu dàng của Chúa

trong lời nói của con.

Thế giới hôm nay không cần những kitô hữu

có bộ mặt chán nản và thất vọng.

Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm

cùng đi với Chúa và tha nhân

trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.

 

3.Biến hình--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Trong đời, có những giây phút mà ta mong muốn kéo dài mãi, nhưng nó lại trôi qua nhanh như làn gió thoảng. Đó là những giây phút hạnh phúc. Giây phút ấy thánh Phêrô hôm nay đã được hưởng khi nhìn ngắm dung nhan Đức Giêsu biến hình. Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín theo trong cuộc biến hình để huấn luyện họ. Cuộc biến hình của Người diễn tiến qua ba giai đoạn.

Giai đoạn thứ nhất: lên núi.

Theo quan niệm của người Do thái núi cao là nơi Chúa ngự. Vì thế lên núi là đi gặp gỡ Chúa. Lên núi là một việc làm đòi nhiều cố gắng. Phải dứt bỏ khỏi những ràng buộc của cuộc sống thường ngày với những lo toan bận bịu cho bản thân, cho gia đình. Phải dành thời giờ rộng rãi cho việc leo núi. Phải phấn đấu với bản thân khi leo lên độ cao dốc dác khó đi. Nhưng lên đỉnh rồi ta sẽ thấy tâm hồn nhẹ nhàng thư thái. Đức Giêsu chỉ đưa theo ba môn đệ thân tín vì gặp gỡ với Chúa là một gặp gỡ thân tình. Chúa muốn ta đến với Chúa trong tình thân mật. Chúa muốn cùng ta thực hiện một tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn cùng ta đối thoại riêng tư diện đối diện. Tình yêu triển nở trong thiên nhiên và trong thanh vắng. Núi cao thanh vắng là nơi chốn thuận tiện cho ta đón nhận tình yêu của Chúa và bày tỏ với Người tình yêu của ta.

Giai đoạn thứ hai: biến hình.

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Y phục trở nên trắng như tuyết. Khuôn mặt Người sáng láng. Thực ra, ai gặp được Chúa cũng đều biến hình. Ta hãy nhớ lại ông Môsê. Sau khi ở trên núi Sinai 40 đêm ngày tiếp xúc thân mật với Chúa, mặt ông trở nên sáng láng đến độ, khi ông xuống núi, dân chúng không dám nhìn vào. Ông phải lấy khăn che mặt, dân chúng mới dám đến gần ông. Gần đèn thì sáng. Tiếp xúc thân mật với Chúa sẽ làm thay đổi tâm hồn ta. Tình yêu của Chúa sẽ đốt nóng tâm hồn ta, xua đi sự thờ ơ nguội lạnh. Sự dịu dàng của Chúa sẽ làm cho ta bớt đi tính độc ác khắc nghiệt. Sự khiêm nhường của Chúa sẽ diệt trừ thói kiêu căng trong ta. Sự bao dung của Chúa sẽ mở rộng tâm hồn để ta biết đón nhận anh em. Sự tha thứ của Chúa đổi mới tâm hồn, rửa sạch mọi nhơ uế trong ta. Càng gần gũi Chúa, tâm hồn ta càng được thanh luyện khỏi mọi nhỏ nhen, ích kỷ. Càng yêu mến Chúa, ta càng thêm yêu mến anh em. Càng kết hiệp mật thiết với Chúa, tâm hồn ta càng nên giống Chúa hơn.

Giai đoạn ba: xuống núi.

Khi đã hưởng nếm hạnh phúc ngọt ngào ở bên Chúa rồi, ta chẳng muốn lìa xa Chúa nữa. Thánh Phêrô, trong giây phút hạnh phúc tuyệt vời, đã xin Chúa cho dựng ba lều để ở lại vĩnh viễn trên núi. Nhưng giây phút hạnh phúc thật ngắn ngủi. Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Nhiệm vụ ấy rất nặng nề. Đức Giêsu phải chịu đau khổ, chịu vác thánh giá, chịu đóng đinh, chịu chết rồi mới phục sinh. Thánh Phêrô cùng các tông đồ còn phải phấn đấu với những yếu đuối, sa ngã, còn phải nỗ lực vượt qua mọi khó khăn thử thách trong việc rao giảng Tin Mừng, còn phải chịu đau khổ vì Thày chí thánh, còn phải trải qua cái chết đớn đau rồi mới tới được Núi Thánh thiên quốc như lòng mong ước.

Trong cuộc sống người tín hữu, lên núi chính là những giây phút dành cho việc cầu nguyện, tiếp xúc thân mật với Chúa. Đó là những buổi tham dự thánh lễ, đọc kinh và nhất là những giờ cầu nguyện riêng tư, những buổi tĩnh tâm lâu giờ trong thinh lặng. Để đến với Chúa và nhất là để kết hiệp với Chúa trong những giờ cầu nguyện, ta phải phấn đấu rất nhiều.

Trong thân mật, Chúa sẽ dạy bảo ta về đường lối của Chúa, sẽ uốn nắn ta theo chương trình của Người và sẽ biến đổi ta nên giống hình ảnh Người. Ta có thể cộng tác vào cuộc biến hình khi khao khát kết hiệp với Chúa, khi cố gắng thanh luyện bản thân, khi quên mình, ngoan ngoãn để mặc Chúa hướng dẫn bước đường.

Kỷ niệm ngọt ngào trong những giờ sống hạnh phúc bên Chúa sẽ là sức mạnh nâng đỡ ta trong những khó khăn gian khổ của đời sống. Núi thánh sẽ trở thành quê hương yêu dấu để tâm hồn ta luôn hướng về, dù còn phải vượt qua rất nhiều trở ngại cách ngăn. Thiên đàng thoáng thấy qua những giờ kết hiệp với Chúa sẽ là nguồn động viên giúp ta chu toàn mọi nghĩa vụ của con người. Như thế, khi đã xuống núi rồi, ta vẫn còn mong ước và sẽ trở lên núi mỗi khi có dịp.

Lạy Trái Tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, xin uốn lòng con nên giống Trái Tim Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1- Một số bạn trẻ tiêu tốn nhiều thời giờ và tiền bạc cho sắc đẹp bên ngoài. bạn nghĩ gì về tương quan giữa vẻ đẹp bên ngoài và vẻ đẹp bên trong tâm hồn?

2- Cầu nguyện có thể làm con người 'biến hình'. Bạn có tin điều đó không? bạn có quen ai đã biến đổi sâu xa nhờ cầu nguyện không?

3- Bạn đã có kinh nghiệm về việc sống hạnh phúc với Chúa bao giờ chưa?

4- Mùa Chay này bạn có thực sự muốn 'biến hình' không? Bạn sẽ làm gì để thực hiện ước nguyện đó?

 

4.Sống thân mật với Chúa--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy là một tình yêu sáng tạo không bao giờ ngừng nghỉ. Thiên Chúa vẫn từng phút từng giây đổ tràn tình yêu của Người vào đời sống ta. Tình yêu ấy là một tình yêu tha thứ. Thiên Chúa là người Cha nhân hậu sẵn sàng tha thứ và đón nhận những đứa con hoang đàng trở về. Tình yêu ấy là một tình yêu mong đợi. Thiên Chúa mong đợi ta hiểu biết tình yêu của Người, đền đáp tình yêu của Người, đến sống thân mật với Người.

Niềm khao khát sống thân mật được tỏ bày qua việc Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên ngọn núi cao. Chỉ chọn riêng ba người vì sự thân mật không thể có giữa đám đông. Sự thân mật chỉ có trong một nhóm nhỏ, vì sự thân mật là mối tương giao giữa tâm hồn với tâm hồn. Chúa muốn gặp gỡ riêng ta với Người, muốn có cuộc trò chuyện riêng tư với từng người. Đức Giêsu đưa họ lên núi cao. Núi cao là nơi yên tĩnh. Tình thân mật không thích những chỗ ồn ào. Tình thân mật được phát triển ngoài thiên nhiên, trong thanh vắng. Lên núi cao là bỏ lại sau lưng những phiền toái trần tục, để dành hết tâm tư, thời giờ cho cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, núi cao là nơi Chúa ngự. Lên núi cao có nghĩa là đến gặp Chúa. Trong gặp gỡ thân mật, Chúa sẽ mặc khải cho ta biết nhiều điều về Chúa và về bản thân ta.

Trước hết Chúa cho ta hiểu biết về Người. Chúa đưa ta vào đời sống thâm sâu của Người. Đó là sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Sự sống của Ba Ngôi là tình yêu, một tình yêu không ngừng trao tặng và không ngừng nhận lãnh. Tình yêu đó là nguồn mạch sự sống và là nguồn mạch hạnh phúc. Sự sống và hạnh phúc ấy đổ tràn vào tâm hồn những ai đến sống thân mật với Chúa. Ai đã một lần nếm cảm hạnh phúc ấy rồi, vĩnh viễn không thể tách rởi Thiên Chúa được nữa. Chính vì thế, sau khi ngắm nhìn dung nhan Đức Giêsu và sau khi nghe lời Chúa Cha nói: “Đây là Con Ta yêu dấu”, thánh Phêrô cảm nhận được niềm hạnh phúc ngập tràn đến độ muốn ở lại mãi mãi trên núi, không muốn trở xuống nữa. Chúng ta nhớ lại hai môn đệ Gioan và Anrê, sau một buổi chiều sống với Đức Giêsu đã quyết định theo làm môn đệ của Người. Thánh Phaolô sau khi được đưa lên tầng trời thứ ba đã mạnh dạn nói: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Chúa Kitô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo?... Không, không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8,35-39).

Sau khi cho ta hiểu biết người, Chúa cho ta hiểu biết chương trình của Người. Chương trình của Chúa là chương trình của tình yêu. Tình yêu được minh chứng qua sự hy sinh quên mình. Chúa Cha, vì yêu thương ta, đã đành hy sinh Con Một yêu quý của Người. Tình yêu ấy được diễn tả qua hành động của Abraham mà ta nghe đọc trong bài đọc thứ nhất. Chúa Con, vì yêu thương ta, đã chấp nhận liều mạng sống như lời Người nói: “Không có tình yêu nào lớn lao bằng tình yêu người dám hy sinh mạng sống mình cho bạn hữu”. Chương trình tình yêu của Chúa để cứu chuộc ta được thực hiện qua sự đau khổ và cái chết trên thập giá của Đức Giêsu.

Sau cùng, trong thân mật với Chúa, Chúa cho ta hiểu biết về bản thân mình. Gần bên Chúa quyền năng, ta thấy mình chỉ là cát bụi. Sống trong trái tim dịu dàng của Chúa, ta thấy mình quá độc ác dữ tợn. Hưởng nếm tình yêu của Chúa rồi, ta thấy mình chỉ là phường bội nghĩa vong ân. Uống vào suối nguồn sự sống của Chúa, ta khám phá ra những mầm mống chết chóc mà ta ấp ủ trong mình. Tiếp cận với nguồn ánh sáng tinh tuyền của Chúa, ta thấy mình chỉ là bóng tối nhơ uế.

Hiểu biết những sự thực về Chúa và về bản thân, ta sẽ có một cái nhìn khác về con người và thế giới. Ta sẽ nhìn mọi người bằng ánh mắt của Thiên Chúa. Ta sẽ nhìn thế giới như thể nó đã được biến hình trong Đức Giêsu. Ta sẽ nhìn thấy tình yêu Chúa dành cho mỗi người. Mỗi người đều là kết quả của tình yêu cứu độ của Chúa. Ta cũng sẽ nhìn thấy con đường mình phải đi là con đường Thánh giá. Chính những đau khổ sẽ thanh luyện, giúp ta nên tinh tuyền để càng ngày càng gần gũi thân mật với Chúa hơn.

Lạy Chúa, xin thanh tẩy tâm hồn con. Amen.

CÂU HỎI GỢI Ý

1) Bạn đã có kinh nghiệm về sống thân mật với Chúa chưa?

2) Sống thân mật với Chúa ta sẽ hiểu biết gì?

3) Trong mùa Chay này, bạn có dành thời giờ để sống thân mật với Chúa không?

 

5.“Lên núi”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên

Nếu Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ muốn đưa chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu, thì Chúa nhật này, Phụng vụ lại mời chúng ta cùng lên núi với Người. Vào sa mạc để sống tinh thần khổ chế của chay tịnh; lên núi cao để được biến đổi, canh tân.

Trong truyền thống Thánh Kinh, núi cao thường được coi như nơi thuận tiện để con người được gặp gỡ Thiên Chúa. Ba tháng sau khi ra khỏi Ai Cập, các vị kỳ lão đại diện cho Dân Do Thái được ông Môisen dẫn lên đỉnh núi Sinai để gặp Chúa. Tại đây Chúa ban cho họ Luật Giao ước (x. Xh chương 19). Ngôn sứ Elia trong cuộc chạy trốn vua Akháp đã đi bốn mươi ngày đêm để đến núi Horeb. Ở đó, ông được gặp Chúa và tìm được sức mạnh để có thể đối diện với những khó khăn trong sứ mạng (x. 1V chương 19). Trong Tân ước, núi cao cũng là những địa điểm gắn liền với giáo huấn của Chúa Giêsu. Chính trên núi cao mà Người giảng tám mối phúc thật, được coi như Luật Mới của Tin Mừng. Cũng trên đỉnh núi, người biến hình đổi dạng trước mặt ba môn đệ. Và cuối cùng, trên núi cao, Đấng Phục sinh đã gặp gỡ các môn đệ và sai các ông đi khắp thế gian để tiếp tục sứ vụ loan báo Tin Mừng mà Người đã thực hiện khi còn tại thế.

Để lên được núi cao, con người phải buông bỏ những ràng buộc. Người nào mang quá nhiều hành trang sẽ khó có thể tới đỉnh núi. Lên núi thiêng liêng là bỏ bớt những tham lam ích kỷ, những toan tính nhỏ nhen để con người thanh thoát. Chỉ khi nào chấp nhận buông bỏ, chúng ta mới gặp được Chúa.

Có hai cuộc lên núi được đề cập trong Lời Chúa hôm nay, đó là Bài đọc I trích sách Sáng thế và Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô.

Ông Abraham sinh được một mụn con vào lúc đã một trăm tuổi và ông đặt tên là Isaac. Tên gọi này có nghĩa là “Thiên Chúa làm cho tôi cười”, như chính bà Sara vợ ông đã giải thích (x. St 21,1-7). Chẳng cần phải nói, chúng ta cũng biết hai ông bà yêu quý cậu con trai nối dõi tông đường này thế nào, vì đây là niềm hy vọng và là niềm vui duy nhất của ông ở tuổi xế chiều. Tuy vậy, Chúa muốn thử thách lòng trung thành của Abraham, và Ngài truyền cho ông sát tế con mình làm của lễ toàn thiêu trên một ngọn núi. Dưới ngòi bút của tác giả, Abraham được diễn tả như một người kiên định và hoàn toàn phó thác vào Chúa. Đối với ông, thánh ý Chúa là điều tối quan trọng, những điều khác chỉ là vô nghĩa, kể cả đứa con độc nhất của mình. Nếu Abraham đã trung thành với Chúa, thì Chúa không bỏ rơi ông. Chúa có cách can thiệp của Ngài. Chính Chúa sẽ tìm ra một giải pháp, một lối thoát cho hoàn cảnh này. “Chính Thiên Chúa sẽ liệu, con ạ!” – lời nói của Abraham với con mình đã khẳng định sự xác tín của ông. Và, quả thật là Chúa sẽ liệu, như chúng ta thấy ở phần kết của câu chuyện. Ngọn núi từ đó được mang tên “Núi Đức Chúa sẽ liệu”. Qua vị sứ thần, Thiên Chúa đã ghi nhận lòng vâng lời, trung thành và tín thác của ông, khi ông không ngần ngại sát tế đứa con thừa tự của mình. Chính do lòng trung thành này mà Thiên Chúa hứa cho ông những điều tốt đẹp ở tương lai. Đó là một dòng dõi đông đảo và được chúc phúc.

Cuộc lên núi thứ hai được diễn tả như một cuộc thần hiện của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Tác giả Mác-cô cẩn thận ghi rõ chi tiết thời gian “sáu ngày sau” ở đầu trình thuật. Đó là sáu ngày sau khi Chúa Giêsu loan báo lần thứ nhất cuộc thương khó và phục sinh. Trước lời loan báo này, xem ra các ông không hiểu gì. Vậy nên ông Phêrô mới can gián Người và bị Người gọi là Satan (x. Mc 8,33). Chính trong bối cảnh ấy là Chúa dẫn ba môn đệ thân tín lên núi và Người biến hình đổi dạng trước mắt các ông. Ba môn đệ đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan đã được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi. Các ông ngỡ ngàng trước cảnh tượng mà các ông nhìn thấy. Nơi đây, các ông chứng kiến một cuộc “thần hiện” huy hoàng: Chúa Giêsu không còn dáng vẻ của một người thường như mọi ngày, nhưng Người đã tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa, vinh quang sáng ngời, quyền năng mạnh mẽ. Bóng mây bao phủ và tiếng nói từ trời là cách diễn tả Thiên Chúa Cha. Ngài giới thiệu cho mọi người biết sứ mạng Thiên Sai của Con Một Ngài. Hai nhân vật nổi bật của Cựu ước, ông Môisen tượng trưng cho Lề Luật, ông Elia tượng trưng cho truyền thống ngôn sứ, đều hiện ra cùng lúc để làm chứng về Chúa Giêsu. Đối với độc giả Do Thái, khi đọc những dòng trình thuật này, chắc chắn họ không thể thắc mắc gì về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Người là Đấng được Lề Luật và các Ngôn sứ loan báo từ ngàn xưa, nay đã đến để cứu độ con người. Ba môn đệ là những người được biến đổi trước hết. Nếu trước đó sáu ngày, ông Phêrô còn ngờ nghệch và nghi nan, thì hôm nay khi chứng kiến Chúa biến hình, ông lại choáng ngợp trước vẻ huy hoàng của cuộc biến hình. Ông đã ngỏ lời làm ba lều, một cho Chúa, một cho ông Môisen và một cho ông Elia. Tác giả Phúc âm không quên chú giải thêm: ông không biết mình nói gì, vì kinh hoàng. Khi chứng kiến cuộc “thần hiện” này, quan niệm về Đấng Thiên sai nơi ba tông đồ không còn mang những nét trần tục, nhưng hoàn toàn thần thiêng. Nhờ sự biến đổi này, các ông xác tín vào Thày mình, Đấng họ đã từ bỏ mọi sự mà tin theo.

Trong cuộc sống thường nhật, giữa bao nhiêu bon chen tính toán trần tục, chúng ta thường bị cám dỗ và có nguy cơ trở nên tầm thường, ti tiện trong ứng xử. Mùa Chay là mùa “lên núi” để tập sống tinh thần của Abraham, tín thác cậy trông vào Chúa. Mùa Chay cũng là mùa lên núi như các tông đồ để cảm nhận rõ hơn sứ mạng của Đấng Cứu thế, với xác tín Người đang hiện diện giữa chúng ta. Theo Chúa chính là một cuộc leo núi, kiên trì, liên lỉ. Trong cuộc leo núi, có nhiều người bỏ dở ngang đường vì không đủ can đảm trút bỏ những vướng víu ngăn cản tiến lên. Mùa Chay giúp ta nhìn lại chặng đường mình đã đi, nhiều khi không phải là lên cao nhưng trái lại, đang là những tụt dốc, làm chúng ta càng ngày càng trở nên xa Chúa và xa rời anh chị em mình. Sám hối ăn năn, giao hòa với Chúa và với anh em, từ bỏ lối mòn của quá khứ để dám lên đường khởi đầu một hành trình mới, đó chính là một cuộc “lên núi” thiết thực đối với chúng ta.

“Chúa không hứa ban cho chúng ta một cuộc hành trình êm ả, Người chỉ hứa giúp ta đến đích an toàn” (John Gower – Thi sĩ người Anh, thế kỷ 14).

 

6.Muốn hạnh phúc phải vâng lời Người--‘Xây Nhà Trên Đá’--ViKiNi--Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

“Lạy Thầy, chúng con ở đây sướng quá, chúng con xin dựng ba nhà, một cho Thầy, một cho Môisen, và một cho Êlia”. Đây là tâm sự của Phêrô lúc được hưởng hạnh phúc Chúa biến hình rực rỡ vinh quang, một hạnh phúc thiên đàng vừa hé mở. Phêrô đã thuật lại rất sống động tâm sự này cho các tín hữu đang chịu thử thách cam go vì đạo, và được Marcô, con tinh thần của Phêrô viết lại.

Thánh Phêrô đã quả quyết có hạnh phúc đời đời để cho mọi người tin tưởng vững vàng sống theo lời Chúa, sẵn sàng hy sinh vì đức tin, họ sẽ được vinh quang nước trời. Một thứ hạnh phúc làm ngây ngất mãi mãi. Một thứ hạnh phúc sáng láng rực rỡ toát ra từ chính con người của Đức Giêsu, chứ không phải thứ ánh sáng bên ngoài bao phủ Người. Ánh sáng đó là chính ánh sáng Ngôi Lời Thiên Chúa. Gioan đã được cùng với Phêrô hưởng ánh sáng rực rỡ này nên khi mở đầu sách Tin mừng thứ bốn, Gioan đã viết: “Ngôi Lời là sự sáng đích thực, sáng soi cho mọi người” (Ga. 1, 9).

Trong lễ dâng Đức Giêsu vào đền thờ, tiên tri Simêon đã nhìn thấy “Người là ánh sáng muôn dân, là vinh quang của dân Chúa” (Lc. 2, 32). Chính Đức Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai tin Tôi sẽ không ở trong tăm tối” (Ga. 12, 46). Nhất là khi “Người sống lại sáng chói rực rỡ khiến quân dữ ngã lăn bất tỉnh” (Mt. 28, 3-4). Do đó, trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh sáng bởi Ánh sáng”. Và trong kinh cầu chúng ta tung hô: “Chúa Giêsu là mặt trời soi đường công chính”.

Ánh sáng đó làm cho những người công chính như Môisen, Êlia được vinh phúc tràn ngập đời đời, còn người phàm đã biết theo Chúa như Phêrô, Giacôbê, Gioan cũng được ngây ngất chút đỉnh rồi lịm đi vì chưa đủ sức chứa đựng ánh sáng huy hoàng của nước trời, còn kẻ dữ phải khiếp sợ chết xỉu đi.

Từ hạnh phúc biến hình núi Tabor, Đức Giêsu dẫn đưa các môn đệ vượt qua đau khổ núi Sọ để đến hạnh phúc vinh quang phục sinh muôn đời.

Hôm nay Giáo hội là mẹ nhân lành theo gương Chúa Giêsu, cũng muốn dẫn đưa con cái mình là chúng ta từ hạnh phúc núi Tabor vượt qua biển khổ trần gian đến hạnh phúc vinh quang phục sinh bất diệt.

Không một thứ hạnh phúc thế gian nào sánh được. Hạnh phúc thế gian luôn luôn chất chứa đắng cay, đau khổ như ma túy, rượu chè, cờ bạc, trai gái. Khi chưa được thì thèm khát, khi mắc vào thì chán ngán, thất vọng, càng sa bẫy, càng bị kìm kẹp trong đau khổ tuyệt vọng.

Thí dụ: Tôi biết có anh chị đậu cao học (Master), quen nhau, yêu nhau nồng nàn suốt hai năm trời. Lễ cưới chi phí đến 20.000 đô. Họ hàng bạn bè, ai cũng mừng cho đôi uyên ương hạnh phúc. Nhưng chỉ được một tuần, giận nhau, bỏ nhau, đoạn tuyệt. Cha mẹ khuyên can cực lòng đến sinh bệnh, con cũng chẳng nghe.

Đấy là những hạnh phúc của thế gian.

Còn hạnh phúc của Thiên Chúa ban thì chưa thấy một đấng thánh nào chán cả. Phêrô được hưởng rồi, đã ra sức cố gắng nghe lời Con Yêu Dấu đến nỗi phải hy sinh chịu đóng đanh chết trên thập giá, vẫn luôn luôn “sướng quá”. Phaolô khi té ngựa được thấy ánh sáng rực rỡ của Đức Giêsu, dù mắt mù đi, ông đã bỏ đạo Biệt phái, đạo tổ tiên mà ông đã hăng say học hỏi từ nhỏ và cuồng nhiệt chống đối, bắt bớ kẻ phản đạo đó, để trở về với ánh sáng Đức Kitô, làm tông đồ của Đức Giêsu, một tông đồ vĩ đại nhất, nhiệt thành truyền đạo Ánh sáng nhất, chịu nhiều cực hình đau khổ nhất. Biết bao nhiêu các thánh tử đạo chỉ được thấy ánh sáng đức tin, đã coi cực hình thân xác nhẹ như lông hồng.

Muốn được hạnh phúc như các ngài, ta phải đến với ánh sáng Đức Kitô, nghe lời Con yêu dấu Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”.

Abraham đã triệt để nghe lời Người, đến nỗi sẵn sàng sát tế con mình để tỏ lòng trung thành kính mến Thiên Chúa. Thiên Chúa đã hài lòng về tinh thần nghe lời Người của Abraham hơn là của lễ sát tế con ông. Vì: “Ta muốn lòng nhân từ, chứ đâu cần tế lễ” (Mt. 9, 13). Và nhờ đó “mọi dân trên mặt đất sẽ được chúc phúc, chính bởi vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Môisen đã nghe lời Người, dù kinh hoàng run sợ nghĩ đến phải trở về đối diện với vua Pharaon đang lùng bắt ông. Dù phải cực khổ vào sinh ra tử suốt bốn mươi năm trong sa mạc để dẫn đưa dân về đất Hứa.

Êlia đã nghe lời Người dù biết mình phải lao vào lưỡi gươm trả thù của hoàng hậu Giêzabel, để cứu thoát dân khỏi nô lệ tà thần. Và hàng triệu, hàng tỷ người đã nghe lời Con yêu dấu của Chúa Cha, vì biết rằng: “Thiên Chúa bênh đỡ ta, ban tất cả cho chúng ta, chí như chính Con mình, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc cho Con mình phải chết vì hết thảy chúng ta”, để “Con Người từ cõi chết sống lại” “sẽ cho chúng ta được sống lại vinh phúc với Người” (Rm. 8, 31-34).

Lạy Chúa, xin cho con lắng nghe lời Con yêu dấu Ngài, dù phải nhục nhã ê chề. Xin cho con trung kiên giữ trọn lời Người, dù phải chịu sát tế với Người, con vẫn một lòng thưa như tổ phụ Abraham: “Dạ con đây”.

 

7.Đức Giêsu- bảo chứng tình yêu--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

Có nhiều tôn giáo tin nhận Thiên Chúa hiện hữu, nhưng Kitô giáo là tôn giáo đặc biệt nhận ra Thiên Chúa là Đấng yêu thương. Chính khi nhận ra Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu nhận biết Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng, đến độ dám cho Con Yêu Dấu của Ngài nhập thể làm người ở giữa con người.

I. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa

Đức Giêsu đã cùng với ba môn đệ lên núi. Ngài đã biến hình, áo Ngài trở nên trắng như tuyết. Tin Mừng Mác-cô không nói gương mặt Đức Giêsu biến đổi như thế nào, chỉ dùng chữ “biến hình;” tuy nhiên, người ta nghĩ rằng nếu áo của Ngài như vậy, thì gương mặt và thân xác của Ngài cũng phải “ra khác” một cách rất đặc biệt. Cựu Ước cũng đề cập đến gương mặt của Môsê trở nên sáng láng sau khi ông gặp gỡ Thiên Chúa, nên ông phải che mặt khi gặp gỡ dân Do Thái (Xh.34, 29-35). Thánh Phaolô đã giải thích gương mặt của Môsê được biến đổi vì phản ánh vinh quang Thiên Chúa. Vậy khi Đức Giêsu biến hình, hàm chứa Ngài là người phản ánh Thiên Chúa một cách rất đặc biệt.

Tiếng từ trong đám mây nói với ba môn đệ: “Đây là Con Ta, Đấng rất được yêu. Hãy nghe Ngài.” Như vậy, Thiên Chúa nhận Đức Giêsu là Con của Ngài, và là Đấng được yêu đặc biệt. Thực ra, tước vị “con Thiên Chúa” cũng được dùng để chỉ nhiều người (G.38,7), dân Israel (Hos.11, 1), vị vua thiên sai (Tv.2, 7). Với Đức Giêsu, Ngài được Thiên Chúa gọi là người Con, được yêu đặc biệt; tuy nhiên, ngay lúc trên núi này, chắc ba môn đệ chưa thể nào nhận biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa như các ngài đã nhận ra sau khi Đức Giêsu phục sinh và hiện ra cho các ông, tuy nhiên lúc này Đức Giêsu vẫn là một người rất đặc biệt.

Đức Giêsu nhận mình là Con Người. Đức Giêsu thật sự là người như tất cả mọi người. Một người cảm thấy gì thì Đức Giêsu cũng cảm thấy như vậy. Ngài cũng bị cám dỗ như bao người, dù là cám dỗ về miếng ăn, về danh vọng và về quyền hành (Mt.4, 1-11); và không chỉ vậy, Ngài còn bị cám dỗ về đức tin nữa: “Lạy Cha, sao Cha nỡ bỏ con” (Mc.15, 34). Đức Giêsu, nếu có điều gì khác chúng ta, thì đó là Ngài không phạm tội (Dt.4, 15). Ngài đã dùng tự do để vâng phục Thiên Chúa, còn chúng ta lại dùng tự do Thiên Chúa ban để phản lại Ngài.

II. Abraham đã sẵn sàng hiến tế con mình cho Thiên Chúa

Abram, tổ phụ dân Do Thái, là một con người rất đặc biệt. Thiên Chúa đã mời gọi ông bỏ quê cha đất tổ để đi đến đất Ngài chỉ cho. Thiên Chúa hứa sẽ ban cho ông có con cháu nối dòng, có đất làm cơ nghiệp, và trở thành một mối chúc lành cho nhiều người. Abram đã tin và đã đi theo lời mời của Thiên Chúa. Đặt mình vào hoàn cảnh của người thời đó, ta nhận ra Abram đã tin vào Thiên Chúa một cách rất đặc biệt. Thời đó người ta chưa có luật lệ như hiện tại, người ta phải dựa vào gia đình họ hàng để bảo vệ mình và tài sản khỏi bị người khác đánh cướp. Thế mà Abram dám rời bỏ gia đình, ra đi với tài sản và vợ là Saray. Nếu không tin tưởng và phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, thì không ai dám làm điều đó vì rất nguy hiểm, người ta không chỉ mất tài sản nhưng còn mất cả mạng sống mình. Abram đã dám làm.

Thiên Chúa đã đổi tên Abram thành Abraham, Saray thành Sara; và đã cho ông bà có một người con tên là Isaac. Thiên Chúa cũng nói với Abraham rằng dòng giống ông sẽ nhờ Isaac mà có; thế mà giờ đây Thiên Chúa lại bảo ông đem người con duy nhất của mình đi hiến tế làm của lễ dâng Thiên Chúa. Tại sao Thiên Chúa lại “đổi ý” như vậy? Tại sao Thiên Chúa không “nhất quán” với chính Ngài: đã hứa cho dòng dõi của ông nhờ Isaac mà có, mà bây giờ lại đòi ông phải hiến tế Isaac? Làm sao có thể vâng lời Thiên Chúa được?

Một lần nữa, Abraham đã tin và phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn sao Abraham cũng làm, vì ông tin rằng Thiên Chúa quyền năng, Ngài có thể làm tất cả, ngay cả phục sinh Isaac. Chắc chắn Abraham đã có những suy nghĩ cám dỗ bất tuân, nhưng ông đã chiến thắng chính mình bằng niềm tin phó thác tuyệt đối nơi Thiên Chúa. Qua hành vi này, ông trở thành cha tất cả những người tin (Rm.4, 18tt). Cả cuộc đời của Abrahm là một chuỗi những hành vi tin. Ngay cả khi vợ ông là bà Sara chết, ông vẫn chưa có đất để chôn (St.23), tuy vậy ông vẫn tin rằng Thiên Chúa sẽ ban cho ông điều Ngài đã hứa.

III. Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Ngài

Khi Đức Giêsu còn tại thế, chẳng ai biết Ngài là Thiên Chúa nhập thể, kể cả các tông đồ. Chỉ sau khi Ngài sống lại, và với ơn Thánh Thần soi sáng, các tông đồ nhớ lại những gì Đức Giêsu đã nói và đã làm, nên mới nhận ra Ngài là Con Thiên Chúa theo một nghĩa thật đặc biệt. Một khi nhận ra Đức Giêsu là Đấng thật đặc biệt, là Con Thiên Chúa, thì Kitô hữu lại hiểu biết về Thiên Chúa và về con người một cách thâm sâu hơn.

Con người là ai mà được Thiên Chúa yêu thương đến như vậy! Sao Thiên Chúa lại trao phó Con của Ngài cho con người như thể “trao trứng cho ác” như vậy? Một người ít hiểu biết nhất cũng nhận ra con người gian ác sẽ giết Con của Ngài, như vậy tại sao Ngài vẫn trao gởi Người Con của Ngài cho con người? Tại sao Thiên Chúa tin con người đến độ như vậy? Cho đến cùng, Kitô hữu nhận ra tình yêu của Thiên Chúa đối với con người thật vô cùng: Thiên Chúa tin vào con người dù thật sự không thể tin được.

“Thiên Chúa không dung tha chính Con Ngài nhưng phó thác Con của Ngài vì tất cả chúng ta.” Nhìn Đức Giêsu chết trần trụi ô nhục thê thảm trên thập giá, người ta có cảm tưởng như thể Thiên Chúa yêu thương con người hơn cả Đức Giêsu. Thật ra không phải Thiên Chúa yêu thương con người hơn Con của Ngài; nhưng điều đó lại cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Theo thánh Phaolô, một khi Thiên Chúa đã ban Đức Giêsu cho ta, thì Ngài không còn tiếc gì với ta nữa. Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta tất cả. Đức Giêsu là bảo chứng cho thấy Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng!

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1. Nơi Abraham có điều gì bạn kính phục?

2. Bạn có nhận thấy Thiên Chúa tin và phó thác vào con người khi cho Con Ngài nhập thể không? Tại sao?

3. Đức Giêsu có bị nghi ngờ về đức tin không? (chẳng hạn, không biết mình có sống lại thật không? nếu bạn nghĩ có, tại sao bạn nghĩ như vậy? xin đưa bằng chứng hoặc lý luận bảo vệ ý kiến của bạn.)

 

8.Thiên Chúa trên hết--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

1. Thiên Chúa có quyền đòi hỏi như vậy không?

Abraham không con, Thiên Chúa đã ban Isaac cho ông, và hôm nay chúng ta thấy Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế con của mình trên một ngọn núi.

Isaac là người con duy nhất của Abraham với Sara. Thiên Chúa cũng hứa rằng chính từ nơi Isaac mà Abraham có con cháu đông như sao trên trời như cát dưới biển!

Thiên Chúa ban Isaac cho Abraham, rồi bây giờ Thiên Chúa muốn đòi lại! Thiên Chúa hứa ban cho Abraham dòng giống đông đảo qua Isaac, nhưng bây giờ Thiên Chúa muốn Abraham hiến tế Isaac cho Ngài! Tại sao Thiên Chúa lại oái oăm như vậy? Giết Isaac, có khác nào Abraham giết mình!

Trong Kinh Thánh chúng ta còn thấy có nhiều đoạn văn cho thấy như thể Thiên Chúa coi thường mạng sống con người:

Thiên Chúa đã giết các con đầu lòng của người Aicập để giải phóng dân tộc Do thái;

Thiên Chúa đã ra lệnh thần tru "giết tất cả người và súc vật không chừa một mạng sống" trong một số thành mà dân Do thái đánh chiếm.

Tại sao Thiên Chúa lại đòi điều khủng khiếp như vậy nơi con người? Thiên Chúa có thể bắt con người phải giết người, và đặc biệt là giết con của mình, để hiến tế Ngài không? Thiên Chúa có quyền thử con người và đòi buộc con người như thế không?

Phải chăng là Thiên Chúa bất nhân?

2. Thiên Chúa đã hiến con của Ngài cho chúng ta

Thiên Chúa thử để cho thấy Abraham chọn Thiên Chúa trên hết, trên cả con mình, và trên cả chính mình. Tương tự vậy, Thiên Chúa đã cho Satan hành hạ Gióp, để người ta thấy rõ Gióp là người công chính và thánh thiện như thế nào!

Có thể chúng ta không dám hiến mạng con chúng ta cho Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa đã dám hiến mạng Con của Ngài cho chúng ta: "Thiên Chúa không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta; và như vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không ban mọi sự cho chúng ta cùng với Con của Ngài sao?" (Rm.8, 31-32).

Thiên Chúa không đòi, nhưng Thiên Chúa mời, và nếu chúng ta dám dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa, thì chắc Thiên Chúa không thua lòng quảng đại của chúng ta. Thiên Chúa mời gọi, để chúng ta được trổi trang hơn, được trổi vượt hơn.

Nếu chúng ta bất bình trước những đòi hỏi của Thiên Chúa đối với Abraham và đối với nhiều người, thì đáng lẽ chúng ta phải rung động sâu xa trước biến cố Thiên Chúa dám hiến Con của Ngài cho chúng ta! Thiên Chúa dám hy sinh Con của Ngài, và như vậy là hy sinh chính Ngài cho chúng ta.

Chúng ta dễ phản đối Thiên Chúa vì cho rằng Ngài đã đòi hỏi chúng ta, chứ dường như chúng ta chưa rung động trước tình yêu của Thiên Chúa qua việc Ngài hiến Con Ngài cho chúng ta! Và nếu vậy, chúng ta là loài phản loạn, yêu sách, đòi hỏi, và không khiêm tốn nhận biết mình thực sự: con người có là gì trước Thiên Chúa. "Nhân bản" thì không bằng "Chúa bản", vì lấy Chúa làm nền tảng thì hàm chứa luôn tôn trọng con người thực, giúp con người thực sự, làm con người hạnh phúc thật.

3. Đây là Con Ta rất yêu dấu

Các môn đệ không hiểu nhiều về biến cố này, vì các ông chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa. Các ngài chỉ biết Đức Yêsu là người rất đặc biệt của Thiên Chúa. Biến cố "Chúa hiển dung" này soi sáng biến cố phục sinh, và giúp các tông đồ nhận ra Đức Yêsu là Thiên Chúa.

Đức Yêsu là Thiên Chúa. Nếu đúng như vậy, thì Thiên Chúa yêu con người biết bao, vì Ngài đã hiến Con của Ngài vì tất cả chúng ta! Ôi tình yêu Thiên Chúa thật thâm sâu, thật nhiệm mầu.

Thiên Chúa yêu thương con người vô cùng. Ngài là tuyệt đối, Ngài có quyền đòi hỏi mọi sự, và trên nguyên tắc con người phải dâng hiến tất cả cho Ngài, dâng hiến Ngài những gì qúy nhất, và thậm chí cả con người của mình.

Con người phải tin rằng Thiên Chúa yêu thương mình, cho dù Ngài có đòi hỏi gì đi nữa:

những con đầu lòng của người Aicập vẫn được Thiên Chúa thương;

những em bé bị chết ở Bêlem dưới tay bạo chúa Hêrôdê được tôn kính "các thánh anh hài";

các thánh tử đạo được thưởng công xứng đáng.

Tin tưởng phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, là những nhân đức đối thần, tức là những hành vi căn bản và nền tảng mà con người phải có đối với Thiên Chúa. Không tin tưởng tuyệt đối vào Thiên Chúa, không thể làm đẹp lòng Thiên Chúa được.

Con người phải bỏ mình để Thiên Chúa trở nên nhất nơi mình.

 

9.Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người--Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Đề: Cũng vì thương, Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho loài người. (Mc 9,7)

I. Dẫn vào Thánh lễ

Trong Mùa Chay, Hội Thánh nhắc chúng ta nhớ những điều rất quan trọng. Chúa nhật vừa qua, Hội Thánh nhắc ta nhớ đến những ơn ban của Chúa. Hôm nay Hội Thánh nhắc ta nhớ đến một ơn quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta, đó là Đức Giêsu, Người Con Một yêu quý của Ngài.

Thiên Chúa ban Đức Giêsu cho chúng ta để Đức Giêsu sống với chúng ta và chúng ta sống với Ngài, sống theo Ngài và sống như Ngài.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy chú ý lắng nghe Lời Đức Giêsu và kết hợp thân thiết với Ngài.

II. Gợi ý sám hối

Chúa nhật vừa qua, Đức Giêsu đã kêu gọi chúng ta sám hối, nghĩa là bỏ con được cũ lầm lạc để quay về với Chúa. Chúng ta đã thực sự quay về chưa?

Đức Giêsu còn kêu gọi chúng ta hãy lắng nghe Lời Chúa. Chúng ta đã làm việc này chưa?

Đã qua một tuần Mùa Chay rồi, mỗi người chúng ta có dự định cụ thể nào chưa?

III. Lời Chúa

1. Bài đọc 1: St 22,1-2.9a.10-13.15-18

Tường thuật chuyện Abraham tế sát Isaac.

Tế sát Isaac là một hy sinh rất lớn của Abraham, vì: a/ Isaac là đứa con duy nhất mà vợ chồng ông sinh được trong lúc tuổi già; b/ đứa con ấy lại là tất cả niềm hy vọng của ông về lới Chúa hứa sẽ cho ông một dòng dõi đông đúc; b/ bởi thế, Isaac là "đứa con một yêu dấu" của Abraham. Vậy mà ông đành giết nó để dâng cho Chúa.

Tuy nhiên tấm lòng của Abraham đối với Thiên Chúa còn to lớn hơn: a/ Chúa vừa gọi "Abraham" thì ông đáp lại ngay "Dạ, tôi đây"; b/ Chúa muốn ông làm một việc vừa ngược với tình cảm của ông, vừa xem ra cũng ngược với lời Ngài đã hứa (cho ông một dòng dõi đông đúc), ông cũng sẵn sàng làm.

Thiên Chúa coi trọng tấm lòng hơn lễ vật, coi trọng sự hy sinh trong tâm hồn Abraham hơn đứa con mà ông sắp dâng. Cho nên Chúa bảo ông dừng tay. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Ngài.

2. Đáp ca: Tv 115

Tác giả đang ở trong một hoàn cảnh bi đát "Tấm thân tôi trăm phần khổ cực", hơn nữa đang chứng kiến "cái chết của những bậc thánh nhân", thế mà tác giả vẫn tin vào Thiên Chúa.

Đáp lại đức tin kiên vững ấy, Thiên Chúa đã "bẻ gãy xiềng xích" và cứu thoát tác giả. Ông vui mừng ca tụng Chúa và dâng lễ vật tạ ơn.

Những tâm tình này rất đúng với Abraham.

3. Tin Mừng: Mc 9,2-10

Bài tường thuật Đức Giêsu biến hình. Điểm đáng chúng ta lưu ý nhất là tiếng từ trời "Đây là con yêu dấu của Ta". Câu này là vang vọng của lời Thiên Chúa nói với Abraham về Isaac "Hãy đem Isaac đứa con rất yêu dấu của ngươi... dâng nó làm lễ toàn thiêu" (Bài đọc I)

Như thế, Isaac là hình bóng của Đức Giêsu. Cũng như Abraham đã hy sinh đứa con một yêu dấu của mình, thì Thiên Chúa cũng không tiếc khi ban Đức Giêsu, Người Con Một yêu dấu của Ngài, cho nhân loại để chịu chết cứu chuộc nhân loại.

4. Bài đọc II: Rm 8,31-34

Thánh Phaolô suy nghĩ về ý nghĩa cuộc đời Đức Giêsu và hiểu rằng tất cả đều vì lợi ích cho loài người chúng ta: Khi Đức Giêsu chịu chết là chịu chết "vì tất cả chúng ta"; và khi Ngài sống lại lên ngự bên hữu Chúa Cha thì cũng là để "biện hộ cho chúng ta".

Đức Giêsu chính là ơn ban tuyệt vời nhất mà Thiên Chúa ban cho loài người.

IV. Gợi ý giảng

* 1. Món quà ngoài sức tưởng tượng

Các bài đọc hôm nay nói về những món quà vượt sức tưởng tượng.

Abraham là một người sẵn lòng với Thiên Chúa. Ngài bảo ông bỏ quê hương xứ sở mà ra đi đến một nơi vô định. Ông mau mắn làm theo. Thiên Chúa thấy lòng quảng đại của ông, Ngài bảo ông dâng Isaac cho Ngài. Món quà này chắc chắn Abraham không ngờ tới, vì đó không phải là một đồ vật hoặc một con vật mà là một con người. Con người ấy lại là đứa con duy nhất của ông. Hơn nữa nó còn là tất cả hy vọng của ông vì ông sinh ra nó trong lúc tuổi đã già, và ông nghĩ chỉ có nó mới thực hiện được mong ước của ông là có một dòng dõi. Dâng nó đi là dâng tất cả. Thế mà Abraham đã dâng. Một món quà ngoài sức tưởng tượng (bài đọc I).

Nhưng món quà mà Thiên Chúa ban cho loài người còn ngoài sức tưởng tượng hơn nữa. Đó là ban Đức Giêsu, Người Con độc nhất, Người Con thân yêu vô cùng. Hơn nữa, Thiên Chúa ban Người Con ấy để Người Con ấy chịu chết vì tội lỗi loài người, chết thay cho loài người (bài Tin Mừng). Thật chẳng có tấm lòng nào bằng như thế. Chẳng có tình yêu nào cao cả như thế (bài đọc II).

* 2. "Hãy vâng nghe lời Người"

Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:

- Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

- Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.

- Ông hãy đẫp vỡ nó ra!

- Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ!

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:

- Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?

- Bằng nửa vương quốc.

- Hãy đập vỡ nó ra!

- Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:

- Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?

- Muôn tâu, đẹp không thể nói được.

- Hãy đập nát nó đi.

Lập tức Abdul lấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi:

- Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?

Abdul bình tỉnh đáp:

- Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.

Nhà vua khen ngợi thái độ của Abdul và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.

Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: "Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài".

* 3. Con yêu dấu

Khi đọc bài Tin Mừng hôm nay về việc Đức Giêsu biến hình, tôi chẳng có chút cảm xúc nào cả. Đọc thêm bài đọc I về chuyện Abraham tế sát Isaac, tôi khám phá rằng Isaac là hình bóng của Đức Giêsu, và người cha già Abraham là hình bóng của Thiên Chúa. Và tôi rất xúc động vì tiếng gọi "Con yêu dấu".

Abraham yêu dấu Isaac biết chừng nào vì đó là đứa con duy nhất ông sinh ra được trong lúc tuổi đã già. Chúa Cha cũng yêu dấu Đức Giêsu biết chừng nào vì đó chẳng những là Người Con duy nhất mà còn là Người Con tuyệt hảo của Ngài.

Có người cha nào không tan nát cõi lòng khi đứa con yêu dấu duy nhất của mình phải chết? Chúa Cha hiểu được tâm trạng này nên Ngài chỉ thử lòng Abraham thôi chứ không nỡ để Isaac phải chết. Thế mà Chúa Cha lại cho Đức Giêsu Con Yếu Dấu của Ngài phải chết thật! Ôi tình Chúa Cha thương loài người chúng ta bao la và vĩ đại biết chừng nào!

Chúa Cha chỉ mong nơi loài người chúng ta một điều duy nhất là "Hãy vâng nghe Lời Đức Giêsu" thôi. Nếu điều duy nhất ấy mà chúng ta cũng không đáp ứng thì thật là phụ bạc biết chừng nào!

4. Thử thách và biến hình

Bài đọc I nói về thử thách (Thiên Chúa bảo Abraham tế sát Isaac), còn bài Tin Mừng nói về biến hình. Hai khía cạnh này liên kết với nhau và bổ sung cho nhau như hai mặt của một đồng tiền.

Khi Thiên Chúa mới gọi Abraham, Ngài đã thử thách ông: Ông phải từ bỏ quê hương xứ sở để đi đến một nơi vô định. Vì Abraham trung thành trong thử thách nên Thiên Chúa đã cho ông có con. Trước khi dẫn đời ông sang một biến đổi nữa, Thiên Chúa lại thử thách ông: đứa con duy nhất ấy, Ngài muốn ông giết đi để làm lễ tế cho Ngài. Một lần nữa Abraham đã vâng lời và một lần nữa ông được biến đổi: Isaac vẫn sống và sinh con cháu, nhờ đó Abraham thực sự có một dòng dõi.

Chúa nhật tuần trước, chúng ta thấy Đức Giêsu chịu thử thách trong sa mạc. Hôm nay chúng ta chứng kiến Ngài biến hình trên núi.

Học sinh cũng phải thường xuyên trải qua thử thách là các kỳ thi. Nhưng có như thế thì học sinh mới được chuyển cấp, càng ngày càng cao hơn, giỏi hơn...

5. Biến đổi là Quy luật

Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong nó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay tháng sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.

Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy quy luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù cũng vẫn là một bầu trời.

Hãy nhìn xuống nước. Một triết gia đã nói "Không ai tắm hai lần trong một dòng sông".

Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết, cái kia sinh ra. Sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào cũ của 7 năm trước nữa.

Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng cũng như thế.

Bởi thế trong Mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ có nghĩa là chết.

6. Từ Tabor đến Golgotha

Một Linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng rất sâu sắc như sau:

Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp "trai tài gái sắc". Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.

Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:

- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!

Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:

- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?

Tất cả nguyên trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay "người đẹp" là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay "nàng già" là trái táo ăn thừa. Nên chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.

*

Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hoá giải chứ không gây mê.

Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Môsê và một cho Elia" (Mc.9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.

Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.

Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi. Chúa chỉ mặc "tấm áo trắng như tuyết" trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp. Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.

Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng thủy chung, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.

Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruỗi trên các đường phố Palestina rao giảng chữa bệnh và làm các phép lạ.

Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thấm đẫm mồ hôi trong vườn Giêtsêmani.

Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.

Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Têrêxa thành Lisieux: "Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê". Thánh Bernadette cầu nguyện: "Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau".

*

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục sinh sẽ bừng sáng. Amen. (Thiên Phúc, "Như Thầy đã yêu")

V. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Đức Giêsu đã biến hình cho các môn đệ thấy vinh quang của Người, để củng cố đức tin cho các ông, và chuẩn bị các ông đón nhận cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện:

Trung thành với Đức Giêsu trong mọi hoàn cảnh là nguồn thách đố cho Hội thánh / chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người trong Hội thánh luôn tin tưởng bước theo đường lối Đức Giêsu / dù khi được vinh quang hay khi phải trải qua gian nan tử nạn.

Trung thành để phục vụ công lý và công ích cho xã hội là nguồn thách đố cho các nhà cầm quyền / Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người có trách nhiệm lãnh đạo trên thế giới luôn can đảm cương quyết / không nhượng bộ những gì vi phạm đến nhân phẩm và nhân quyền của người dân.

Nghèo đói, bệnh tật, thất nghiệp, chậm tiến... là những thách đố cho người Việt Nam hôm nay. Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mọi người Việt Nam biết can đảm kiên nhẫn / để đoàn kết với nhau và từng bước vượt qua mọi khó khăn.

Những khó khăn bên ngoài và bên trong mà Hội thánh ở Việt Nam đang trải qua cũng là những thách đố cho mỗi Kitô hữu Việt Nam /. Chúng ta hãy cầu xin cho các Kitô hữu Việt Nam luôn vững lòng tin cậy / và luôn tích cực phục vụ đồng bào nhất là những người nghèo khổ.

Chủ tế: Lạy Đức Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin còn non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì cũng chắc chắn được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa mai sau. Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

VI. Trong Thánh lễ

- Trước kinh Lạy Cha: Đức Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Chúa Cha rất yêu thương Ngài và vừa lòng về Ngài. Chúng ta được hạnh phúc thông chia quyền làm con của Đức Giêsu. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài dâng lên Chúa Cha những tâm tình hiếu thảo của chúng ta.

- Lúc chúc bình an: Chúng ta hãy chúc bình an cho nhau trong tâm tình mến yêu nhau thực sự; và cũng hãy nghĩ đến những người xích mích với chúng ta mà hiện không có mặt trong Thánh lễ này, với quyết tâm cũng muốn hòa giải với họ nữa.

VII. Giải tán

Chúa Cha đã yêu thương chúng ta đến nỗi ban Người Con Yêu Dấu duy nhất của Ngài là Đức Giêsu cho chúng ta và chịu chết vì chúng ta. Chúa Cha chỉ mong mỏi mỗi một điều là chúng ta vâng nghe Lời Đức Giêsu thôi. Trong tuần này, chúng ta hãy luôn tâm niệm lời Chúa Cha nói: "Đây là Con Yêu Dấu của Ta. Hãy vâng nghe lời Người".

 

10.Thử thách trong cuộc sống--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

A. DẪN NHẬP

Bài Tin Mừng Thánh lễ hôm nay thuật lại việc Đức Giêsu biến hình trên núi Tabor trước mặt ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Việc biến hình này có ý nghĩa gì? Chắc chắn nhờ việc chứng kiến vẻ vinh quang tương lai của Chúa, Ngài muốn chuẩn bị cho các ông đối diện với biến cố khổ nạn của Ngài sẽ xẩy ra sau này.

Đến lượt chúng ta, chúng ta cũng phải theo gương các môn đệ mà trèo lên núi, bất chấp khó khăn, can đảm dấn thân bước theo Đức Giêsu trong cuộc tử nạn của Ngài. Cuộc đời của chúng ta sẽ gặp nhiều khó khăn, nhiều gian nan thử thách và có hàng ngàn lý do khiến chúng ta bỡ ngỡ, bối rối trước những hoàn cảnh éo le. Chúng ta sẽ không hiểu tại sao lại có những thử thách ấy! Chúa không thương yêu chúng ta sao? Không thắc mắc, chúng ta hãy bắt chước ông Abraham hoàn toàn tin tưởng phó thác đời mình trong tay Chúa quan phòng, vâng theo thánh ý Chuá, Ngài sẽ lo liệu, và ta hãy tâm niệm rằng: “Khi Chúa đóng cửa chính thì Ngài sẽ mở những cửa sổ”. Ngài sẽ có cách giải quyết.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA

+ Bài đọc 1: St 22,1-2.9a,10-15

Theo nghiên cứu, người ta thấy dường như việc dùng trẻ con để tế lễ rất thịnh hành vào các thế kỷ thứ 8 và thứ 7 trước công nguyên. Cho nên khi nhắc nhở rằng mọi con đầu lòng đều thuộc về Thiên Chúa, lề luật liền nhấn mạnh đến việc buộc phải chuộc con đầu lòng bởi một của lễ thay thế. Câu chuyện tế lễ Isaac minh hoạ cho lề luật trên, đồng thời nhấn mạnh đến hành động đặc biệt của Abraham.

Thiên Chúa đã hứa với Abraham là ông sẽ trở thành tổ phụ của một dân lớn lao. Ông chỉ có một người con duy nhất là Isaac do bà Sara sinh ra. Thế mà Thiên Chúa đã truyền cho ông phải hiến tế người con yêu dấu của mình. Như thế làm sao có thể dung hòa được giữa việc hiến tế Isaac và lời hứa của Thiên Chúa cho ông có một dòng dõi đông đúc như sao trời cát biển?

Abraham tiến thoái lưỡng nan, không biết theo con đường nào. Tuy thế, ông đã phải trấn áp nỗi đau khổ của người cha, ông lấy nghị lực đức tin mà thưa“Xin vâng” với thánh ý Chúa. Ông đã làm một việc vượt trên cả mức độ anh hùng. Dù Abraham chưa giết con, nhưng Chúa kể ông đã dâng con cho Chúa.. Đức tin và lòng tuân phục của ông sẽ được phần thưởng liền sau đó.

+ Bài đọc 2: Rm 8,31-34

Có nhiều người còn nghi ngờ vào tình yêu của Thiên Chúa đến nỗi còn sợ sệt và tuyệt vọng. Thánh Phaolô với giọng điệu cảm kích sâu xa đã tuyên bố rằng không có gì phải thất vọng, bằng chứng là: Thiên Chúa đã không dung tha cho Con Một mình. Cuộc khổ nạn của Chúa Kitô là bằng chứng hùng hồn của tình yêu Thiên Chúa đối với loài người.

Việc Đức Giêsu bị chết trên thập giá đã khiến chúng ta không còn lý do nào phải hoài nghi và sợ sệt. Lỗi lầm lớn nhất chúng ta có thể vấp phải sẽ là hoài nghi, thiếu tin tưởng:”Nếu Thiên Chúa yểm trợ chúng ta, còn ai chống lại nổi chúng ta “Rm 8,31)?

+ Bài Tin mừng: Mc 9,2-10

Khi đi theo Đức Giêsu, các Tông đồ có cùng hoài bão của người Do thái là Đấng Cứu thế của họ sẽ là Đấng Cứu thế vinh thắng oai hùng tái lập vương quốc của Đavít và Salomon. Nhưng khác với cái nhìn trần tục của các ông, trong kế hoạch của Thiên Chúa, Đấng Thiên sai sẽ là một “tôi tớ đau khổ và khiêm tốn đã được các tiên tri phác hoạ”.

Để củng cố niềm tin cho các môn đệ trước cuộc thương khó đầy xỉ nhục của Ngài, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ lên núi Tabor, biến hình trước mặt các ông để các ông thấy khuôn mặt sáng ngời của Ngài hầu củng cố niềm tin cho các ông truớc những ngày đen tối sắp tới.

Theo gương các tông đồ, chúng ta cũng phải có một niềm tin như vậy trước gian nan thử thách trong cuộc sống của một Kitô hữu. Hẳn nhiên, cũng như các tông đồ, Chúa cũng dành cho chúng ta những giờ phút sáng tươi hoan hỉ nội tâm để giúp chúng ta đi tới tận cùng điểm dốc Calvê.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Từ Tabor đến Golgotha.

I. ĐỨC GIÊSU BIẾN HÌNH.

1. Diễn tiến việc biến hình.

Thánh Marcô cho biết: sáu ngày sau khi thánh Phêrô truyên xưng Đức Giêsu tại Cêsarêa của vua Philippe, Đức Giêsu đã đưa ba môn đệ yêu qúi là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao. Thánh sử không cho biết là núi nào: núi Tabor hay Hermon. Các nhà chú giải Thánh Kinh ngày nay nghiêng về núi Hermon, song cổ truyền cho biết chính Tabor đã được hồng ân ấy.

Vì đi đường mệt nhọc các ông lăn ra ngủ và khi thức giấc, các ông nhìn thấy cảnh lạ lùng: Chúa biến hình, “áo Ngài trắng như tuyết, không thể nào giặt được như vậy”. Có ông Maisen và Elia đàm đạo với Ngài để khuyến khích Ngài đi vào cuộc tử nạn và có tiếng phát ra trong đám mây:”Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài”. Sau đó, Đức Giêsu trở lại tình trạng bình thường. Việc biến hình này có ảnh hưởng sâu đậm đến ba ông.

2. Ý nghĩa việc Chúa biến hình

Đức Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem, và quyết định ấy có nghĩa là chấp nhận thập giá. Ngài cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước. Trên đỉnh núi Ngài đã chấp nhận đôi về quyết định của Ngài.

a) Sự hiện diện của Elia và Maisen

Maisen là đại diện cho pháp luật và Elia là tiên tri đầu tiên và vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Đức Giêsu, có nghĩa là nhà tuyên bố pháp luật vĩ đại nhất và nhà tiên tri lỗi lạc nhất đã nói với Đức Giêsu rằng “Xin cứ tiến lên”. Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Đức Giêsu sự hoàn thành của tất cả những gì họ từng mơ ước trong quá khứ. Nó có nghĩa là họ thấy nơi Ngài tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tràn đầy. Dường như chính lúc đó Đức Giêsu được bảo đảm rằng Ngài đang đi đúng hướng vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.

b) Biến hình giúp môn đệ vững tin

Khi nghe Đức Giêsu báo cho họ biết là Ngài sẽ lên Giêrusalem để chịu chết, họ bàng hoàng, bối rối lo sợ vì bao điều mơ tưởng của họ sẽ bị tiêu tan, tương lai của họ trở nên bấp bênh, đen tối. Tuy thế, những gì đã xem thấy trên núi biến hình cho họ có cơ hội bám chặt lấy ngay khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe tiếng của Thiên Chúa xác nhận Đức Giêsu là Con Ngài.

Ngoài ra, việc Chúa biến hình trên núi khiến họ trở thành các chứng nhân cho sự vinh hiển của Chúa Cứu thế theo một ý nghĩa đặc biệt. Xác tín rằng mình là chứng nhân trước sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, sau này khi có dịp, họ đã có sẵn câu chuyện đang giấu kín trong lòng, sẽ kể lại cho mọi người nghe.

c) Lời mời gọi biến đổi

Hãy nhìn chung quanh, chúng ta sẽ thấy mọi sự luôn biến đổi. Thí dụ nhìn một cái cây. Tuy nó vẫn là cái cây đó nhưng bên trong đó có biết bao biến đổi: có những chiếc lá tháng trước nay không còn; nhiều chiếc lá mới mọc ra; và nhiều chiếc lá hiện nay sau sẽ không còn. Nếu cái cây vẫn y như thế từ tháng này sang tháng khác, từ năm này qua năm khác thì đó không còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ.

Hãy nhìn lên trời, chúng ta cũng thấy qui luật biến đổi ấy: bầu trời hôm qua với bầu trời hôm nay đâu có hoàn toàn giống nhau mặc dù vẫn là một bầu trời.

Hãy nhìn xuống nước. Triết gia Héraclite đã nói:”Không ai tắm hai lần trong một dòng sông”.

Và nhìn vào bản thân: các nhà khoa học nói rằng các tế bào luôn thay đổi, cái này chết cái kia sinh ra, sau 7 năm thì không còn tế bào nào là tế bào của 7 năm trước nữa.

Không biến đổi cũng đồng nghĩa với chết. Đối với cuộc sống thân xác thì như thế. Đối với cuộc sống thiêng liêng thì cũng như vậy. Bởi thế trong mùa Chay chúng ta cần biến đổi. Cứ sống y như cũ là chết (Carôlô, Sợi chỉ dỏ, năm B, tr 134-135).

Việc Chúa biến hình nhắc cho các môn đệ và chúng ta phải thay hình đổi dạng linh hồn mình. Thánh Phaolô cũng nhắc nhở chúng ta phải cởi bỏ con người cũ tội lỗi để mặc lấy con người mới tốt lành thánh thiện hơn:”Hãy lột bỏ con người cũ mặc lấy con người mới. Hãy để Thần Khí Thiên Chúa canh tân tận tâm linh anh em””(Ep 4,22).

Thánh Tông đồ còn khuyên nhủ chúng ta hãy làm một cuộc canh tân toàn diện để cho con người nội tâm của ta biết nghe theo luật của Chúa mà bỏ đường lối của xác thịt. Vì thế, trong thư gửi tín hữu Êphêsô Ngài đã viết:”Anh em hãy cởi bỏ kiểu sống xa xưa, con người cũ đã ra hư hốt buông theo những đam mê lầm lạc. Hãy để Thần Khí canh tân đổi mới thấu tận trí khôn. Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật”(Ep 4,22-24).

Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta phải đổi mới toàn diện, phải đổi từ con người cũ sang hẳn con người mới tốt lành. Đổi mới toàn diện là phải đổi mới tận căn chứ không phải chỉ đổi mới nửa vời hoặc đổi mới hời hợt một số cái, hoặc chỉ đổi mới cái bên ngoài để rồi trở thành con người mà người đời gọi một cách mỉa mai: ”Nửa người ngửa ngợm nửa đười ươi”, đúng như người ta nói:

Thay quần thay áo thay hơi,

Thay dáng thay dấp mà người chẳng thay.

(Ca dao)

Truyện: Cách làm cho trắng da.

Người ta thuật rằng cả một khu đất kia chỉ có một gia đình người da đen ở. Gia đình đó gồm có một bà vợ, một người chồng và một đứa con trai 9 tuổi. Cậu bé đi học, nhưng giữa bọn trẻ da trắng, riêng mình đen thủi đen thui, nên lắm phen bị chê cười, chế nhạo. Cậu luôn luôn bị chọc ghẹo nên khó chịu, giống như một tấm lòng non nớt bị một vết thương sâu. Sau hết, cậu tự hỏi mình có thể thay đổi nước da chăng, rồi nhất định làm theo ý nghĩ đó.

Bữa nọ, thầy giáo thấy cậu vắng mặt, bèn hỏi đám học trò về cậu. Một trò thưa rằng thấy cậu đi đàng sau trường, giữa khu rừng nhỏ có rạch chảy qua. Thầy giáo ra công tìm kiếm và thấy cậu ở sát bờ rạch, đang dùng cát ướt kỳ cọ hai cánh tay đen. Thỉnh thoảng cậu dừng tay, rửa cát dính vào da, rồi nhìn xem mầu da mất chưa. Nhưng! Màu đen quá sậm, cậu mất công. Vài phút sau, thầy giáo gọi cậu:

- Này em làm gì đấy?

Cậu giật mình thưa:

- Con cố sức trừ bỏ màu da đen để nên người da trắng, song không sao được..

(Ms Lê văn Thái, Những tia sáng, tập 2, tr 94-95)

II. BIẾN ĐỔI VÀ THỬ THÁCH

1. Thử thách của tổ phụ Abraham

Bài đọc I hôm nay thuật lại việc Abraham sát tế Isaác con mình. Việc này cho chúng ta thấy cá tính và đức tin của ông. Lệnh truyền sát tế Isaác, người con duy nhất sinh ra trong tuổi già, thì vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không còn người con trai này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống Isaác được dành lại.

2. Thử thách của chúng ta

Đường lối Thiên Chúa thật lạ lùng... nhiều khi đường lối Chúa lại chẳng xem ra đi ngược với mục đích đang tìm kiếm sao? Câu chuyện về hy tế của Abraham khá làm sáng tỏ những phương thức của Thiên Chúa. Quả thật, tất cả chỉ là thử thách trong cuộc đời. Nhưng một khi chân trời mây mù bưng bít, không trông đâu được sự giúp đỡ của loài người, mọi sự dường như mất hết, chúng ta không còn cân nhắc suy tính được nữa, và thất vọng tự hỏi:”Tại sao Thiên Chúa xử như vậy”?

Nhưng chúng ta phải hiểu rằng Thiên Chuá luôn yêu thương chúng ta, Ngài đã phó nộp Con Một Ngài trên cây thánh giá vì phần rỗi chúng ta. Như vậy, khi Ngài để cho chúng ta nhờ đau khổ và thử thách kết hợp với sự thương khó của Chúa Kitô, chúng ta chắc chắn rằng, nhờ đó, Ngài cũng muốn liên kết chúng ta vào sự Phục sinh và vinh quang của Chúa Kitô. Do đó, thử thách cũng có ý nghĩa tích cực vủa nó. Không lạ gì khi thấy người ta nói: Có cứng mới đứng đầu gió (Tục ngữ)

Chính những đau khổ và gian nan thử thách sẽ làm cho chúng ta thêm giá trị trước mặt Chúa, nó thanh luyện chúng ta, nó làm cho chúng ta thể hiện lòng trung thành đối với Chúa. Lúc đó, đức tin của chúng ta mới có giá trị sau khi đã được thanh luyện như vàng ra khỏi quặng:

Có gió lung, mới biết tùng bá cứng,

Có lửa hừng, mới biết thức vàng cao.

(Tục ngữ)

Thánh Giacôbê Tông đồ nói về vấn đề này:”Phúc cho ai bị thử thách mà vẫn trung thành, bởi vì khi thành công trong cơn thử thách như thế, người đó sẽ được Thiên Chúa ân thưởng bằng sự sống mà Thiên Chúa đã hứa cho những ai yêu mến Ngài”(Gc 1,12).

Trong gian nan thử thách, hãy giữ vững niềm hy vọng và tin tưởng phó thác. Nhưng làm sao giữ được niềm hy vọng tâm hồn? Hãy noi gương Chúa Kitô! Tất cả cuộc đời Ngài chỉ là một chuỗi phó thác trong tay Chúa Cha. Trong lúc hấp hối Ngài than thở:”Lạy Cha, xin đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Sự tín thác mến yêu này là nguồn ơn cứu độ cho hết mọi người và là nguyên nhân của Phục sinh khải hoàn. Chính trong việc chiêm niệm về Chúa Kitô tín thác cho Tình Yêu mà chúng ta múc lấy nghị lực để nói như Ngài:”Lạy Cha, đừng theo ý con, một theo ý Cha”.

3. Thử thách và đức tin

a) Đức tin cần được thử thách

Trong những lúc bị thử thách, chúng ta không biết bám víu vào đâu vì những người chung quanh đều bất lực không thể giúp chúng ta. Lúc đó, chúng ta chỉ còn biết dựa vào đức tin để phó thác cho Chúa, xin Ngài đến cứu giúp. Đức tin cũng cần phải được thử thách thì mới có gia trị. Nếu ở trên núi Tabor, ông Phêrô thưa với Chúa:”Lạy Thầy, chúng con ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Elia và một cho Maisen”(Mc 9,5). Các ông muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor, ngủ yên trong hào quang rực rỡ, bỏ lại dưới núi bạn đồng môn, muốn hưởng thụ đầy đủ ánh hào quang của Chúa, thì các ông sẽ nói thế nào ở vườn Cây Dầu và ở đồi Golgotha?

Người đời cũng cảm nghiệm thấy giá trị và ích lợi của thử thách. Chính thử thách làm cho con người thêm giá trị. Con người chỉ được đánh giá đúng qua thử thách như thi sĩ Nguyễn công Trứ nói lại câu nói của cổ nhân:

Văn vô sơn thủy vô kỳ khí

Nhân bất phong sương vị lão tài.

Trong đời sống thiêng liêng, chúng ta phải có đức tin vững mạnh. Tuy thế đức tin không phải lúc nào cũng ở đỉnh cao, đức tin có lúc lên cao, có lúc xuống thấp theo nhịp điệu vui buồn, sướng khổ, may mắn hay trắc trở.

Khi lên tinh thần, đức tin của chúng ta cũng vững mạnh và sán lạn như đức tin của các tông đồ trong bài Tin mừng hôm nay. Khi đức tin ở đỉnh cao, chúng ta thấy gần gũi Đức Giêsu đến độ chúng ta tưởng rằng có thể đụng rờ được Ngài. Chúng ta cảm thấy gần gũi Thiên Chúa Cha đến độ dường như đôi tay của Ngài đang bao bọc chung quanh ta, và Thánh Thần dường như đang nói với chúng ta. Trái lại, khi xuống điểm thấp, đức tin của chúng ta yếu ớt như muốn mất hẳn, giống như đức tin của các môn đệ ở vười Cây Dầu (Mark Link).

Áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày, đôi lúc chúng ta cảm thấy đức tin mình ở những điểm cao, lúc đo chúng ta yêu thương hết mọi người. Chúng ta thắm thiết với bạn bè, và chúng ta tha thứ cho tất cả mọi thù địch. Vào những ngày như thế, chúng ta không thể hiểu được chúng ta đã từng cho rằng cuộc đời là khó khăn. Nhưng khi ở những điểm thấp, không có gì là trôi chảy cả: “Chúng ta cảm thấy bị đè nén và đáng thương, bị hiểu lầm, chán nản, bị mất mát thiệt thòi. Đó là lúc chúng ta thấy mình có nhiều kẻ thù hơn là thực tế, và thấy người bạn nào của mình cũng đều có lỗi với mình cả. Vào những ngày như vậy, chúng ta khó mà biết được tại sao có những lúc chúng ta lại nghĩ rằng cuộc đời này là dễ dàng vui tươi” (Anthony Padovano).

b) Tin tưởng và phó thác

Những lúc gặp đau khổ hoặc gian nan thử thách chúng ta chỉ còn biết tin tưởng và phó thác cho Chúa. Ngài có thể làm được tất cả trong những cái loài người cho là không có thể, để quyền năng của Chúa được tỏ hiện nơi ta, như thánh Phaolô đã nói:”Khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”(2Cr 12,10).

Có câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa:”Khi Thiên Chúa đóng của chính thì Ngài mở ra cửa sổ”. Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó, chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa Ngài sẽ mở ra cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.

Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới.

Truyện: Niềm đau tượng hình.

Du khách đến Roma thường đi thăm ngôi thánh đường cổ tên là Dominus sub aquis, vì phía trên bàn thờ, có một tượng thánh giá rất đặc biệt: bất cứ ai đến qùi trước tượng thánh giá và cầu nguyện với tất cả lòng thành đều được sức mạnh và an ủi thâm sâu.

Người ta kể rằng tác giả của thánh giá bằng tượng cẩm thạch này đã mất nhiều năm mới hoàn thành được tác phẩm. Hơn hai lần, mỗi khi treo bức tượng lên để ngắm nhìn, ông lại cho kéo xuống và đập bỏ, vì ông cho rằng tác phẩm vẫn chưa diễn đạt được điều ông muốn.

Khi ông bắt tay vào công trình lần thứ ba thì cũng là lúc ông gặp nhiều thử thách nhất. Nhiều người ganh tị nên tìm cách hạ uy tín ông. Vợ con ông qua đời trong những hoàn cảnh thật đau thương.

Ai cũng tưởng rằng cơn thử thách đã khiến ông bỏ cuộc. Trái lại, ông càng miệt mài chú tâm vào công trình. Người nghệ sĩ dồn tất cả niềm đau của mình lên khuôn mặt của Đức Kitô. Bức tượng của Chúa Giêsu trên thập giá không còn là một phiến đá lạnh lùng, xa lạ, mà trở thành niềm đau đậm nét của một tâm hồn. Bức tượng đã trở nên sống động và có sức thu hút do chính tâm tình mà người nghệ sĩ muốn tháp nhập vào.

(Thiên Phúc, Chuyện hay đông tây, tập 1, tr 159)

Khi gặp những giây phút đen tối, chúng ta hãy bắt chước gương của Abraham trong bài đọc I hôm nay. Niềm tin của Abraham yếu ớt và dường như phai mờ khi ông nghĩ rằng Thiên Chúa đòi hỏi ông phải hy tế con trai của ông là Isaác. Điều đó làm cho ông khổ tâm và bối rối. Nhưng Abraham vẫn tin cậy vào Chúa, và Thiên Chúa không để ông thất vọng. Thiên Chúa đã chúc phúc và ban ơn cho ông hơn cả những ước mơ của ông.

Thiên Chúa cũng thử thách niềm tin của chúng ta như thế. Khi bị thử thách, tâm hồn chúng ta cũng đau khổ và bối rối. Nhưng nếu chúng ta tin cậy vào Thiên Chúa giống như Abraham, thì Thiên Chúa sẽ không để chúng ta thất vọng. Và cuối cùng, Thiên Chúa cũng sẽ chúc phúc và ban ân huệ cho ta nhiều hơn những gì chúng ta mơ ước.

Đức Kitô hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn là một: Ngài là Đức Giêsu sáng láng trên núi Tabor, cũng là Đức Giêsu mướt máu trong vườn Cây Dầu, và cũng là Đức Kitô đau khổ trên thập giá ở đồi Golgotha. Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường Tình Yêu. Theo thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu thì: ”Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Đức Giêsu ta trèo lên đồi Calvê”. Hiểu được đau khổ là con đường tình yêu, thì thánh nữ Bernadette đã cầu nguyện:”Con không xin cho mình khỏi đau khổ, nhưng chỉ xin Ngài đừng bỏ con trong đau khổ”.

 

11.Đức tin trong đau khổ--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP

Đức tin như một con mắt thần hướng chúng ta đến một cách sống bình an, phó thác, nhìn đau khổ và cái chết như những phương tiện dẫn đến vinh quang. Đó là chủ đề mà lời Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta.

Chúng ta hãy lấy một thí dụ như trường hợp Áp-ra-ham trong bài đọc một. Khi gần trăm tuổi, ông được Thiên Chúa hiện ra và nói sẽ ban cho ông một người con trai. Đó là người con duy nhất của Áp-ra-ham với vợ chính là Sa-ra, lúc ấy cũng gần 90 tuổi. Điều này đã là một sự lạ lùng đối với Áp-ra-ham và Sa-ra, nhưng Thiên Chúa đã thực hiện. Sau đó, Thiên Chúa muốn thử đức tin của Áp-ra-ham, nên phán bảo ông đem đứa con duy nhất ấy lên núi làm lễ toàn thiêu. Tất nhiên Áp-ra-ham rất đau lòng, nhưng nhờ đặt trọn niềm tin vào sự chỉ dạy của Thiên Chúa, ông đã vâng lời và cầm dao giết con. Cuối cùng, Thiên Chúa đã nhận "lòng tôn kính và tin yêu" của Áp-ra-ham, vì đã không tiếc một thứ gì nếu Thiên Chúa muốn, nên miễn cho ông khỏi giết con và chúc phúc cho ông. Chúng ta thấy đức tin đã đem lại cho con người một sức sống mãnh liệt biết bao.

Hơn thế, đức tin còn giúp con người vượt thắng mọi đau khổ thể xác và tinh thần, mọi bất lực theo khả năng tự nhiên của con người và khoa học. Trở lại câu chuyện của Áp-ra-ham, chúng ta thấy chính đức tin đã trấn an mối thương tâm của người cha phải cầm dao giết con mình, làm lễ tế cho Đấng mà ông hết lòng tin tưởng.

Như vậy, đức tin giúp con người sẵn sàng đón nhận đau khổ, vững lòng khi gặp đau khổ và chiến thắng đau khổ để đạt tới một mục đích cao đẹp hơn. Cụ thể, trong bài Tin Mừng, khi thấy các môn đệ quá sợ đau khổ, không muốn chấp nhận cuộc khổ nạn của Chúa, nên Chúa đã hé mở vinh quang của Nước Thiên Chúa để hun đúc cho các ông một niềm tin, một hy vọng để sống. Một đức tin mà Chúa đòi hỏi các ông phải có nếu muốn dự phần vinh quang với Ngài. Như thế, có thể nói, đức tin là nhân và vinh quang là quả, giúp chúng ta nhận chân giá trị mọi đau khổ trên trần gian này, để từ đó chúng ta can đảm, sáng suốt đón nhận và giải quyết mọi thử thách đến trong đời sống hàng ngày.

Có một câu nói diễn đạt kinh nghiệm sống đạo, sống niềm tin trong đau khổ thật sâu xa, đó là "Khi Thiên Chúa đóng cửa chính thì Ngài mở ra cửa sổ". Thiên Chúa đóng cửa chính là khi chúng ta gặp thử thách, đau khổ, không còn có thể nhìn thấy ánh sáng, sự hiện diện đầy quan phòng của Thiên Chúa. Đó là khi Thiên Chúa xem ra như bỏ rơi, mặc chúng ta đương đầu với thử thách, khó khăn. Lúc đó chúng ta cần nhớ rằng: Thiên Chúa, Ngài sẽ mở cửa sổ, mở ra một lối thoát, một giải đáp, một hướng đi mới cho cuộc đời chúng ta.

Chẳng hạn, Thiên Chúa đóng kín cửa chính trong cuộc đời chúng ta, khi chúng ta trải qua cơn bệnh nặng, thì Ngài lại mở ra cửa sổ, cho chúng ta gặp được bác sĩ tận tình tài giỏi để chữa bệnh. Thiên Chúa đóng kín cửa chính khi chúng ta bị mất mát, thua thiệt, nhưng Ngài mở ra cửa sổ khi Ngài cho chúng ta gặp được những tâm hồn quảng đại sẵn sàng giúp chúng ta bắt đầu lại cuộc đời. Thiên Chúa đóng cửa chính khi chúng ta bất ngờ phải mang tang người thân, thì Ngài lại mở ra cửa sổ là trong gia đình được hòa thuận lại với nhau...

Thiên Chúa đóng cửa chính nhiều lần trong cuộc đời mỗi người, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ để hướng chúng ta đến một điều tốt đẹp hơn mà trước đó chúng ta không ngờ. Những kinh nghiệm đau thương, tiêu cực mà chúng ta gặp phải trong cuộc đời, đôi khi đó là tiếng nói của Thiên Chúa để mời gọi chúng ta bước ra khỏi một hoàn cảnh không tốt đẹp, để chuẩn bị chúng ta sẵn sàng hơn đón nhận những hồng ân mới. Nhìn lại cuộc sống, có thể mỗi người chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút Thiên Chúa như đóng kín cửa chính, nhưng đồng thời Ngài cũng mở ra những cửa sổ, những viễn tượng mới, tốt đẹp hơn cho cuộc đời chúng ta. Vì thế, khi gặp thử thách, đau khổ, chúng ta đừng bao giờ chán nản, thất vọng, nhưng hãy tin tưởng và cầu nguyện, càng phải cầu nguyện nhiều hơn bình thường, để xin thêm đức tin và kiên nhẫn. Tin tưởng và kiên nhẫn, vì khi Thiên Chúa đóng kín cửa chính, Ngài sẽ mở ra cửa sổ.

Chúng ta vẫn thường nói: "Chạy trời không khỏi nắng", nghĩa là ở đâu cuộc đời cũng có những khổ luỵ của nó, và ngày nào cũng có nỗi khổ của ngày ấy. Như vậy, đau khổ tự nó là một điều xấu, không ai ham, không ai muốn. Vậy đau khổ có giá trị không? Tự nó chẳng có giá trị gì cả, nhưng cái làm cho đau khổ có giá trị, có công phúc chính là thái độ của người đau khổ. Vì thế, những khi gặp đau khổ, chúng ta đừng bao giờ phàn nàn, kêu trách Chúa, cũng đừng bao giờ rủa mình, than thân trách phận, chán nản, buông xuôi, nhưng hãy tự cố gắng và hãy giúp đỡ nhau, nhất là hãy tin tưởng, cậy trông và gia tăng cầu nguyện xin Chúa trợ giúp, vì Chúa đã nói: "Hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, hãy đến với Tôi, Tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho".

 

12.Hãy nghe lời Người--Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Sau khi cho các môn đệ biết về việc Người sắp lên Giê-ru-sa-lem để chịu chết và ngày thứ ba sẽ sống lại, Đức Giê-su muốn củng cố lòng tin của các ông đang bị giao động, bằng cách đưa 3 môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an lên núi cao. Tại đây, Người biến hình trước mặt các ông, rồi có lời Chúa Cha xác nhận Người là Con yêu dấu. Có Mô-sê và Ê-li-a hiện ra đàm đạo về cuộc khổ nạn Người sắp trải qua. Như vậy, việc biến hình cho thấy cuộc khổ nạn của Đức Giê-su là do thánh ý của Chúa Cha và cũng nhằm khích lệ tinh thần của các môn đệ, giúp các ông kiên vững lòng tin khi phải chứng kiến cuộc khổ nạn của Người sau này.

CHÚ THÍCH:

- C 2-4: + Các ông Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an: Đây là ba môn đệ được Chúa ưu ái. Người cho các ông nhìn thấy vinh quang Thiên tính của Người, như chuẩn bị tinh thần trước để các ông khỏi bị vấp ngã khi phải chứng kiến cảnh Người phải lo buồn sầu não trong vườn Cây Dầu trước giờ chịu khổ nạn (x. Mc 14,33). + Lên núi cao: Chưa xác định là núi nào trong hai ngọn núi là Tha-bo và Héc-mon. Núi cao thường được coi là nơi Đức Chúa ngự. Lên núi cao là để gặp gỡ Đức Chúa, như Mô-sê gặp Đức Chúa trên núi Khô-rếp trong vùng Si-nai để đón nhận mười điều răn được khắc trên hai tấm bia đá (x. Xh 24,12-18), còn Ê-li-a là vị ngôn sứ thời kỳ Các Vua, ông phải chạy trốn cuộc truy bắt của hoàng hậu I-de-ven bằng cách trớn lên “núi Thiên Chúa” (x. 1V 19,2.8). Trong Tin mừng hôm nay, ba môn đệ đã được Đức Giê-su cho leo lên núi cao để được Người mặc khải cho biết về Thiên tính của Người. + Người biến đổi hình dạng: Đức Giê-su tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của phàm nhân, để mang một hình dạng khác của Con Thiên Chúa. Y phục rực rỡ trắng tinh chiếu tỏa vinh quang thiên giới. Trong đoạn này, Mác-cô cho thấy: Đức Giê-su, Đấng Mê-si-a đang ẩn mình, người Tôi Trung đau khổ của Thiên Chúa, giờ đây đã tỏ bày ra trước kỳ hạn về vinh quang phục sinh sau này. + Ông Ê-li-a và ông Mô-sê: Hai vị này đều đã từng leo núi để tiếp nhận mặc khải của Đức Chúa. Hai vị đều là nhân vật của thời cánh chung. Cả hai đều bước vào thế giới bên kia cách bí nhiệm: Mô-sê thì bị chết ở miền đất Mô-áp trước khi dân vào chiếm Hứa Địa, nhưng không ai biết được mộ phần ông ở đâu (x. Đnl 34,6), còn Ê-li-a thì leo lên chiếc xe ngựa rực lửa bay về trời trong cơn gió lốc (x. 2V 2,11). Ở đoạn này, sự hiện diện của Mô-sê tượng trưng cho Lề Luật, và của Ê-li-a tượng trưng cho các Ngôn sứ. Điều này chứng minh có sự liên tục giữa Cựu Ước với Tân Ước. Nó cho thấy thời kỳ Cánh Chung và Cứu Độ đã khởi đầu. + Hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su: Mác-cô không nói đến nội dung cuộc đàm đạo, đang khi Lu-ca lại cho biết: “Và nói về cuộc xuất hành” (nghĩa là cuộc ra đi: chết, sống lại và lên trời của Đức Giê-su) - mà Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (x Lc 9,29).

- C 5-8: + Xin dựng ba cái lều: Lúc đó đang trong thời gian dân Ít-ra-en mừng Lễ Lều kéo dài 7 ngày. Trong các ngày này, họ phải đến ở tạm trong các lều trại làm bằng cành cây, để ôn lại công ơn Đức Chúa đã cứu Ít-ra-en khỏi cảnh nô lệ cho người Ai Cập và cha ông họ đã từng ở trong các lều trại nơi sa mạc (x. Lv 23,34.42-43). Ở đây, Phê-rô xin dựng 3 lều trại nhằm kéo dài cuộc thần hiện mà ông đang chứng kiến. + Có một đám mây bao phủ các ông: Đám mây diễn tả sự hiện diện của Đức Chúa, giống như trong thời kỳ xuất hành của dân Do Thái xưa (x. Xh 40,34-38) + Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người: Lời Chúa Cha công nhận Đức Giê-su là “Con” (x. Tv 2,7), giống như khi Người chịu phép Rửa tại sông Gio-đan (x. Mc 1,11). Đức Giê-su cũng được giới thiệu như một Ngôn Sứ mà mọi người phải nghe theo lời Người chỉ dạy (x. Mt 16,14; Cv 3,22-23).

- C 9-10: + Đức Giê-su truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy: Trong Tin Mừng Mác-cô, sau khi làm phép lạ chữa bệnh hay trừ quỉ, Đức Giê-su thường đòi người vừa được chữa lành phải giữ kín sự việc xảy ra, không được tiết lộ cho người khác biết là Đức Giê-su đã làm phép lạ ấy. Đòi hỏi giữ kín được gọi là “Bí Mật của Đấng Thiên Sai”. Sở dĩ Đức Giê-su không muốn cho người ta biết Người là Đấng Thiên Sai vì cần có thời gian để Người giảng dạy dân Do Thái hiểu đúng về sứ mệnh Thiên Sai theo Ý Thiên Chúa của Người. Nếu nói sớm sự thật này sẽ làm cho dân Do thái đang bị tinh thần ái quốc cực đoan tác động, đang mong đợi một Ông Vua Thiên Sai theo nghĩa trần tục, sẽ hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Đức Giê-su và sẽ gây bạo loạn, gây cớ cho quân Rô-ma đem quân đến tiêu diệt dân Do Thái nhỏ bé, sẽ bất lợi cho sứ mệnh Thiên Sai về mặt thiêng liêng tinh thần của Đức Giê-su. Cuộc biến hình biểu lộ Thiên tính của Đức Giê-su sẽ được các môn đệ chính thức công bố sau biến cố Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, nghĩa là sau khi Người từ cõi chết sống lại. + Các ông tuân lệnh đó: Ba môn đệ đã vâng lời Đức Giê-su. Các ông không nói gì về cuộc biến hình này, mãi đến khi Người trải qua mầu nhiệm chết và sống lại. Dù các ông không hiểu tại sao Người lại cấm như vậy. + Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Cũng như Phê-rô đã can trách Đức Giê-su đừng chấp nhận con đường cứu thế qua đau khổ thập giá theo ý Chúa Cha, còn các môn đệ khác đều không hiểu hay không muốn hiểu về con đường “Từ trong cõi chết sống lại” hoặc “Qua đau khổ vào vinh quang” đã được Đức Giê-su công bố trước cuộc biến hình (x Mc 8,31).

CÂU HỎI: 1) Tại sao Đức Giê-su lại hiển dung biến hình trước mặt ba môn đệ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an? 2) Chúa biến hình trên núi cao là núi gì? 3) Đức Giê-su hiển dung để mặc khải Người là ai? 4) Nội dung cuộc đàm đạo với Mô-sê và Ê-li-a là gì và nhắm mục đích gì? 5) Tại sao ông Phê-rô lại xin Thầy cho dựng 3 lều? 6) Đám mây diễn tả về điều gì? 7) Qua lời phán từ trong đám mây, Thiên Chúa muốn mặc khải Đức Giê-su là ai với 3 môn đệ của Người? 8) Bí mật Đấng Thiên Sai nghĩa là gì? Tại sao Đức Giê-su cấm ba môn đệ không được nói ra điều các ông vừa được chứng kiến? 9) Tại sao các môn đệ lại thắc mắc về ý nghĩa của câu “Từ trong cõi chết sống lại” do Đức Giê-su đã nói sau khi biến hình?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Đức Giê-su đã biến đổi hình dạng trước mắt các ông” (Mc 9,2).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Thiên thần cũng có thể biến thành ác quỉ:

Một hôm, một họa sĩ người Ý khá nổi tiếng đang đi bách bộ để tìm hứng sáng tác. Khi đến một khúc cua, ông chợt thấy một bé trai có khuôn mặt hồn nhiên dễ mến. Tự nhiên ông muốn vẽ lại vẻ mặt thiên thần của em. Ông nói với cậu bé rằng: “Này em, em có muốn tôi vẽ chân dung của em không?” Cậu bé gật đầu đồng ý và theo họa sĩ về xưởng vẽ của ông. Mấy giờ sau, cậu ta rất ngạc nhiên và vui mừng nhìn thấy khuôn mặt của em rạng rỡ trong bức tranh. Họa sĩ đặt tên cho bức tranh này là: “Tuổi thơ trong trắng”. Ông treo nó nơi phòng khách, và mỗi khi gặp điều gì bực mình, ông lại nhìn lên bức tranh kia và lập tức lấy lại bình an. Một số người muốn mua bức tranh với giá cao, nhưng dù gặp khó khăn về tài chính mà họa sĩ vẫn không bán.

Hai mươi năm sau. Một hôm họa sĩ cũng đang đi dạo để tìm hứng vẽ tranh. Khi tới gần khu nhà ổ chuột, tình cờ ông nhìn thấy một gã ăn xin, áo quần lôi thôi rách nát và có khuôn mặt chai lì gian ác, trông như một tên quỉ sứ. Ông suy nghĩ: “Sao trên đời này lại có người mang bộ mặt gian ác xấu xa đến thế nhỉ? Phải chi ta vẽ được gương mặt quỉ sứ này để so sánh với gương mặt thiên thần trong bức “Tuổi thơ trong trắng” trong phòng khách nhà ta thì hay biết mấy!”

Bấy giờ gã ăn mày đã chìa tay xin bố thí. Họa sĩ yêu cầu gã làm người mẫu cho ông vẽ và hứa sẽ cho gã một số tiền khá. Gã ăn xin lập tức đồng ý. Khi bức tranh đã vẽ xong, gã nhận tiền và ra về. Nhưng khi đi ngang phòng khách, gã trông thấy bức tranh “Tuổi thơ trong trắng” đang treo trên tường, gã liền dừng lại nhìn một lúc, rồi hai dòng lệ từ từ lăn trên gò má. Sau đó gã chỉ lên bức tranh và nói với họa sĩ rằng: “Thưa ông, đây chính là khuôn mặt của tôi hồi còn bé mà tôi nhớ có lần đã ngồi làm mẫu cho ông vẽ. Hôm nay ông lại vẽ khuôn mặt của tôi sau khi nó đã biến dạng!” Rồi gã thuật lại cuộc đời bất hạnh của gã như sau:

“Tôi vốn là một đứa con trai, lại là con một, nên được cha mẹ rất mực cưng chiều. Nhưng cũng vì thế mà tôi sinh ra hư hỏng. Khi cha mẹ tôi lần lượt qua đời, tôi đã bán tất cả gia sản và lao mình vào các thú vui trác táng... Chỉ sau một thời gian ngắn, tôi đã phung phí hết tiền bạc của cha mẹ và phải nhập bọn với lũ bạn đi trộm cắp. Rồi tôi bị bắt và thụ án mười năm. Trong thời gian ở tù, tôi đã trải qua rất nhiều gian khổ tủi nhục: Bị đánh đập, ứng hiếp và bị bóc lột tàn nhẫn. Nhưng rồi tôi cũng quen dần với cuộc sống đó. Cuối cùng chính tôi lại trở thành kẻ bóc lột hành hạ các tù nhân mới nhập trại và các bạn tù khác nhỏ yếu hơn tôi. Bây giờ sau khi vừa mãn hạn tù, tôi đang trong tình trạng không một đồng xu dính túi, lại còn mang thêm bệnh lao phổi sang thời kỳ thứ ba. Tôi chẳng biết làm gì hơn là phải đi ăn xin như ông thấy đó”.

Trước tâm sự của một người đã phung phí trót cả tuổi thanh xuân của mình, họa sĩ rất xúc động. Nhưng ông cũng chỉ biết khuyên bảo gã ăn xin hãy cố ăn ở lương thiện. Ít lâu sau, ông được tin gã đã nằm chết cô đơn tại một góc phố. Họa sĩ đã treo bức tranh “Ác quỉ” mà ông mới vẽ bên cạnh bức “Tuổi thơ trong trắng”. Ông cũng thường giải thích cho bạn bè và những ai thắc mắc về hai bức tranh như sau: “Hai khuôn mặt trong hai bức tranh này thực ra chỉ là một con người. Và sự khác biệt giữa hai khuôn mặt thiên thần và ác quỉ chỉ cách nhau 20 năm phóng đãng mà thôi!”.

2) Vâng lời đáng quý hơn mọi báu vật:

Một hôm nhà vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng xem một viên ngọc trai vừa to vừa rất đẹp và hỏi rằng:

- Khanh hãy lượng định xem viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

- Tâu Bệ Hạ, nó đáng giá hơn số lượng vàng khối mà 4 con lừa có thể chuyên chở.

Vua ra lệnh cho quan Tể tướng:

- Nhà ngươi hãy đập bể viên ngọc này đi!

Quan Tể Tướng liền nói:

- Tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể đập bể một báu vật rất quý giá như thế được ạ!

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua lại đưa viên ngọc quý cho quan Thị Vệ trong cung và cũng hỏi:

- Theo khanh, viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

- Bằng cả một tỉnh thành của Vương quốc.

- Khanh hãy đập bể nó ra!

- Đập vỡ viên ngọc này ư? Tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được công việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho quan Thị Vệ một chiếc áo danh dự và còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho Abdul:

- Ngươi có thấy viên ngọc nào đẹp bằng viên ngọc to quý này không?

- Muôn tâu, thần chưa hề thấy viên ngọc nào quý giá như viên ngọc của Đức Vua.

- Nhà ngươi hãy đập nát nó đi.

Lập tức Abdul cầm một viên đá lớn đập nát viên ngọc quý kia thành bụi. Quần thần ai nấy đều thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của Abdul. Họ hỏi ông rằng:

- Sao nhà ngươi lại dám làm như thế?

Abdul bình tỉnh đáp lại:

-Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào.

Trước thái độ vâng phục tuyệt đối của Abdul, nhà vua đã khen ngợi chàng đã làm đúng nhiệm vụ của một bề tôi trung thành và đã ban thưởng bội hậu hơn hai vị quan kia.

Câu chuyện trên giúp chúng ta hiểu được Đức Giê-su chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa vì luôn vâng lời Ngài, như Tin Mừng hôm nay đã ghi nhận: Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7b).

3. THẢO LUẬN: 1) Hãy cho biết nguyên nhân nào đã biến một em bé có khuôn mặt trong trắng của thiên thần lại biến thành khuôn mặt gian ác của quỉ dữ? 2) Bạn sẽ thực tập nhân đức nào để loại bỏ thói hư quan trọng bạn đang mắc phải trong Mùa Chay này?

4. SUY NIỆM:

1) Cuộc hiển dung của Đức Giê-su:

- Biến cố Đức Giêsu biến hình trên núi hé lộ cho ba môn đệ thân tín là Phê-rô, Gia-cô-bê và Gio-an thấy vinh quang của Thiên Chúa nơi Thầy Giê-su của các ông: Từ khuôn mặt đến y phục bên ngoài của Đức Giêsu đều biến đổi nên sáng láng đẹp đẽ khiến ba môn đệ cảm thấy sung sướng ngất ngây.

- Bấy giờ đang là lễ Lều Trại, ông Phê-rô trong tình trạng nửa mê nửa tỉnh đã nhìn thấy Thầy Giê-su trò chuyện với hai nhân vật rất nổi tiếng là ông Mô-sê, đại diện cho Lề Luật và ông Ê-li-a, đại diện cho Lời Chúa phán, nên đã xin Thầy cho được dựng ba cái lều: Một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a.

2) “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7):

Tiếng Thiên Chúa phán từ trong đám mây chính thức xác nhận Đức Giêsu là “Con Yêu Dấu” và dạy các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”.

- Đức Giêsu là Con Một của Chúa Cha, mang nơi mình tất cả vinh quang và quyền năng của Chúa Cha, thể hiện qua việc biến đổi hình dạng và y phục: Khuôn mặt của Người trở nên sáng chói vinh quang của Thiên Chúa giống như ông Mô-sê sau khi được tiếp xúc với Đức Chúa. Áo Người đang mặc hóa nên “rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”. Các môn đệ ngỡ ngàng và ngây ngất khi được chứng kiến vinh quang của Thiên Chúa được biểu lộ nơi Đức Giêsu.

- Tiếp đến tiếng Chúa Cha từ trong đám mây truyền cho các môn đệ “hãy vâng nghe lời Người”: Vâng lời Đức Giê-su là vâng lời Chúa Cha như Người đã nói: "Ai nghe anh em là nghe Thầy; và ai khước từ anh em là khước từ Thầy; mà ai khước từ Thầy là khước từ Đấng đã sai Thầy" (Lc 10,16). Vâng lời Đức Giêsu là làm theo lời Đức Ma-ri-a đã dạy gia nhân trong tiệc cưới Ca-na: “Người bảo gì các anh cứ việc làm theo” (Ga 2,5). Cụ thể vâng lời Đức Giê-su còn là chấp nhận đi con đường “qua đau khổ là chấp nhận thập giá và cái chết để được vào trong vinh quang phục sinh”, điều mà ông Phê-rô đã không chấp nhận và còn lên tiếng can trách Đức Giê-su và đã bị Người mắng: “Xa-tan. Lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người” (Mc 8,33). Cuối cùng vâng nghe Đức Giêsu là không được nói với ai về những gì vừa chứng kiến, cho tới khi Con Người “từ cõi chết sống lại”.

3) “Từ trong cõi chết sống lại” (Mc 9,10) nhờ phương thế nào?:

Cuộc đời người tín hữu chính là họa lại cuộc sống của Đức Giê-su: Khi lãnh bí tích Rửa tội, chúng ta cũng được dìm mình trong dòng nước và trồi lên khỏi mặt nước giống như Đức Giê-su đã trải qua cuộc tử nạn và được an táng trong mồ, rồi ngày thứ ba đã từ cõi chết trỗi dậy. Các tông đồ các thánh tử đạo đã chấp nhận đi con đường này. Mỗi tín hữu chúng ta hôm nay cũng phải sẵn sàng chấp nhận sự thua thiệt, mất mát giữa đời thường. Chẳng hạn: vì đức tin và quyết tâm trung thành với Chúa không làm điều sai trái nên có thể mất việc làm, mất cả địa vị xã hội...

Thánh Phao-lô dạy: “Thật vậy, ai gieo giống nào thì sẽ gặt giống ấy. Ai theo tính xác thịt mà gieo điều xấu, thì sẽ gặt được hậu quả của tính xác thịt là sự hư nát. Còn ai theo Thần Khí mà gieo điều tốt thì sẽ gặt được kết quả của Thần Khí, là sự sống đời đời. Khi làm điều thiện chúng ta đừng nản chí, vì đến mùa, chúng ta sẽ được gặt, nếu không sờn lòng. Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,7-10). Trong những ngày Mùa Chay này, chúng ta cũng cần xét mình và quyết tâm sám hối bằng việc loại trừ các thói hư như: lười biếng việc đạo đức dự lễ, đọc kinh gia đình, không tham lam ích kỷ vô trách nhiệm, tránh nói hành nói xấu kẻ vắng mặt, biết nín nhịn để không gây gỗ với những kẻ mình không ưa… Nhờ việc tham dự các buổi tĩnh tâm Mùa Chay, dọn mình xưng tội, tham dự các buổi học sống Lời Chúa hằng tuần, quyết tâm thi hành các công tác tông đồ bác ái và phục vụ cụ thể theo phân công của cấp trên… Nhờ đó, chúng ta hy vọng sẽ được biến đổi nên người mới và được sống lại thật về linh hồn trong Mùa Phục Sinh sắp tới.

5. LỜI CẦU:

Lạy Chúa Giêsu, hiện giờ chưa tới lúc chúng con được biến hình vinh quang, nhưng đang là lúc chúng con phải biến đổi nên tốt hơn nhờ sự ăn năn sám hối tội lỗi và ăn chay hãm mình đền tội. Nhờ đó, chúng con sẽ ngày một nên con hiếu thảo luôn làm đẹp lòng Chúa Cha hơn, nên môn đệ thực sự của Chúa nhờ chăm chỉ nghe và thực hành Lời Chúa. Xin cho chúng con biết cộng tác với ơn Thánh Thần để chu toàn sứ mạng làm chứng cho Chúa trước mặt người đời.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

 

13.Biến đổi lòng tin, biến đổi cuộc đời!--Lm. Anmai, C.Ss.R.

Ông bà ta vẫn thường nói “Ở trong chăn mới biết chăn có rận!” hay là “Đèn nhà ai nấy rạng”. Những câu nói ấy như muốn nói rằng khi và chỉ khi ở trong hoàn cảnh thì mới hiểu được chứ còn ở ngoài không thể nào hiểu được. Người ta cũng thường nói “có đau bệnh mới thương người ốm!”. Cũng như ý ở trên, ông bà ta muốn nói rằng khi mình đối diện với thực tại, đối diện với hoàn cảnh bi đát của cuộc đời người ta mới biết chứ còn chưa đối diện thì không thể nào biết được.

Nhớ lại thầy già trong nhà Dòng. Những ngày cuối đời, Thầy phải đối diện với những cơn đau đớn vật vã do chứng bệnh ung thư mang lại. Khi đến thăm Thầy, thầy thỏ thẻ với tôi: “Bây giờ có ai đến an ủi đi chăng nữa thì cũng không thể nào hiểu được cơn đau của tôi!”. Và cứ như vậy, Thầy cố gắng chịu đựng, dâng những cơn đau của thể xác lên cho Chúa như của lễ cuối đời của Thầy vậy. Câu nói của Thầy già làm tôi nhớ mãi. Chỉ có ai đau bệnh mới biết nỗi đau là gì chứ còn chỉ đến thăm, chỉ đến an ủi thì cũng chẳng thể nào hiểu được cơn đau đang hành hạ bệnh nhân.

Và rồi, một linh mục đàn anh cũng ra đi với căn bệnh ung thư quái ác. Những ngày cuối đời, cũng vào thăm anh nhưng tôi chỉ lặng lẽ nhìn anh chứ không dám nói gì vì có nói gì thì nói cũng chẳng thể nào xoa dịu được nỗi đau của anh. Đôi khi lời an ủi, lời nói nó trở thành phản cảm khi người bệnh vì lẽ chúng ta không hiểu, không mang tâm trạng đau đớn là gì. Phải có sự hy sinh và đặc biệt là có lòng tin con người mới có thể chịu đựng, vượt qua những cơn đau đớn mà thể xác bị hành do đau bệnh.

Mới đây, chiều mùng 1 Tết. Nhận được cuộc điện thoại của một Sơ báo tin một Sơ thân quen vừa được Chúa gọi về sáng mùng 1. Kể lại hành trình chuyển Sơ kia từ thành phố về Buôn Ma Thuột, Sơ bên kia điện thoại nhấn đi nhấn lại chuyện phải đấu tranh với ma quỷ trong những giờ phút cuối đời của bệnh nhân. Những cơn đau đớn hoành hành, những cơn vật vã do chứng bệnh ung thư đôi khi làm nhụt chí bệnh nhân, làm cho bệnh nhân nản lòng trông cậy. Sơ nói với tôi rằng, lúc ấy phải đọc kinh, cầu nguyện để giành giật lại với sức lôi kéo của ma quỷ.

Nhớ đến giờ khắc cuối cùng của Mẹ tôi cũng thế! Bà bị bệnh ung thư! Trước khi mời cha đến xức dầu, Mẹ cứ quay mặt vô tường không thèm nhìn ai, nói chuyện với ai dù lúc đó Mẹ rất tỉnh táo. Kể từ lúc lãnh bí tích xức dầu và được người đọc kin phó linh hồn, bỗng dưng bà quay ra nhìn mọi người lần cuối và vẻ mặt thanh thản hơn trước đó! Thế đấy! Giờ phút cuối, giờ phút chuẩn bị ra đi của con người, giờ phút phải đối diện với cái chết thật là căng thẳng. Chính giờ phút ấy con người phải đối diện với lòng tin vào Đấng Cứu Độ mà bao nhiêu lâu nay họ theo. Chính giờ phút ấy là giờ phút quyết định ơn cứu độ của con người và con người phải dứt khoát trước giờ phút ấy.

Câu chuyện về Abraham sát tế cục cưng của mình là Isaac chúng ta đã nghe quá nhiều lần. Nhiều đến độ chỉ cần nghe “Lời Chúa trong sách sáng thế …” rồi “Người gọi ông: "Áp-ra-ham! " Ông thưa: "Dạ, con đây! ". Cứ nghe như vậy là chúng ta biết về trình thuật về việc Thiên Chúa thử lòng tin của ông. Phải nói là Thiên Chúa quá cay nghiệt khi bắt Abraham đáp trả lòng tin bằng việc sát tế đứa con yêu của mình. Thử hỏi mỗi người chúng ta khi phải từ bỏ vật chất, từ bỏ một chút lợi lộc nào đó chúng ta chưa dám bỏ chứ huống hồ gì là đứa con độc nhất vô nhị của mình. Nghe nhiều, đọc nhiều thấy chẳng có gì cả vì chúng ta biết trước kết cục của câu chuyện là Abraham đã sẵn sàng sát tế con mình nhưng Thiên Chúa đã ra tay ngừng lại như đoạn sách mà chúng ta vừa nghe.

Biết câu chuyện, biết trình thuật, biết kết quả có lẽ không hay lắm khi ta phải đối diện với thử thách to lớn như Abraham. Nói thì ai nói cũng được và nói thì dễ nhưng làm thì quả là quá khó khăn, quá xa vời. Thử đặt mình vào hoàn cảnh thật của Abraham chúng ta sẽ thấy căng thẳng đến chừng nào khi đáp trả lời mời gọi của Chúa. Lòng tin lúc đó được thử thách một cách hết sức căng thẳng. Thử hỏi chúng ta có một đứa con duy nhất chúng ta có dám sát tế để dâng cho Chúa không? Trường hợp Abraham còn bi đát hơn khi ông và bà Sara vợ ông đã quá thời sinh nở. Có đứa con cầu con tự vậy mà Chúa lại bảo phải hiến dâng! Thật là cay nghiệt, thật là bi đát.

Sau khi thử thách lòng tin, Thiên Chúa đã ban cho ông ân huệ đúng như lời Thiên Chúa hứa là cho ông trở thành cha của nhiều dân tộc, là cha của dòng dõi những kẻ tin. Abraham đã được Thiên Chúa đổi tên và từ đó, cuộc đời của ông được ơn nghĩa với Thiên Chúa và ơn của Chúa ở với ông cho đến suốt đời.

Cũng như những người bệnh, chúng ta khi đối diện chúng ta mới biết được căng thẳng là dường nào. Chúng ta có đáp trả lại lòng tin trong thử thách đau đớn phút cuối đời để sau đó chúng ta được hưởng phúc vinh quang với Chúa là Đấng Cứu Độ chúng ta không?

Chúng ta chúc tụng, hoan hô, ca ngợi Abraham thì cũng bằng thừa vì lẽ chuyện đã xảy ra rồi. Phải nói là Abraham liều mạng, Abraham đã bỏ ngõ cuộc đời mình, bỏ ngõ tương lai của mình vào phán quyết của Thiên Chúa. Đứng vào vị thế của Abraham chúng ta sẽ trả lời với Chúa như thế nào? Câu trả lời ấy tuỳ thuộc vào mỗi người chúng ta, vào lòng tin của mỗi người chúng ta.

Trang Tin mừng mà chúng ta vừa nghe thánh Maccô thuật lại cho chúng ta thấy việc Chúa Giêsu tỏ mình cho các môn đệ thân tín. Trong giây phút huy hoàng của cuộc đời, các ông nói với Thầy rằng: “chúng con ở đây thật là hay!”. Thế nhưng sau cái giây phút vinh quang ấy, trở về với đời thường, lòng tin của các ông cũng rất chênh vênh, cũng rất cheo leo. Đơn giản nhất mà chúng ta thấy đó là vào giây phút nghiệt ngã nhất của cuộc đời Chúa Giêsu, giây phút mà Chúa Giêsu lên Giêrusalem để chịu đau khổ ấy thì chúng ta thấy còn được mấy môn đệ theo Chúa? Lúc bấy giờ còn ai dám nói với Thầy Giêsu rằng “chúng con ở đây thật là hay” nữa. Chỉ còn mình Mẹ Maria và môn đệ yêu dấu là Gioan mà thôi.

Thật ra, chúng ta thấy các môn đệ được Chúa Giêsu tỏ mình và rồi các môn đệ đã một lần nữa xác tín cuộc đời của mình vào Thầy Chí Thánh. Dẫu cuộc đời có những lúc chênh vênh, có những lúc chuệch choạc như Phêrô chối Thầy nhưng cuối cùng Phêrô vẫn tin vào Thầy và được làm Đá Tảng của Hội Thánh.

Vâng! Chắc có lẽ cuộc đời của ta cũng giống như các môn đệ xưa thôi! Chúng ta vẫn đi theo Chúa, chúng ta vẫn được Chúa tỏ mình nhiều lần nhiều cách trong cuộc đời nhưng chúng ta không nhận ra chúng ta không tin để chúng ta biến đổi cuộc đời như các môn đệ xưa.

Chúng ta dừng lại đôi chút để nhìn lại cuộc đời mình. Chúa ban cho chúng ta quá nhiều ơn, Chúa đã tỏ mình cho chúng ta quá nhiều lần nhưng lòng chúng ta cứ chai lại, cứ cứng thêm.

Qua các ngôn sứ, qua sách Thánh chúng ta biết rõ rằng Đức Giêsu Kitô – Chúa chúng ta – đã đón nhận cái chết và chết nhục nhã trên thập giá để cứu độ chúng ta nhưng lòng chúng ta cứ hững hờ làm sao đó.

Một con người phải nói là cứng tin, quay lưng lại với Chúa nhưng rồi sau những biến cố của cuộc đời đã thay đổi cuộc đời, đã biến đổi lòng tin của mình. Người ấy chính là tác giả thư gửi tín hữu Rôma mà chúng ta vừa nghe đấy. Cuộc đời của Ngài có quá nhiều thử thách. Ngài sinh ra thuộc dòng dõi Bengiamin, là người Pharisêu chính hiệu, Ngài được học hành tử tế và giữ luật Do Thái một cách không ai trách khứ được như Ngài đã từng tâm sự. Ban đầu bắt Chúa đấy nhưng cuối cùng đã quay về với Chúa và quy phục trước Chúa. Trong đoạn thư ngắn hôm nay Ngài quả quyết với chúng ta: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?” (Rm 8,31b-34).

Để có lòng tin vào Chúa thánh Phaolô đã trải qua biết bao nhiêu thử thách về lòng tin, về sự từ bỏ những vinh quang lợi lộc trần gian. Qua những thử thách, qua những khó khăn Thánh Phaolô đã khẳng định, đã xác quyết với mỗi người chúng ta về Ơn Cứu Độ của Thiên Chúa sau những trải nghiệm của đời Ngài. Ngài đã minh định lòng tin cho chúng ta để rồi lòng tin của chúng ta có nền tảng. Không chỉ mình Thánh Phaolô mà còn nhiều vị thánh Tông đồ và các thánh khác đã tuyên xưng lòng tin của mình trước bao nghịch cảnh của cuộc đời. Sau khi được biến đổi lòng tin, cuộc đời của các Ngài đã được biến đổi và được hưởng Nhan Thánh Chúa muôn đời.

Con đường của lòng tin, con đường của sự tín thác vào Thiên Chúa không đơn giản như một số người nghĩ. Lòng tin luôn bị thử thách và luôn luôn cần được đáp trả. Như Abraham xưa, chúng ta vẫn được Thiên Chúa mời gọi lời đáp trả về lòng tin.

Thiên Chúa ngày hôm nay có thử thách chúng ta thì Ngài không thử thách khắc nghiệt như thử thách Abraham hay Phaolô. Thiên Chúa không còn đòi buộc chúng ta phải sát tế đứa con thừa tự duy nhất của chúng ta như Abraham hay là Thiên Chúa không đòi buộc chúng ta phải từ bỏ tất cả những vinh hoa phú quý của cuộc đời như Phaolô. Thiên Chúa thử thách chúng ta qua những biến cố nho nhỏ trong cuộc đời: Chúa mời gọi chúng ta từ bỏ một chút đố kỵ trong lòng chúng ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút lòng tự cao tự đại trong ta, Chúa mời gọi chúng ta bỏ một chút tính điêu ngoa chua chát trong lòng chúng ta …. Phần đáp trả chính là phần của chúng ta. Thiên Chúa luôn luôn ở lại với mỗi người chúng ta như Chúa đã từng ở với Abraham, với Phaolô.

Nguyện xin Chúa đến và ở lại với mỗi người chúng ta để chúng ta xác tín hơn lòng tin của chúng ta vào Chúa. Xin Chúa thương ban thêm lòng tin cho mỗi người chúng ta để chúng ta có thể đứng vững trước bao nhiêu sóng gió của cuộc đời.

Xin Chúa biến đổi lòng tin của chúng ta, xin Chúa biến đổi cuộc đời của chúng ta như xưa Chúa biến đổi cuộc đời Abraham, cuộc đời Thánh Phaolô và các thánh nam nữ của Thiên Chúa.

 

14.Xin ơn biến đổi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay, phụng vụ Giáo Hội mời gọi chúng ta chiêm ngắm biến cố Chúa Giêsu biến hình, một mầu nhiệm vĩ đại. Lịch sử cho thấy ba Tông đồ Phêrô, Gioan và Giacôbê là những tấm gương sám hối suốt Mùa Chay dẫn chúng ta tới Đại lễ Phục Sinh, khi chúng ta cử hành cuộc chiến thắng của tinh thần trên thể xác, của ơn cứu chuộc trên tội lỗi.

Thánh sử Marcô nhắc đến việc Chúa Giêsu đưa ba ông lên núi cao cầu nguyện, và đang khi cầu nguyện... bỗng có hai vị đàm đạo với Người, là Môsê và Êlia.... Một số câu hỏi được đặt ra chung quanh biến cố Chúa Biến Hình:

1. Tại sao Đức Giêsu Biến Hình?

2. Tại sao Môise và Êlia lại có mặt lúc Chúa Giêsu Biến Hình?

3. Tại sao không phải là các Tông đồ khác mà lại là Phêrô, Giacôbê và Gioan được Đức Giêsu đưa lên núi?

Tại sao Đức Giêsu Biến Hình?

Chúng ta biết, trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.

Trở lại câu hỏi tại sao Đức Giêsu lại chọn Phêrô, Giacôbê và Gioan, phải chăng là vì họ hoàn hảo hơn những người khác?

Theo Thánh Gioan Kim Khẩu, Phêrô được chọn, vì Phêrô đã từng tuyên xưng Đức Giêsu là “Ðức Kitô” (x. Mc 8, 29). Hơn nữa, cũng bởi Phêrô đã yêu mến Chúa Giêsu Kitô nhiều hơn, “Lạy Chúa, Chúa thông hay mọi sự, Chúa biết tôi yêu mến Chúa!” (Ga 21, 17). Phần Gioan, vì đã yêu mến nhiều, nên được mệnh danh là “người môn đệ Chúa yêu” (Ga 21, 20). Còn Thánh Giacôbê, là vì ​​phản ứng của ông đã thực hiện cùng với anh trai mình: “Chúng tôi có thể uống chén của Thầy” (Mt 20, 22), ông giữ lời và đã đi đến cùng điều ông cam kết, khiến người Do Thái không chịu nổi, đã xử trảm ông.

Tại sao không phải là một tiên tri hay ngôn sứ nào khác mà lại là Môisen và Êlia?

Sứ vụ công khai của Chúa Giêsu tại Galilê đã khiến cho dân chúng đồn đoán về Người. Có kẻ cho Người là Gioan Tẩy Giả, kẻ khác cho là Êlia, Giêrêmia hay là một tiên tri (x. Mc 8,28).

Người Do Thái không ngừng buộc tội Chúa Giêsu vi phạm luật, kẻ nói phạm thượng, kẻ chiếm đoạt vinh quang, mà theo họ, vinh quang đó là của Thiên Chúa, không thuộc về Người. Trong lúc biến hình đàm đạo với Môisen và Êlia, Người khẳng định mình còn hơn cả Môisen và Êlia nữa. Môisen là người đã trao ban lề luật cho dân chúng, nên những người Do Thái không thế nói rằng vị tiên tri thánh này đã muốn chịu đau khổ vì một người vi phạm lề luật. Còn Êlia xuất hiện cùng Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta rằng Người là Chúa của kẻ sống và kẻ chết, cả trên trời và trong địa ngục. Đó là lý do Người biến hình cùng với Êlia là người đã không chết.

Một điều rất thú vị là Môisen đã rẽ đôi nước biển để cho dân chúng đi ráo chân, Phêrô đã đi trên mặt nước, để rồi chữa lành tất cả bệnh hoạn tật nguyện cho dân chúng, xua trừ ma quỷ, đưa mọi người về với Đức Kitô. Êlia đã làm cho kẻ chết sống lại, các Tông đồ cũng đã làm cho kẻ chết được sống lại, khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần. Đó là những lý do Chúa Giêsu chọn Môisen và Êlia hiện ra đàm đạo với mình.

Đức Giêsu biến hình để cho chúng ta được chiêm ngưỡng:

Vinh quang Ba Ngôi

Vinh quang của Thiên Chúa Ba Ngôi được biểu lộ trong biến cố Chúa biến hình. Chúa biến hình là hình ảnh loan báo trước cho biến cố Chúa Phục Sinh. Chúa mạc khải vinh quang mình cho các tông đồ với lời xác nhận của Thiên Chúa Cha: “Ðây là Con Ta Yêu Dấu!” (Mc 9, 7). Trong ánh sáng vinh quang, chúng ta nhìn thấy ánh sáng; và được Chúa Thánh Thần nâng lên, chúng ta chúc tụng Thiên Chúa Ba Ngôi qua mọi muôn thế hệ.

Lắng nghe lời Đức Giêsu

Trong biến cố Chúa biến hình, chúng ta không những chiêm ngắm mầu nhiệm Thiên Chúa mỗi ngày một sâu xa hơn vừa đi từ ánh sáng này sang ánh sáng khác, mà còn được mời gọi hãy lắng nghe Lời Chúa gửi đến. Ngoài Lề Luật nơi ông Môisen và lời tiên tri nơi sứ ngôn Êlia, lời Chúa Cha còn vang lên mời gọi chúng ta “vâng nghe lời Người” (Mc 9, 8).

Xin ơn biến đổi

Nhìn xem và lắng nghe, chiêm ngắm và vâng phục, là những con đường dẫn chúng ta lên Núi Thánh. Ở đó, Ba Ngôi Thiên Chúa được mạc khải trong vinh quang của Chúa Con.

Chúa biến hình, loan báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng cặp mắt, con tim để nhìn thấy mầu nhiệm Ánh Sáng của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Ba thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Như thế, nếu chúng ta muốn biến đổi thành công dân Nước Trời, phải bỏ mình vác thập giá hàng ngày mà theo Người. Có sẵng sàng vác thập giá Chúa gửi trao mới được theo Chúa là Đường là Sự Thật là Sự Sống để được hưởng vinh quang Phục sinh với Người.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta cũng biết biến đổi: biến đổi từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng hoàn hảo; biến đổi từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; biến đổi từ con người kiêu căng tự đắc thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Lạy Chúa, xin thương giúp chúng con hiểu được ý nghĩa của thập giá Chúa và ban ơn cho chúng con biết sống mầu nhiệm thập giá Chúa trong cuộc đời, để được sống lại vinh quang với Ngài. Amen.

 

15.Xin ơn biến đổi trong Mùa Chay Thánh--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Bước vào Chúa nhật thứ hai Mùa Chay Thánh, phụng vụ Giáo Hội trình bày cho chúng ta cảnh đẹp lộng lẫy biến hình của Chúa Giêsu, có Phêrô, Giacôbê và Gioan làm chứng. Tin Mừng mô tả: “Chúa Giêsu đã biến hình trước mặt các ông và áo Người trở nên chói lọi trắng tinh như tuyết” (Mc 9, 2-3).

Chúa Giêsu biến hình

Trước khi Chúa Giêsu biến hình, Người đã làm phép lạ hóa bánh ra nhiều để nuôi chừng năm ngàn người ăn no (x. Mc 6, 30-44; 8, 1-10). Vẻ chưng hửng của các Tông đồ về tương lai tươi sáng, và sự mãn nguyện về vị Thiên sai của dân chúng. Khi thăm dò ý kiến chung, Đức Giêsu đã loan báo cuộc thương khó lần thứ I (x. Mc 31, 33). Như thế, Người đã mạc khải cho các môn đệ biết rằng, con đường tiến về Giêrusalem sẽ đưa Người đến với đau khổ, tử nạn và cái chết đau thương trên thập giá, sau đó mới rạng ngời ánh vinh quang. Vì chưa nhận ra ý Chúa nên Phêrô muốn dựng ba lều ở trên núi sau khi chứng kiến Chúa biến hình (x. Mc 9, 5). Như thế, Phêrô đã muốn biến cái tạm thời trở thành cái vĩnh cửu để khỏi phải đương đầu với khổ đau và thập giá.

Xin ơn biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần

Chúa biến hình, báo trước Mầu Nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta mở rộng con mắt cũng như trái tim để nhìn thấy Ánh Sáng nhiệm mầu của Thiên Chúa hiện diện trong toàn thể lịch sử cứu rỗi. Mầu nhiệm Năm Sự Sáng, thứ Bốn thì Ngắm, Đức Chúa Giêsu biến hình trên núi, ta hãy xin cho được biến đổi nhờ Chúa Thánh Thần. Nếu như sau khi chịu phép rửa nơi sông Giordan “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Người ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu Satan cám dỗ, sống chung với các dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Người” (Mc 1,12-13), thì giờ đây chúng ta cũng phải xin Chúa Thánh Thần trợ giúp.

Chúa biến hình vinh quang sáng láng, để chúng ta biết biến đổi. Nhưng để biến đổi đâu có dễ, cần phải ơn Chúa Thánh Thần trợ giúp. Chúng ta cũng hãy cầu xin Chúa Thánh Thần hướng dẫn chúng ta từng bước trong Mùa Chay, đặc biệt là xin Ngài biến đổi.

Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người khô khan biếng trễ xưng tội rước lễ, lười đi nhà thờ bỏ lễ Chúa nhật thành người đạo đức thánh thiện và siêng năng. Xin Chúa Thánh Thần biến đổi chúng ta từ con người tối tăm tội lỗi nên con người tươi sáng; từ con người ích kỷ tham lam thành người sẵn sàng yêu thương hy sinh và phục vụ mọi người; từ con người kiêu căng tự mãn thành người khiêm nhu tin tưởng và phó thác vào Chúa.

Chúa Thánh Thần đã biến đổi các giác quan của các tông đồ, họ mới có thể nhìn thấy vinh quang Thiên Chúa của Chúa Giêsu. Cặp mắt được đổi mới, các ông mới nhìn rõ hơn những gì tỏa sáng, tai được biến đổi để nghe rõ hơn tiếng nói tuyệt vời và có thật: là tiếng nói của Thiên Chúa Cha, Đấng hài lòng về Con yêu dấu của Ngài. Chúng ta cũng thế, hãy để Chúa Thánh Thần tác động mới mong được biến đổi, giác quan của chúng ta mới có thể nhìn thấy và nghe được những điều kỳ diệu và vui mừng trong Thiên Chúa cùng với hàng ngũ các thánh đã được Chúa Giêsu phục sinh từ trong cõi chết.

Để được biến đổi

Hãy vâng nghe lời Chúa.

Nhờ vâng nghe và thực hành lời Chúa, tổ phụ Abraham đã lên đường. Chúa bảo đi là đi. Thế nên, Abraham đã trở nên tổ phụ của một dân tộc đông đảo như sao trời cát biển.

Trong lúc biến hình, Chúa Cha từ trong đám mây đã xác nhận Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha, và dạy các môn đệ: “Hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Có vâng nghe lời Chúa Cha, Đức Giêsu mới trở nên người con chí ái đẹp lòng Cha mọi đàng. Nhờ vâng nghe Lời Chúa, chúng ta mới xứng đáng là người môn đệ của Đức Giêsu.

Cầu nguyện

Đang khi cầu nguyện, Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trở nên sáng láng. Chúng ta cũng chỉ được biến đổi thân phận tội lỗi của mình bằng việc tha thiết cầu xin Chúa ban ơn trợ giúp và thứ tha. Đây là Mùa Chay, mùa biến đổi, chúng ta cần đến với Chúa để được biến đổi trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Chẳng hạn như tham dự tĩnh tâm, giục lòng ăn năn sám hối tội lỗi, quyết tâm sửa đổi thói hư tật xấu bằng việc thực hành nhân đức mỗi ngày để đền tội.

Lạy Chúa Thánh Thần, xin biến đổi con. Xin biến đổi con mắt, môi miệng và lỗ tai con, để con biết thấy cái hay cái đẹp của tha nhân, biết nói lời hay lẽ phải, biết nghe Lời Chúa, và nhất là thực hành Lời Chúa dạy. Amen.

 

16.“Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông”--Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc

1. Đi riêng ra một chỗ

Trên đường đi theo Đức Ki-tô, vào một lúc nào đó, các tông đồ Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan được chọn để đi riêng ra một chỗ, tới một ngọn núi cao. Trong Kinh Thánh, núi là nơi Thiên Chúa tỏ hiện và con người đi lên núi để gặp gỡ Ngài. Núi có ý nghĩa như thế, vì đó là hình ảnh diễn tả việc giữ khoảng cách với những vấn đề của cuộc sống, vốn hay trói buộc con người, để có thể hướng về trời cao và những gì thuộc về trời cao. Chính vì thế, Đức Giê-su hay lên núi cầu nguyện, giảng ở trên núi, chẳng hạn Bài Giảng Trên Núi trong Tin Mừng theo Thánh Mát-thêu (Mt 5-7); và đặc biệt lần này, trên một ngọn núi cao, Ngài bày tỏ căn tính thần linh của Ngài trong tương quan với Thiên Chúa Cha và lịch sử cứu độ.

Trong đời sống đức tin của chúng ta, trong ơn gọi thánh hiến và cả trong ơn gọi gia đình nữa, chúng ta cũng được Chúa mời gọi, và phải nói mạnh hơn, được Chúa chọn, đi riêng ra một chỗ, tới “ngọn núi cao” biểu tượng, nghĩa là tới nơi Thiên Chúa tỏ hiện và ngỏ lời với chúng ta, để lắng nghe Lời của Ngài, để nhận ra ân huệ Ngài ban và cảm nếm được sự hiện diện của Ngài trong cuộc sống của chúng ta, qua đó, có thể ca tụng và tạ ơn Chúa, và cũng để xin Ngài chữa lành, soi sáng, thêm sức và tái tạo chúng ta, và có khi một cách đơn sơ, để ở với Ngài một cách nhưng không. Cuộc sống của chúng ta vốn đầy thách đố đủ loại, vì thế, chúng ta cần biết bao, cùng với Chúa, đi riêng ra một nơi, lên ngọn núi cao.

Thật ra, những lúc đi riêng ra một nơi với Chúa, vẫn được ban cho chúng ta đấy thôi, nhưng chúng ta lại thường không đón nhận cách quảng đại như một ơn huệ Chúa ban.

* Đó là thời gian cầu nguyện cá nhân hằng ngày.

* Đó là thời gian chúng ta dâng Thánh Lễ, đọc kinh Phụng Vụ, thời gian chúng ta cầu nguyện chung với nhau.

* Đó là thời gian tĩnh tâm, tĩnh tâm tháng, tĩnh tâm năm hay những lúc chúng ta khao khát cầu nguyện và sắp xếp được thời gian.

Ước gì trong những lúc “đi riêng ra một nơi” với Chúa, Chúa ban cho chúng ta có cùng kinh nghiệm thiêng liêng như các tông đồ, đó là cảm nếm căn tính chói ngời của Chúa, để có thể nói: “Lạy Ngài, chúng con ở đây, thật là hay!”.

2. Dung nhan rạng ngời của Đức Giê-su

Ánh sáng chói lòa của Đức Giê-su trên đỉnh núi (Mc 9, 2-8) muốn nói cho chúng ta về kinh nghiệm niềm vui và hạnh phúc của lựa chọn cho đi sự sống của mình, đánh liều cuộc đời mình trong một ơn gọi, vì Đức Kitô và vì Tin Mừng, như chính Ngài đã nói trước đó:

Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo. Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy.

(Mc 8, 34-38)

Chính lúc Đức Giê-su biến đổi hình dạng, là lúc có sự hiện diện của ông Mô-sê và ông Elia, tượng trưng cho lịch sử cứu độ. Chúng ta hãy lắng nghe các ngài đàm đạo. Theo thánh sử Lu-ca, các vị đàm đạo về cuộc Xuất Hành Người sẽ hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem (Lc 9, 31). Như thế, lịch sử cứu độ (Lề Luật và ngôn sứ) loan báo mầu nhiệm Vượt Qua và mầu nhiệm Vượt Qua hoàn tất lịch sử cứu độ. Mà lịch sử cứu độ là gì? Là lịch sử kể lại sự hiện diện, sự quan phòng và cách dẫn đưa của Thiên Chúa giầu lòng thương xót hành trình làm người của những cuộc đời, của một dân tộc, đầy thăng trầm và tội lỗi, bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, không chỉ từ khởi đầu của dân tộc Israel, nhưng ngay từ khởi của loài người (x. St 3).

Chúng ta hãy chiêm ngắm Đức Giê-su trở nên chói lọi như mặt trời, như bản văn Tin Mừng tường thuật: “Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 2-3); và theo lời kể của thánh Mát-thêu: “Dung nhan người chói lọi như mặt trời, và y phục người trở nên trắng tinh như ánh sáng” (Mt 17, 2). Như thế, chính khi lịch sử cứu độ được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Giê-su, dung nhan của Ngài trở nên Mặt Trời, Mặt Trời ban ánh sáng, sức nóng và sự sống: “Chẳng có chi tránh được ánh dương nồng” (Tv 19, 7).

Dưới ánh sáng của lịch sử cứu độ được hiểu như trên, chúng ta được mời gọi đọc lại và nhận ra cuộc đời chúng ta cũng là một “lịch sử cứu độ”, như kinh nghiệm thiêng liêng của hai môn đệ trên đường Emmau (x. Lc 24, 13-35), tuy đầy thăng trầm, tội lỗi và bị chi phối nặng nề bởi Sự Dữ, nhưng hướng tới Mầu Nhiệm Vượt Qua và được Mầu Nhiệm Vượt Qua hoàn tất, như thánh sử Gioan mong ước: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người.” (Ga 20, 31). Chính khi nhận ra hành trình làm người và hành trình ơn gọi của chúng ta, quá khứ, hiện tại và tương lai của cuộc đời chúng ta hướng tới và được hoàn tất nơi ngôi vị của Đức Ki-tô, đó sẽ là lúc chúng ta sẽ có được kinh nghiệm chiêm ngắm Dung Nhan chói ngời của Đức Ki-tô.

Vậy, trên hành trình đi theo Đức Ki-tô trong ơn gọi gia đình và nhất là trong đời sống dâng hiến, chúng ta hãy ước ao và xin Chúa ban cho chúng ta kinh nghiệm thiêng liêng nền tảng này: Đức Ki-tô trở nên chói ngời trong cuộc đời và ơn gọi của chúng ta ; và ước gì cuộc sống hằng ngày của chúng ta với những đòi hỏi của ơn gọi, là lời diễn tả tâm tình vui sướng: “Lạy Chúa, chúng con ở đây, thật là hay!”

3. “Chúng con ở đây thật là hay”

Chúng ta hãy mặc lấy tâm tình của các môn đệ để hiểu hết lời nói này của ông Phê-rô:

Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay!

Chúng con xin dựng ba cái lều…

Có người hiểu câu nói này của ông Phê-rô như sau: “Rất may, có chúng con ở đây để phục vụ các Ngài…”. Tuy nhiên, như Thánh Mác-cô thuật lại, thực ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng. Vì thế, chúng ta phải hiểu đó đơn giản là lời diễn tả cảm xúc, diễn tả niềm hạnh phúc khôn tả được chiêm ngắm vĩnh cửu ; và ông Phê-rô muốn duy trì hạnh phúc này mãi mãi, bằng cách dựng lều cho các vị. Lều là biểu tượng của sự an nghỉ cánh chung. Và đối với ông Phê-rô, cánh chung là đây.

Chúng ta hãy ước ao có được kinh nghiệm này khi chiêm ngắm các mầu nhiệm của cuộc đời Đức Giê-au, và nhất là Cuộc Thương Khó của Ngài, vì có một lúc nào đó, Ngài sẽ trở lên chói lọi đối với chúng ta. Và chính với kinh nghiệm chiêm ngắm Đức Ki-tô chói ngời trong các Tin Mừng và trong toàn bộ Kinh Thánh, chúng ta có thể nhận ra Chúa chói ngời, ngay trong đời sống đi theo Người đầy thách đố của chúng ta.

Thật vậy, đó chính là điều Chúa Cha muốn, khi Ngài đáp lời Phê-rô. Bởi vì, khi ông còn đang nói, có đám mây sáng ngời bao phủ cách ông. Đám mây là hình ảnh của sự di động, không thể làm chủ hay nắm bắt được, thay vì cố định, dễ làm chủ và nắm bắt như căn lều ; và từ đám mây Thiên Chúa Cha lên tiếng:

Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời người.

Như thế, chính khi chúng ta vâng nghe Đức Giê-su, và đi theo Ngài trên con đường Thập Giá, trong ơn gọi của chúng ta với tâm tình biết ơn và yêu mến, chúng ta sẽ có được niềm hạnh phúc thần linh của Thiên Chúa. Và khi đó, chúng ta có thể nói: “Lạy Chúa, chúng con ở đây thật là hay!”.

 

17.Đường lối của Thiên Chúa và tư tưởng của con người--Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.

Hôm nay, thánh sử Máccô trình thuật câu chuyện Đức Giêsu biến hình. Việc Đức Giêsu biến hình được diễn ra sau khi vị Tông đồ trưởng tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16). Tuy nhiên, ngay sau khi ông tuyên tín như vậy, Đức Giêsu đã tiên báo cho các ông biết trước về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu. Thấy vậy, Phêrô đã can ngăn kịch liệt khi nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Thầy mình, ông nói: “Xin Thiên Chúa thương đừng để Thầy gặp phải chuyện ấy!" (Mt 16,22).

Nhưng Đức Giêsu đã quở mắng cách nặng nề khi nói ông là “Xatan”. Ngài cũng nói thêm: Tư tưởng của Phêrô là tư tưởng của loài người, không phải là tư tưởng của Thiên Chúa.

Chính vì lý do trên, mà hôm nay, Đức Giêsu đã dẫn ba môn đệ thân tín với mình lên núi Tabor và biến hình trước mắt các ông, để qua đó, dần dần Ngài mặc khải và dẫn các ông vào đường lối cũng như tư tưởng của Thiên Chúa.

1. Lý do Đức Giêsu hiển dung

Các môn đệ là những người được Đức Giêsu đích thân tuyển chọn làm trợ tá cho Ngài, để rồi mai đây chính Ngài sẽ trao phó Giáo Hội cho các ông, ngõ hầu các ông sẽ tiếp bước đường lối và tư tưởng của Thiên Chúa!

Tuy nhiên, không thể trao phó một công trình vĩ đại, quan trọng, mang tính trường tồn cho những người lơ mơ…, trao phó như thế thì chẳng khác gì “trao trứng cho ác”.

Thiếu hiểu biết và nhiều khi hiểu sai đường lối của Đức Giêsu nơi các môn đệ thật là rõ nét, vì đã có những lúc các ông phỏng chiếu một Đức Giêsu oai phong, quyền lực, chẳng khác gì các vị tướng lãnh chốn trần ai.

Thế nên, nơi các ông, nhiều lần họ đã đôi co với nhau xem ai là người lớn nhất trong Nước Trời; có những người lại còn dẫn cả mẹ mình đến để năn nỉ kỳ nèo cho được ngồi bên tả và bên hữu trong Nước mà Đức Giêsu sẽ thiết lập; rồi cụ thể như Phêrô, chỉ cách đó có 6 ngày, ông đã đại diện cho anh em để tuyên xưng hùng hồn niềm tin của mình vào Thầy Giêsu, nhưng sau đó, khi nghe thấy Đức Giêsu loan báo về cuộc khổ nạn mà Ngài sẽ phải chịu, ngay lập tức, ông đã không chần trừ, mà đã khẳng khái lên tiếng can ngăn! Như vậy, các môn đệ là những người kề vai sát cánh bên Đức Giêsu, nhưng tư tưởng của các ông vẫn lè phè dưới đất, chưa vươn lên để hiểu được tâm tư của Thầy mình.

Chính vì những lý do này, nên các ông không thể chấp nhận một Vị Tôn Sư mà mình chọn làm người dẫn dắt, lại là một người thất bại qua cái chết đau thương và nhục nhã trên cây thập tự giá như một tử tội được!

Để giúp các môn đệ, nhất là ba môn đệ thân tín mà sau này chính các ông sẽ là các chứng nhân trong những chuyện đặc biệt, nên Đức Giêsu đã đưa các ông lên núi Tabor để biến hình trước mắt các ông, nhằm củng cố đức tin, ban hành sứ điệp và đưa các ông đi vào đường lối cứu chuộc của Thiên Chúa.

2. Qua đau khổ mới đến vinh quang

Câu chuyện biến hình được khởi đi từ việc Đức Giêsu dẫn ba môn đệ của mình lên núi, và đang khi Ngài cầu nguyện “rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy (x. Mc 9, 3).

Bên cạnh Ngài còn có Môsê là người đại diện cho lề luật Cựu Ước, và Elia là ngôn sứ vĩ đại nhất. Cả hai cùng hiện ra và đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này cho thấy: toàn bộ lề luật và lời các ngôn sứ đều quy hướng về Đức Giêsu và về cuộc khổ nạn, phục sinh của Ngài như là trung tâm của công trình cứu chuộc mà Thiên Chúa sẽ thực hiện nơi Đức Giêsu!

Khi thấy diện mạo Đức Giêsu biến đổi và khung cảnh thánh thiêng, huy hoàng tuyệt đẹp như vậy, tâm hồn các ông ngây ngất và lòng các ông hân hoan quá đỗi.

Chắc chắn trong cuộc đời của các ông chưa một lần nào được hạnh phúc như vậy! Vì thế, Phêrô đã thay lời cho Gioan và Giacôbê để thưa lên với Đức Giêsu, ông nói: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia" (Mc 9, 5).

Qua lời đề nghị này của Phêrô, lại một lần nữa, nơi ông toát lên tính hưởng thụ, thực dụng…! Ông muốn được ở lại trong vinh quang với Đức Giêsu mãi mãi và không chịu đối diện với thực tế mà ông và các bạn của ông sẽ còn phải tiếp tục…!!!

Thấy được điều đó, Đức Giêsu đã không để cho các ông rơi vào tình trạng bi đát của tư tưởng: “Thích sướng, ngại khổ”. Nên Ngài đã không những khước từ đề nghị của ông, mà còn mặc khải cho ông hiểu được quy luật tất yếu của Tin Mừng, đó là: “Phải qua đau khổ mới tới vinh quang.”

Sau khi cho các ông lạc vào thiên cung, cho các ông nếm trước vinh quang Thiên Quốc, Đức Giêsu đã mời gọi các ông phải xuống núi.

Xuống núi với anh em, với đồng loại, và với những công việc thường ngày.

Xuống núi để tiếp tục cuộc hành trình theo Thầy của mình. Xuống núi trong tâm tình cảm nghiệm rõ nét con đường mà Thầy đã, đang và sẽ đi, để mai đây chính mình sẽ tiếp bước.

3. Sứ điệp Lời Chúa

Trong đời sống thực tế của nhiều người nơi cộng đoàn, đã có nhiều lần chúng ta cũng mang trong mình tư tưởng của các Tông đồ khi xưa, đó là: tham sân si; tranh gành địa vị; trọng hình thức mà quên đời sống nội tâm. Nhiều khi gây chia rẽ, lên mặt dạy đời, hay luôn chọn cho mình những công việc nhàn hạ, còn việc nặng nhọc để lại cho người khác. Rồi cũng không thiếu những người theo Chúa, tin Chúa, nhưng theo và tin kiểu công dân hạng hai, tức là lúc thuận tiện thì theo và tin…, nhưng khi gian nan thử thách đến là bỏ giữa chừng và sẵn sàng đi cầu ông nọ, khấn bà kia thay Chúa.

Đôi khi chúng ta cũng có tư tưởng thực dụng như: tìm mọi cách để níu kéo Thiên Chúa về với mình. Thiên Chúa là Đấng ta được hưởng độc quyền, còn người khác, chúng ta luôn muốn Chúa phải thẳng tay để đánh phạt họ….

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy có tư tưởng của Thiên Chúa thay cho tư tưởng của loài người. Đó là: luôn đặt ý Chúa lên trên hết. Phải biết yêu thương nhau chân thành. Xây dựng tình huynh đệ, hiệp nhất và bình an. Sẵn sàng kề vai sát cánh bên nhau cả những công việc nhẹ nhàng lẫn công việc nặng nề.

Biết đón nhận những đau khổ, thử thách trong đời sống đạo với tâm tình: “Mọi sự đều sinh lợi ích cho những ai yêu mến Thiên Chúa” (Rm 8,28). Và: “Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho” (Mt 6,33). Sẵn sàng lột xác để biến đổi, để từ con người ích kỷ, thành bao dung; từ chỗ thực dụng thành vô vị lợi; từ chỗ chỉ biết nghĩ đến mình, thì giờ đây biết nghĩ đến người khác; từ chỗ muốn được hạnh phúc và sung sướng mà không chấp nhận đau khổ, thành một người mang trong mình tư tưởng của Thiên Chúa và đi vào đường lối của Đức Giêsu đã đi, đó là: “Qua đau khổ mới đến vinh quang”.

Muốn thực thi được những điều trên, quan trọng nhất, chúng ta phải biết lắng nghe lời Đức Giêsu, thi hành điều Ngài dạy và đi theo Ngài trên chính con đường mà Ngài đã đi khi xưa.

Lạy Chúa Giêsu, chắc chắn đã có nhiều lần chúng con như các môn đệ khi xưa, đó là: chỉ thích sung sướng, hạnh phúc mà không biết đón nhận khổ đau. Xin Chúa khai trí mở lòng chúng con, để chúng con hiểu được đường lối cũng như tư tưởng của Chúa, từ đó, biết đi theo Chúa trên chính con đường mà Ngài đã đi để được sống đời đời. Amen.

 

18.Đây là Con Ta yêu dấu--Lm. Trầm Phúc

Biến cố Chúa biến hình trên núi đã trở thành một câu chuyện quen thuộc đối với chúng ta và như thế, chúng ta không còn chú trọng đến nhiều mà chỉ xem như một câu chuyện thông thường. Nhưng nó vẫn là một biến cố không thường, đối với các môn đệ và cho cả chúng ta hôm nay.

Chúa biến hình như một khúc nhạc dạo đầu của một bi kịch độc nhất vô nhị trên trần gian sắp diễn ra trên thập tự.

Chúa Giêsu chỉ chọn ba môn đệ mà thôi. Những môn đệ sau nầy sẽ chứng kiến rõ rệt nhất cuộc khổ nạn của Ngài, những trụ cột quan trọng nhất của Giáo Hội. Ngài đã sống giữa các ông như các ông. Xem ra Ngài tầm thường như mọi người trừ những khi Ngài làm phép lạ. Nhưng hôm nay, trên đỉnh núi, Ngài trở nên như một người không còn thuộc về trần thế nầy nữa. Vinh quang của Ngài rực sáng qua y phục của Ngài và có sự hiện diện của hai nhân vật là tiên tri Êlia và ông Môsê đàm đạo với Ngài. Những việc xảy ra gần như vượt xa khỏi tầm hiểu của các môn đệ, vì thế Phêrô ngây ngất vì thấy vinh quang của Thầy, vừa thấy hai nhân chứng quan trọng nhất của Cựu Ước hiện ra.

Ông xin làm ba lều cho Thầy và cho hai nhân vật kia, để ở lại với các Ngài lâu dài. Thời điểm nầy, dân Do thái đang mừng lễ Lều, nhắc lại thời cha ông của họ lưu lạc trong sa mạc, sống dưới lều tạm. Nhưng ý của Phêrô lại khác, vinh quang của Thầy làm ông choáng ngợp và mong ước cất ba lều để kéo dài những giây phút ngất ngây đó. Thánh Maccô không nói rõ là hiện tượng ánh sáng đó kéo dài bao lâu, và cuộc đàm đạo đó ngắn hay dài. Đối với Phêrô và các môn đệ, đây là một kinh nghiệm không thể quên. Sau nầy Phêrô còn nhắc lại trong thư thứ hai của ngài: “chúng tôi đã thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Ngài”.

Phêrô, trong thư thứ hai cũng nhắc đến lều là thân xác với ý nghĩa là chúng ta chỉ sống tạm trong thân xác mà thôi: “Tôi thiết nghĩ: bao lâu còn ở trong cái lều nầy… vì biết rằng sắp đến thời tôi phải bỏ lều nầy…” Khi viết những giòng chữ nầy, chắc thánh nhân cũng nhớ đến ngày nào đó, ông đã xin dựng ba lều cho Chúa và hai vị khách thiên quốc trên đỉnh núi. Giờ đây, ông đã hiểu bài học Chúa Giêsu đã cho ông trên đỉnh núi kia là thân xác chúng ta, dù chỉ là tro bụi, cũng tàng trữ vinh quang mà Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta, khi chúng ta dám theo Ngài lên đỉnh núi vinh quang và theo Ngài cho đến đỉnh núi thống khổ Canvê.

Thánh Phêrô cũng nói đến thị kiến trên đỉnh núi: “Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa là Cha ban cho vinh quang danh dự, khi có tiếng từ trời phán với Người: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hết lòng quí mến”. Tiếng nói đó, chính chúng tôi đã nghe thấy từ trời phán ra, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người. Lời chứng của Phêrô trùng hợp với lời tường thuật của thánh Maccô.

Chính Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là Con Chí Ái của Người. Người Con đó, Chúa Cha đã ban cho chúng ta làm giá chuộc cho chúng ta như thánh Gioan cũng nói: “Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi ban Con Một cho trần gian”. Và hôm nay, Giáo Hội cũng nhắc đến ông Abraham được lệnh Chúa sát tế Isaac, đứa con duy nhất của ông. Một lệnh truyền rất khó thực hiện, nhưng Abraham đã vâng phục. Chúng ta hiểu thế nào là sự vâng phục tuyệt đối của ông. Ông dám vâng phục vì ông đã tin vô điều kiện. Nhưng mệnh lệnh đó đã kết thúc trong niềm vui. Phải chăng đây là hình ảnh của tình yêu vô biên của Thiên Chúa đối với chúng ta. Abraham dâng con một mình cho Thiên Chúa, Thiên Chúa lại trao ban cho chúng ta Con Một của Người. Hai hình ảnh quyện vào nhau để nói lên mối liên hệ thật sâu đậm giữa Thiên Chúa với chúng ta. Chúng ta hiến dâng cho Ngài cái gì quí nhất của chúng ta và ngược lại, chính Ngài lại ban cho chúng ta cái gì quí báu nhất của Ngài, là đứa con một yêu dấu của Ngài.

Chúa Giêsu được trao ban cho chúng ta, chính Chúa Cha đã xác nhận như thế: “Nầy là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ngài là lời nói duy nhất của Chúa Cha. Nghe lời Ngài chính là nghe lời Chúa Cha. Nghe lời Ngài không phải chỉ nghe bằng lỗ tai, cũng không như một tiếng nói, một âm thanh, mà là chấp nhận chính bản thân Ngài vì Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa, vì thế Ngài là sự sống. Tin vào Ngài sẽ được sống. Chúng ta nhận được một quà tặng hết sức quí báu là chính Con Một Thiên Chúa. Ngài đã được trao tặng để sống với chúng ta, và chính Ngài lại gánh vác tội lỗi chúng ta, mang lại cho chúng ta ơn tha thứ và hạnh phúc thiên đàng. Ngài làm người để biến trần gian nầy thành thiên quốc. Nhưng chúng ta không bước theo Ngài, không mấy người tin vào Ngài, không sống như Ngài, làm sao biến trần gian nầy thành thiên quốc được? Nhiều người có thể xem điều nầy chỉ là mơ mộng viễn vông, nhưng chỉ vì họ không thể thực hiện được. Chúng ta có dám sống như Ngài không? Dám hy sinh cái gì quí nhất là bản thân mình để phục vụ Chúa không? Abraham, xưa đã dám liều, và hôm nay cũng có những kitô hữu cũng đang liều mình cho Chúa và anh em trên khắp thế giới. Những người đó mới thực sự là Kitô hữu, là những chứng nhân can đảm cho tình yêu Chúa.

Chúa Giêsu đến trong trần gian, mang thân con người, sống như con người để biến hóa mọi sự. Ngài làm cho trần gian nầy mang một ý nghĩa. Trước tiên, “Ngài sẽ chết cho chúng ta… sẽ biến đổi thân xác hư hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài”. Tất cả thực tại trần gian sẽ mang lấy ánh sáng của Ngài, sẽ được biến hình trong vinh quang như Ngài, chúng ta cũng sẽ được biến đổi như Ngài để thành con ánh sáng. Trần gian đang cần những con người mang ánh sáng vì càng ngày bóng tối của tội lỗi đang phủ lấp thế gian và con người càng lún sâu vào một cuộc sống vô nghĩa, không có ngày mai, không một ánh sáng hy vọng nào.

Hãy mang lấy ánh sáng của tình yêu, như Chúa Giêsu, Chúa chúng ta, Ngài đã đến thắp lên ngọn đèn hy vọng, chúng ta đừng để nó tắt đi.

Mùa Chay chính là lúc chúng ta nhìn về Chúa với tất cả lòng tin cậy, nhìn về tâm hồn chúng ta để hoán cải vì nhiều lúc chúng ta cũng trở thành bóng tối. Chúng ta đã được gọi từ bóng tối đến ánh sáng kỳ diệu của Chúa để thành con cái ánh sáng. Thánh Phaolô cũng nói: “Chúa Giêsu đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái…” Ngài cũng bảo chúng ta hãy mặc lấy khí giới của ánh sáng. Đó chính là ơn gọi của Kitô hữu. Giữa một thế giới mịt mù anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên trời, thánh Phêrô cũng căn dặn như thế.

Chúng ta chỉ có một chọn lựa là theo Chúa chúng ta trên con đường Ngài đã vạch ra cho chúng ta. Phải từ bỏ những hành vi ám muội và sống thánh thiện. Muốn như thế, chỉ có một con đường:đóng đinh con người cũ vào thập giá, đi vào cuộc tử nạn với Chúa.

Nói thì nghe rất dễ, nhưng thực tế không dễ. Chúng ta vẫn thích an nhàn, sống không có vấn đề. Đặt lại vấn đề đã là khó rồi, thực hiện càng cam go hơn. Con đường nên thánh không loại trừ hy sinh và can đảm. Chúa Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, Ngài đã run lên sợ hãi đến nỗi mướt mô hôi máu, nhưng Ngài đã đi đến cùng, vâng phục đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên thập giá. Từ bỏ những tật xấu là một điều ai cũng muốn, nhưng dám can đảm đi đến cùng là một điều không dễ. Chúng ta ngại ngùng, điều đó là điều không thể tránh. Đó là cái giá phải trả. “Xác thịt thì nặng nề”. Chúa không bảo chúng ta ngồi bóng mát ăn bát vàng, mà ngược lại dấn thân quyết liệt vào con đường hoán cải, tín thác vào tình yêu. Chỉ có tình yêu mới đủ sức vực chúng ta dậy để bước tới mỗi ngày.

Chúa Giêsu đã đi đến cùng, đã dám đối mặt với mọi đau đớn nhục hình chỉ vì ngài đã yêu Chúa Cha và Ngài đã chứng minh tình yêu của Ngài bằng sự vâng phục triệt để như thế. Chúng ta không thể nên thánh nếu không biết yêu mến Chúa và yêu mến Chúa chính là giữ lời Người. Đó là điều Chúa Cha đã dạy chúng ta. Đó cũng chính là con đường duy nhất dẫn chúng ta đến hạnh phúc Thiên đàng.

Hôm nay, trong giờ phút nầy, Chúa Giêsu có mặt bằng Tấm Bánh nhỏ, tấm bánh tình yêu. Chỉ vì yêu mà Ngài đã chấp nhận thân phận một chiếc bánh nhỏ. Và chính đó là dấu hiệu rõ rệt nhất của tình yêu vô biên của Ngài. Ngài không từ chối một điều gì để yêu mến chúng ta. Chúng ta từ chối Ngài chăng?

Trong mùa Chay thánh nầy, hãy đến với Ngài thường xuyên, ăn lấy Ngài để cùng với Ngài, trở nên ánh sáng cho trần gian như Ngài đã mong ước.

 

19.Nhìn vào mặt tốt--Lm. Ignatiô Trần Ngà

Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu…

Khi Chúa Giêsu tỏ cho các môn đệ biết Người phải lên Giê-ru-sa-lem để chịu khổ hình và chịu chết, các môn đệ cảm thấy rúng động tâm hồn!

Không lẽ cuộc đời của Thầy Giêsu lại kết thúc bi đát đến thế ư?

Đã bao lần họ mơ tưởng đến một tương lai huy hoàng khi được ngồi bên tả, bên hữu vua Giêsu trong vương quốc vinh hiển của Người; lẽ nào giấc mộng vàng đó lại sớm tan thành mây khói? Nếu Chúa Giêsu mà còn phải chịu số phận oan nghiệt như thế thì số phận các ông rồi sẽ ra như thế nào đây?

Không chấp nhận viễn ảnh đen tối ấy, ông Phêrô kéo riêng Chúa Giêsu ra và lên tiếng trách móc, tìm cách can gián để Người đừng đón nhận sứ mạng đau thương ấy (Mc 8, 32).

Để củng cố tinh thần các môn đệ đang sa sút trước tin chẳng lành vừa loan báo, “sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông … tới một ngọn núi cao. Rồi Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Và ba môn đệ thấy ông Ê-li-a cùng ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.”

Bấy giờ tinh thần ba môn đệ hết sức phấn chấn. “Ông Phêrô thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Mô-sê, và một cho ông Ê-li-a.”

“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”

Thế là nhờ chứng kiến sự vinh hiển của Chúa Giêsu trong giờ phút vinh quang của Người trên núi cao, ít nữa có môn đệ Gioan vững bước theo Chúa Giêsu đến cùng trên đường khổ nạn.

* * *

Đời người có mặt tối và mặt sáng, có mặt tốt và mặt xấu, có mặt phải và mặt trái, có lúc phấn khởi vui tươi cũng có những lúc ủ dột ưu sầu.

Cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối. Mặt tối là đêm vườn Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt đen tối, mặt u ám của đêm vườn Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính hèn yếu của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng của Người trên núi cao thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các vị đào tẩu hết, lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng cứu độ?

Vì thế, Chúa Giêsu cho các ông thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ông thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho họ thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm vườn Dầu sắp đến.

***

Ngôi nhà nào cũng có mặt trước mặt sau. Nếu người ta chỉ nhìn mặt sau tồi tàn của ngôi nhà mà không nhìn mặt tiền hoành tráng của nó, người ta sẽ thất vọng vì nó.

Tấm huy chương nào cũng có mặt trái mặt phải. Nếu chỉ biết mặt trái sần sùi của tấm huy chương mà không để mắt đến mặt phải vinh hạnh của nó, thì người ta sẽ xem thường nó.

Hoa hồng rất đẹp và kiêu sa nhưng cũng đầy gai. Nếu người ta chỉ chú trọng đến những gai nhọn của hoa hồng mà không để ý đến sắc hương tuyệt vời của nó thì hoa hồng chẳng còn gì hấp dẫn.

Đối với người anh em chung quanh cũng thế. Mỗi người đều có mặt sáng và mặt tối, mặt tốt và mặt xấu. Không ai hoàn toàn tốt, chẳng ai hoàn toàn xấu. Nếu chúng ta chỉ nhìn vào mặt đen tối của một con người, mà quên đi mặt sáng của họ; nhìn vào nhược điểm mà quên đi ưu điểm, thì chúng ta sẽ rất thất vọng về người đó.

Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm vườn Dầu và đêm khổ nạn, là bài học cho chúng ta trong tương quan với người khác.

Nhờ ngắm nhìn cụm hoa hồng rực rỡ kiêu sa và thưởng thức hương thơm dịu dàng của nó, người ta quên đi những gai nhọn đáng phàn nàn của nó.

Ước gì chúng ta cũng biết nhìn vào điểm sáng, điểm tốt, vào ưu điểm của người khác để dễ dàng cảm thông với những mặt trái, mặt xấu của họ.

Nhờ đó, chúng ta cảm thấy những người quanh dễ thương hơn; tương quan của ta với người khác được cải thiện tốt hơn và đời sống giữa chúng ta với nhau sẽ hạnh phúc hơn.

 

20.Từ Tabor đến Golgotha--‘Như Thầy Đã Yêu’--Thiên Phúc

Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:

Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”. Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.

Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:

- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!

Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:

- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?

Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.

***

Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.

Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.

Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.

Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.

Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.

Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.

Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.

Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.

Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện: “Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.

***

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.

 

21.Hai khuôn mặt một tình yêu--‘Niềm Vui Chia Sẻ’

Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tuỳ sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.

Một linh mục tên là Gaêtanô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, cha Gaêtanô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.

Với một thân mình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, cha Gaêtanô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồi côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của cha Gaêtanô.

Thưa anh chị em,

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài cha Gaêtanô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha, cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu cuả Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Tabo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ơ giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác âý chịu lăng nhục vào đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: “Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao? (Rm 8,32). Nếu Thiên Chuá đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn con mình đến thật giá trên núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cho sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự biến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.

Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: “Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa”. Người con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang phục sinh. Cảnh tượng huy hoàng của núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, “người Cha của mọi kẻ có lòng tin” đã lấy chính cuộc đời mình làm sáng tỏ định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ ó thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các Kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Gaêtanô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu, “Người Con Một yêu quý của Cha, người đẹp lòng Cha”, đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ thuở nơi Chúa Cha, để hoá thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.

Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gằng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta,góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.

 

22.Chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình, vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.

Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu. “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho” (St 22, 2). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng thật ra đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.

Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo “như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển”. Tình yêu thật diệu kỳ. Một lẽ như nhiên, vì “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1Ga 4,8). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? (x.Rm 8,32).

Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng khả tín.

Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. “Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới”.

Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.

Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó “bản thể của Đấng là Tình Yêu”, thì Phêrô đã lên tiếng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”(Mc 9,5). Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.

“Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9,7). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 14,24). “ Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,12). “Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó” (Mt 7,12).

Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.

 

23.Hãy tỏ mình là hình ảnh Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Người xưa có câu: "chọn mặt gửi vàng". Nghĩa là để tin tưởng một ai cũng cần xem mặt, xem hoàn cảnh, gia cảnh người đó để đánh giá về họ có đáng tin hay không? Thế mà, vẫn sai lầm. Vẫn chọn sai người. Vì "Sông sâu còn có kẻ dò - Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng".

Vâng, lòng người nham hiểm hơn núi sông, biết người còn khó hơn dự đoán thời tiết. Thời tiết còn có xuân hạ thu đông và sáng - trưa - chiều - tối, còn con người, giữa mảng tối và sáng thật khó phân biệt. Thời tiết còn có hiện tượng bên ngoài để suy đoán những điều sẽ xảy ra, còn lòng người vẫn cò thể đóng kịch đến mức độ "nói vậy mà không phải vậy". Có ai đó nói không ngoa rằng: con người là một diễn viên tài ba nhất, vì họ có thể đóng kịch để lừa dối nhau suốt cả đời mà vẫn không bại lộ. Thực vậy, có người bên ngoài ôn hậu hiền lành, trong lòng lại kiêu căng ngạo mạn, không có việc gì lợi mà không dám làm; có người bộ dạng như quân tử, thực ra là tiểu nhân; Có người bên ngoài nhu mì, nhưng nội tâm cương trực; Có người xem có vẻ kiên trinh, thực tế lại nhút nhát. Điều này cho thấy con người thật phức tạp, khó mà biệt được thực hư một người.

Có lẽ mỗi người trong chúng ta đều nghe biết về Chí Phèo trong truyện của Nam Cao. Chí Phèo là đứa con hoang, được mô tả là một người dị dạng, một tên lưu manh, nát rượu chuyên rạch mặt ăn vạ và sẵn sàng sinh sự với mọi người. Chí Phèo là kẻ trên không sợ Trời, dưới không sợ người. Người ta tránh Chí Phèo hơn tránh ôn dịch. Chí Phèo đem lòng yêu Thị Nở. Thị Nở là một cô gái xuất thân từ một nhà có mả hủi, tuổi đời ngoài 30, dở hơi, nghèo và rất xấu. Xấu ma chê quỷ hờn. Xấu đến nỗi người ta tránh thị như tránh một con vật rất ghê tởm.

Ấy vậy mà cả hai con người ấy vẫn nhận ra bản chất tốt đẹp của nhau. Thị Nở thấy Chí Phèo là một người hiền lành. Hiền như đất. Vẫn thường cho Thị xin lửa và có lần con cho Thị xin rượu về bóp chân. Ngược lại, Chí Phèo cũng thấy Thị Nở là một người có duyên. Thị Nở đã biết nấu cháo hành nóng cho Chí Phèo ăn, giúp cho Chí Phèo tỉnh cơn say và làm sống lại nơi Chí Phèo ý thức về sự lương thiện của bản thân mình.

Cuộc sống con người luôn phức tạp. Phức tạp đến nỗi khó lòng đánh giá nhau từ bên ngoài. Thực tế, vẫn có những người thân phận chẳng ra gì như Chí Phèo và Thị Nở, bị coi là cặn bã và thậm chí là quái thai của xã hội. Thế nhưng, ngay cả nơi những con người ấy bản chất tốt đẹp mà Thiên Chúa đã trao ban cho họ vẫn không hư đi, khả năng nhận ra những điều tốt đẹp nơi người khác của họ cũng không mất đi. Vì thế, không gì có thể khiến chúng ta tuyệt vọng về con người. Con người vốn là hình ảnh của Thiên Chúa. Là tinh hoa của trời đất. Là chóp đỉnh của quá trình sáng tạo vũ trụ và vạn vật. Con người dù tội lỗi mấy đi chăng nữa, cũng không thể xoá nhoà hình ảnh của Thiên Chúa nơi mình. Con người dù tha hoá mấy đi chăng nữa, cũng không thể huỷ hoại bản chất tốt đẹp của mình. Con người dù có bị dục vọng thống trị mấy đi chăng nữa, cũng vẫn không ngừng toả sáng bản chất của mình là "nhân linh ư vạn vật".

Vâng, con ngừơi chúng ta được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa. Không ai xấu, vì khi tạo dựng, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Bản tính giống hình ảnh Thiên Chúa vẫn còn nơi con người đó. Họ làm việc xấu chứ con người họ vẫn cao qúy, vẫn mang phẩm giá làm người, thế nên ta vẫn phải yêu thương và tôn trọng. Hãy yêu thương để giúp họ phục hồi phẩm gia cao đẹp của con người mà bấy lâu nay họ bị phủ lấp bằng tội lỗi và đam mê. Bên cạnh đó, có những người có thể rất xấu về diện mạo nhưng tâm hồn họ lại thanh cao. Họ có thể là những con người có "duyện lặn vào trong" dầu rằng bên ngoài chẳng có gì hay ho.

Như thế điều quan yếu là hãy biết nhận ra điều tốt nơi nhau. Cho dù họ có xấu đến đâu, mình vẫn có thể tìm ra điều tốt nơi họ. Hơn nữa, nhân vô thập toàn. Ai trong chúng ta mà không bị tội lỗi, tật xấu, đam mê mù quáng làm mất đi hình ảnh đẹp trong lòng anh em hay trước mắt mọi người. Mỗi người chúng ta đều cần người khác đánh giá tốt về mình thì chính chúng ta cũng hãy nói tốt và nghĩ tốt với tha nhân.

Khi Chúa hiển dung trong bản tính Thiên Chúa để củng cố niềm tin nơi các tông đồ. Ngài cũng nhắc nhở chúng ta cũng phải biết tỏ ra phẩm giá cao quý nơi mỗi người chúng ta là hình ảnh Thiên Chúa qua cách đối như con cái sự sáng để tạo niềm tin nơi nhau. Đồng thời cũng phải biết tôn trọng nhau vì đều được tạo dựng giống hình ảnh Người. Chúa Giêsu Ngài hoà nhập vào đời nhưng Ngài không đồng hoá mình như bao tội nhân. Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Con người chúng ta không thể đồng hoá mình với con vật như thuyết Duy Vật đã nói, để rồi sống theo bản năng, chiều theo tính xác thịt nhưng luôn biết chế ngự tính xác thịt nơi bản năng con người. Chúa hiển dung là lời mời gọi chúng ta hãy toả sáng hình ảnh của Chúa trong đời sống của mình khi thống trị tật xấu và đam mê. Hãy chế ngự tính hư nết xấu trong con người cùa mình. Hãy để hình ảnh Chúa tỏ hiện nơi chúng ta qua đời sống thanh sạch, công bằng, bác ái và yêu thương. Con người không thể là con vật thuần tuý vì con người không chỉ có thể xác mà còn có hồn thiêng bất tử, nên không thể chiều theo thể xác mà đánh mất linh hồn, hay tự huỷ trong những đam mê tội lỗi. Con người phải hơn con vật khi biết chế ngự tính hư nết xấu, làm theo lẽ phải và hướng về sự thiện.

Ước gì hình ảnh Chúa đừng đánh mất nơi chúng ta. Ước gì hình ảnh Chúa luôn tỏ hiện qua đời sống thanh cao, luôn biết sống theo công lý và tình thương. Xin cho mỗi người chúng ta luôn biết gìn giữ phẩm giá cao đẹp của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Xin đừng để những đam mê mù quáng làm hoen ố hình ảnh tốt đẹp ấy nơi mỗi người chúng ta.

 

24.Thế giới nào là ảo?--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Hôm nay người ta nói nhiều về thế giới ảo. Thế giới của mạng Internet. Thế giới dấu mặt. Thế giới mà con người chỉ biết nhau trong những ảo ảnh wedcam hay do photoshop tạo ra. Thế giới mà người ta có thể đánh lừa nhau qua những phần mềm thông minh. Ở nơi đây chúng ta gặp thấy rất nhiều con người sống hai mặt. Ở trong thế giới ảo họ tha hồ tâng bấc về mình. Họ tha hồ vẽ ra khuôn mặt đáng thương của mình. Ở thế giới ảo rất khác xa với thế giới thật mà họ đang sống. Thế nên, rất nhiều người vỡ mộng. Rất nhiều người bị lừa. Rất nhiều người oan gia vì quá tin người.

Thế giới ảo và thế giới thật khác nhau. Con người ảo và con người thật cũng khác nhau. Nhưng phải chăng chỉ có ở thế giới mạng mới sống ảo, còn cuộc sống hiện thực thì chân thực? Khó mà có câu trả lời chính xác, vì “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm trùng khơi khôn dò”. Thế giới thật vẫn còn đó những người sống ảo. Họ cố gắng che đậy sự thật về mình. Họ sống hai mặt như đồng tiền hai mặt không bao giờ giống nhau. Thế giới thiện – ác. Chân thật-giả dối. Cuộc sống luôn có hai mặt. Con người lại là một diễn viên tài giỏi luôn che đậy những sự thật thầm kín bên trong.

Cuộc sống vốn thật thật giả giả khó phân biệt. Sự thật là thế. Nhưng người sống ảo sẽ không bao giờ hạnh phúc. Lương tâm luôn làm họ buồn bã, lo âu, sợ hãi. Chỉ có “sự thật mới giải thoát chúng ta”. Sống thật mới đem lại niềm vui nội tâm cho tâm hồn. Sống thiếu chân thật chỉ dày vò chúng ta trong bể khổ trần gian.

Cuộc sống của Chúa Giê-su dưới mắt người đời thì hoàn toàn là một người phàm. Vì Ngài đã trở nên giống như con người ngoại trừ tội lỗi. Thế nhưng, Ngài luôn sống thật khi tỏ ra mình là Thiên Chúa. Ngài luôn tỏ mình là người nhưng còn mang bản tính Thiên Chúa. Ngài đã làm nhiều phép lạ phi thường để tỏ mình có quyền năng của Thiên Chúa. Ngài phục sinh kẻ chết. Ngài đe sóng gió biển cả phải im lặng. Đó là những việc ngoài khả năng của con người. Đó là việc của Thiên Chúa mới có thể thắng vượt sự dữ.

Hôm nay trên núi Tabor, Chúa còn tỏ rõ nét hơn về dung nhan của Ngài là Thiên Chúa. Một Thiên Chúa thánh thiện vô cùng. Một Thiên Chúa quyền năng. Một Thiên Chúa uy nguy đến độ các môn đệ say xưa chiêm ngắm Người. Phê-rô đã bộc trực nói lên suy nghĩ của mình. Ông ao ước được chiêm ngắm dung nhan Thầy như lúc này mãi mãi. Ông bảo rằng: “Ở đây thì tốt quá, xin cho con làm 3 lều, một cho Thầy, một cho Mô-sê và một cho Ê-li-a”. Phúc âm bảo rằng, ông nói nhưng chẳng biết tại sao mình nói, vì ông quá ngất ngây trước dung nhan hiển linh của Thầy.

Cuộc sống người ky-tô hữu cũng đẹp biết bao khi chúng ta sống thật với căn tính của mình. Căn tính của người ky-tô hữu là yêu thương. Yêu thương không ngăn cách với mọi hạng người. Yêu thương không xa lánh bất kỳ ai, kể cả kẻ thù. Yêu thương để hòa nhập với mọi khổ đau, bất hạnh của anh em để cảm thông, liên đới và sẻ chia. Đó là cách sống mà Chúa bảo: “Người ta cứ dấu này nhận biết các con là môn đệ Thầy là hãy yêu thương nhau”.

Xin cho chúng ta luôn biết sống chân thật trước mặt Chúa và tha nhân. Sự chân thật giúp chúng ta sống đúng với căn tính của mình. Sự chân thật sẽ mang lại niềm vui và hạnh phúc cho chúng ta. Amen.

***

Qua hiện tượng đáng buồn của người Việt trong cái tết nguyên đán. Xin được chia sẻ thêm về hiện tương này với ước mong mang lời Chúa canh tân cách sống của con người hôm nay theo chủ để Lễ Chúa Hiển Dung.

Hình ảnh bất thường của người Việt

Một mùa xuân nữa đã qua đi. Mùa xuân qua đi thường để lại một lưu luyến nhớ xuân, một niềm vui trọn vẹn ngày xuân. Nhưng mùa xuân này để lại cho chúng ta một nỗi buồn về con người, về tình người đã mất, về phẩm chất người dân Việt hiền lành nay đang đánh mất.

Theo báo cáo của bộ Y tế cho biết, trong dịp Tết Nguyên đán vừa qua, đã có hơn 6.000 người phải vào viện do đánh nhau, và đã có 15 người tử vong. Chuyện lạ là năm nay mới có thêm tổng kết về nhập viện do đánh nhau. Đây thực sự là tai họa, vì do chính con người chủ động gây ra cho anh em mình. Nó là một báo động đỏ về tình trạng bạo lực leo thang trong xã hội. Ngay trong những ngày tết, là những ngày mà lẽ ra, người Việt mình phải cư xử với nhau một cách hài hòa nhất, thân thiện nhất. Ngày tết, gặp nhau là chúc vạn sự lành, trăm điều tốt đẹp trong năm mới. Nhiều mắc mớ, trắc trở, mâu thuẫn trong năm cũ cũng được mọi người chủ động dẹp bỏ, gác sang bên trong ba ngày tết. Nhưng xem ra điều này đã không còn đối với một bộ phận không nhỏ người Việt Nam.

Trước thực trạng trên, có người đã viết trên facebook: “Việt Nam phải vui Tết cách khác, không thể vui Tết mà chết, bị thương nhiều, kẹt xe, bị móc túi... nhiều như thế này. Xã hội bị tổn thất lớn về nhân lực, bị tổn thương về tâm lý và bệnh viện quá vất vả về những thương tật không đáng có”.

Bạo lực là xấu. Nhưng vì sao nó lại xảy ra quá nhiều trong ba ngày tết – thời gian dành cho sự tốt đẹp và an lành? Đó là điều chúng ta, từ người dân tới các cơ quan công quyền, cần suy nghĩ một cách nghiêm túc về những “hiện tượng lạ” ấy.

Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ..., là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm...

Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?

Nếu con người biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ nghĩ mình là con vật nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.

Hôm nay, lễ Chúa Hiển Dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa được tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại  hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Và xin cho chúng ta biết sống đúng bản chất của hình ảnh Thiên Chúa là tình yêu và biết sống cho tình yêu. Amen.

 

25.Thôi đừng đầy đọa nhau--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Có một câu chuyện ngụ ngôn kể rằng: Ngày xưa thỏ và sư tử sống gần nhau, nhưng sư tử rất kiêu ngạo, vẫn cho mình là to khoẻ nên xem thường loài thỏ. Sư tử thường mắng thỏ và doạ nạt thỏ suốt ngày. Thỏ tức mình không chịu nổi mới nghĩ ra cách báo thù.

Một lần kia nó nói với sư tử rằng:

- Thưa ông anh, em vừa gặp một thằng to lớn và trông giống anh lắm. Nó bảo em rằng: “Trên đời này nó chưa sợ ai, và cũng chưa ai dám đối mặt với nó”. Thằng cha này không coi ai ra gì cả!

Sư tử tức giận và bảo rằng: “Thế mày có nhắc đến tên tao không?”

- Thỏ trả lời: Sao lại không? Em vừa nhắc đến tên anh thì nó lồng lộng lên và bảo rằng anh chỉ đáng đàn em nó thôi.

Sư tử càng tức điên người lên và hỏi: Nó ở đâu? dẫn tao đến ngay.

Thỏ liền dẫn sư tử ra sau núi, và chỉ một cái giếng ở đàng xa và bảo: Đấy, nó ở trong đó đấy!

Sư tử đi lại gần giếng vẻ mặt căm tức nhìn xuống đáy giếng. Quả thực, nó trông thấy ngay một tên, với cặp mắt giận dữ đang trừng trừng nhìn nó. Sư tử rống lên một tiếng, tên kia cũng rống lên một tiếng. Sư tử xù lông cổ lên tên kia cũng xù lông cổ lên. Sư tử nhe nanh múa vuốt đe doạ, tên kia cũng hăm dọa lại. Sư tử căm tức đến tột độ dồn hết sức mình nhảy phốc xuống giếng để cho thằng khốn nạn kia một trận. Thế là, con sư tử ngạo mạn tự huỷ diệt đời mình dưới giếng sâu...

Thất bại của sư tử là không nhận ra mình nên đã lao vào cắn xé chính hình ảnh của mình. Sư tử chỉ muốn nhất. Sư tử chỉ muốn làm bá chủ nên sẵn sàng loại trừ tất cả các đối thủ có nguy cơ nguy hại đến vị trí số 1 của mình.

Con người là hình ảnh Thiên Chúa, nhưng đáng tiếc là nhiều người đã không nhận ra điều đó. Họ không nhận ra hình ảnh mình nơi tha nhân để có thể yêu mến tha nhân như chính mình. Họ đòi được tôn vinh, được bá chủ nên sẵn sàng cắn xé chính đồng loại của mình.

Đạo đức xã hội hôm nay đang ở mức đáng báo động. Báo động bởi những hành vi bạo lực về tinh thần, thể xác, tình dục cứ nhan nhản trên đường phố, trước cổng trường và trong từng gia đình. Chỉ cần một ánh mắt ngó thấy ghét, một câu nói nghe không lọt tai, một vụ va quệt nhỏ..., là người ta đã có thể rần rần kéo nhau đi chém giết, cướp đi sinh mạng của người khác dễ dàng như lấy một món đồ trong túi. Cha mẹ hành hạ con như kẻ thù; trò đánh thầy; Thầy lạm dụng trò, bảo mẫu tra tấn con trẻ, dán băng keo bịt mồm cho đến chết; đồng môn đồng lớp hở chút là lấy dao đâm... Thậm chí trong hai tháng vừa qua có đến 3 vụ vào tận bệnh viện Thống Nhất để thanh toán cả những người đang nằm cấp cứu!

Dường như con người hôm nay đang đối xử với nhau quá hung hãn, và tình người, lòng nhân ái đã trở thành một thứ hàng hiếm giữa thời buổi này? Những bài giáo dục công dân ở đâu hết rồi? Con người có còn nhớ mình là “hoạ ảnh của Thiên Chúa” hay đã quên đi căn tính thực của mình?

Nếu con người của mọi thời đại biết nhìn nhận mình là hình ảnh của Thiên Chúa và mọi người là anh em với nhau, sẽ có những cách hành xử tốt với nhau hơn. Nếu con người nhận ra hình ảnh Chúa nơi tha nhân, chắc chắn sẽ không đối xử tàn bạo với nhau. Nhưng tiếc thay, nhiều người chỉ muốn làm chúa sơn lâm nên lao đầu vào cắn xé đồng loại, hành hạ đồng loại của mình và sẵn sàng làm đủ trò để loại trừ đồng loại.

Hôm nay, Chúa hiển dung nghĩa là Chúa tỏ hiện đúng dung nhan thật của Ngài. Một dung nhan thánh thiện rạng ngời mà bấy lâu nay nhân tính đã che phủ thiên tính của Ngài. Một dung nhan tinh tuyền của một vì Thiên Chúa là Thánh, ngàn trùng chí thánh đến nỗi cả ba môn đệ đều ngây ngất vì được chiêm ngắm dung nhan thật của Thầy Giêsu. Ba môn đệ đã cúi mình kính phục trước dung nhan thật của Chúa Giêsu. Đó chính là sứ điệp mà mùa chay đang mời gọi chúng ta: hãy tỏ hiện dung nhan thật của chúng ta là hình ảnh của Thiên Chúa ra trong lời nói và việc làm của mình. Hãy thể hiện sự thánh thiện của hình ảnh Thiên Chúa nơi chính mình để anh em được chiêm ngưỡng. Hãy biểu lộ lối sống tinh tuyền, chân thật của phẩm giá làm ngừơi để anh em được hạnh phúc khi sống với chúng ta.

Mùa chay là mùa mời gọi chúng ta hãy tìm lại hình ảnh ban đầu của tạo dựng. Hãy gạn đục khơi trong để hình ảnh của Chúa luôn tỏ hiện ra nơi bản thân của chúng ta. Hãy tìm lại hình ảnh tinh tuyền ban đầu của mình, một hình ảnh chưa bị lòng ham muốn danh lợi thú làm hoen ố, mới thấy phẩm giá cao đẹp của con người thật cao qúy hơn muôn loài. Có ý thức được sự cao qúy nơi phẩm giá làm người mới biết trân trọng và gìn giữ cho mình và cho anh em. Phẩm giá con người cao qúy hơn mọi danh lợi thú trần gian, thế nên đừng bao giờ vì một chút bổng lộc trần gian, một chút vui sướng mau qua mà đánh mất phẩm giá của mình và làm tổn thương đến phẩm giá của tha nhân.

Xin Chúa giúp chúng ta can đảm tẩy rửa những bợn nhơ tội lỗi làm hoen ố lương tri, và xin Chúa thêm ơn trợ giúp để chúng ta luôn gìn giữ nét đẹp nơi phẩm giá làm người của mình và của tha nhân. Amen.

 

26.Tuân phục--Trầm Thiên Thu

Tuân phục là vâng lời, còn gọi là thanh tuân. Vâng lời là nhân đức quan trọng: “Vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ” (1 S 15:22). Vâng lời là một trong ba (hoặc bốn, hoặc năm, tùy dòng) lời khấn của các tu sĩ: Vâng lời, khó nghèo, khiết tịnh (thanh tuân, thanh bần, thanh tịnh). Con cái phải biết vâng lời cha mẹ, người nhỏ phải biết vâng lời người lớn, nhân viên phải biết vâng lời giám đốc,… Nếu không vâng lời thì mọi thứ sẽ đảo lộn. Tất nhiên vâng lời phải theo nghĩa tích cực, không thể vâng lời khi người trên dạy làm điều sai trái hoặc độc đoán.

VÂNG LỜI TUYỆT ĐỐI

Trình thuật St 22:1-2.9-13.15-18 kể chuyện về đức vâng lời của tổ phụ Ápraham.

Sau nhiều chuyện, Thiên Chúa lại thử lòng ông Ápraham. Người gọi ông: “Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người phán: “Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Ixaác, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho”.

Ông Ápraham chỉ có một đứa con trai yêu dấu, mà theo tục lệ Do Thái, “anh Hai” rất quan trọng vì là con thừa tự và có quyền trưởng nam, thế mà Chúa lại bảo dâng đứa con đó làm lễ toàn thiêu. Căng quá! Thế nhưng ông Ápraham không hề so đo, không hề thắc mắc, không hề nghi ngờ, không hề tiếc, mà ông còn mau mắn tuân phục lời Chúa dạy.

Tới nơi Thiên Chúa đã chỉ, ông Ápraham dựng bàn thờ tại đó, xếp củi lên, trói Ixaác con ông lại, và đặt lên bàn thờ, trên đống củi. Rồi ông Ápraham đưa tay ra cầm lấy dao để sát tế con mình. Gay cấn quá! Nhưng sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông: “Ápraham! Ápraham!”. Ông thưa: “Dạ, con đây!”. Người nói: “Đừng giơ tay hại đứa trẻ, đừng làm gì nó! Bây giờ Ta biết ngươi là kẻ kính sợ Thiên Chúa: đối với Ta, con của ngươi, con một của ngươi, ngươi cũng chẳng tiếc!”.

Thật tuyệt vời! Ông Ápraham ngước mắt lên nhìn, ông thấy phía sau có con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây. Ông Ápraham liền đi bắt con cừu ấy mà dâng làm lễ toàn thiêu thay cho con mình. Sứ thần của Đức Chúa từ trời gọi ông Ápraham một lần nữa và nói: “Đây là sấm ngôn của Đức Chúa, Ta lấy chính danh Ta mà thề: Bởi vì ngươi đã làm điều đó, đã không tiếc con của ngươi, con một của ngươi, nên Ta sẽ thi ân giáng phúc cho ngươi, sẽ làm cho dòng dõi ngươi nên đông, nên nhiều như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển. Mọi dân tộc trên mặt đất sẽ cầu chúc cho nhau được phúc như dòng dõi ngươi, chính vì ngươi đã vâng lời Ta”.

Càng tin tưởng thì người ta càng có thể mau mắn vâng lời. Tác giả Thánh vịnh bộc bạch: “Tôi đã tin cả khi mình đã nói: “Ôi nhục nhã ê chề!” (Tv 116:10). Bị nhục nhã ê chề mà còn tin ư? Thật khó quá! Thật thế, thường thì chúng ta chỉ tạ ơn Chúa khi mình được ơn này, ơn nọ, vì thấy “hợp ý mình”, còn nếu “trái ý mình” thì chắc hẳn chúng ta không muốn tạ ơn Chúa, cho vậy là “phi lý”, thậm chí có người còn có thể trách Chúa! Tuy nhiên, nếu suy cho thấu đáo, chúng ta sẽ khả dĩ chân nhận tất cả đều là Hồng ân Thiên Chúa, vì “thân này là tôi tớ Ngài, con của nữ tỳ Ngài, xiềng xích trói buộc con, Ngài đã tháo cởi” (Tv 116:16). Do đó, chúng ta càng phải biết “dâng lễ tạ ơn, và kêu cầu thánh danh Đức Chúa” (Tv 116:17). Vâng lời và tạ ơn Chúa không chỉ là bổn phận mà còn là niềm hãnh diện và hạnh phúc của chúng ta.

Trong Rm 8:31-34, thánh Phaolô đặt ra một loạt câu hỏi: “Vậy còn phải nói gì thêm nữa? Có Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn chống lại được chúng ta? Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta. Một khi đã ban Người Con đó, lẽ nào Thiên Chúa lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? Ai sẽ buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa, Đấng làm cho nên công chính? Ai sẽ kết án họ? Chẳng lẽ Đức Giêsu Kitô, Đấng đã chết, hơn nữa, đã sống lại, và đang ngự bên hữu Thiên Chúa mà chuyển cầu cho chúng ta?”.

Những câu hỏi đó lại chính là những câu trả lời rạch ròi và chính xác. Đúng là không phải nói gì thêm!

HẠNH PHÚC MIÊN MAN

Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo tới một ngọn núi cao. Bỗng nhiên Ngài biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Ngài mặc trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy. Các ông còn thấy có ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu. Các ông được thấy “hiện tượng lạ” không chỉ là người “may mắn” mà còn là người có trọng trách nặng nề hơn. Tặng phẩm nào cũng gắn liền với trách nhiệm nào đó, như tục ngữ Việt Nam nói: “Cây càng cao, gió càng rung”.

Ông Phêrô thấy vậy, quá phấn khởi, nên ông thưa với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia” (Mc 9:5). Vừa kinh hoàng vừa hạnh phúc tột đỉnh vì được “nếm thử” vinh quang Thiên đàng, ông Phêrô không còn nhớ đến hai anh bạn bên cạnh và quên cả chính mình, chỉ muốn dựng lều cho Chúa Giêsu, cho ông Môsê và ông Êlia mà thôi.

Bỗng có đám mây bao phủ các ông, và có tiếng nói vọng ra: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Chính Thiên Chúa truyền dạy chúng ta vâng lời Đức Kitô, vì Ngài vừa là Con “cưng” của Chúa Cha vừa tuyệt đối vâng lời. Điều đó chứng tỏ Thiên Chúa rất quý trọng đức vâng lời.

Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi. Hẳn là các ông còn dư âm niềm hạnh phúc ấy và chắc là tiếc những giây phút kia lắm. Ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó nên giữ bí mật riêng, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Con người thật yếu đuối, vừa thấy nhãn tiền vinh quang Nước Trời mà vẫn chưa đủ lòng tin!

Lạy Chúa, xin giúp chúng con biết sống khiêm nhường và vâng lời, đồng thời xin thêm đức Tin, đức Cậy và đức Mến cho chúng con, để chúng con làm đẹp lòng Chúa là vui lòng tha nhân. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Thánh Tử Yêu Dấu của Cha, Đấng cứu độ chúng con. Amen.

 

27.Đức Tin cột trói chúng ta--Peter Feldmeier--Văn Hào, SDB chuyển ngữ

Này là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người (Mc 9,7)

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay dường như có vẻ thách đố chúng ta. Bài đọc thứ nhất kể lại câu truyện Chúa nói với Abraham hãy đem Isaac con của ông lên núi để sát tế. Abraham đã tuân theo chỉ lệnh của Chúa. Isaac chẳng nghi ngờ gì, đã cùng với cha bắt đầu cuộc hành trình. Hai cha con đi suốt ba ngày đường trèo lên núi cao. Đến nơi, Abraham cột trói Isaac lại, và đang dự định giết con để tế lễ. Khi ông toan tính làm như thế, một sứ thần đã hiện ra và cầm giữ tay ông lại. Thần sứ nói với ông rằng Thiên Chúa rất hài lòng vì ông đã vâng lời Ngài: “Vì ngươi đã vâng phục Ta, không tiếc đứa con trai thừa tự duy nhất mà ngươi rất quý mến, nên Ta sẽ chúc lành cho ngươi và hứa cho dòng giống ngươi trở nên đông đúc.”

Chúng ta phải đọc câu truyện trên đây dưới lăng kính truyền thống Do Thái giáo và cả truyền thống Kitô giáo. Có nhiều cách cắt nghĩa khác nhau, nhưng những diễn giải dường như vẫn chưa lột tả được trọn vẹn ý nghĩa sâu xa của bản văn. Một số nhà chú giải sánh ví Thiên Chúa như một vị thần chuyên thử thách. Họ còn đặt vấn đề xa hơn, liệu Thiên Chúa còn thử thách Abraham đến mức độ nào, khi truyền lệnh cho ông cầm dao giết đứa con ruột của mình? Một số khác lại đọc thoáng qua câu truyện và tự hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại ra một lệnh truyền quái ác và nghịch thường như vậy, vì người Do Thái không bao giờ được phép giết con mình để tế thần, không giống như các dân ngoại vẫn thường làm. Triết gia Kieerkegard lại có một cái nhìn khác khi ông kết luận “Đức tin nếu chỉ khởi phát từ một ý thức thuần mang tính luân lý với sự vâng lời tối mặt, thì đó chỉ là đức tin mù quáng và xuẩn ngốc’’. Cả ba nhận định trên đây đều phiếm diện và không thấu triệt tường tận câu truyện mà Kinh thánh trình bày. Cách lý giải thứ nhất chỉ phác vẽ Thiên Chúa như một Đấng cao ngạo ở tít trên cao, thích thử thách con người, đến mức độ cách hành xử của Ngài giống hệt một cuộc tra tấn hay khủng bố. Về cách giải thích thứ hai, chúng ta cũng thấy không hơp lý chút nào. Câu truyện quả thực không hề muốn nêu lên sự tương phản giữa đức tin và luân lý. Tôi cũng muốn nói rằng, chúng ta đừng xem đức tin như một thái độ mù quáng và ngốc ngếch, vì đức tin và lý trí không hề đối kháng hay loại trừ nhau. Abraham đã không mù quáng khi thực thi điều Chúa muốn như nhiều người lầm tưởng. Ngày nay, nếu có ai ra lệnh cho chúng ta là phải dùng dao giết con, thì chắc chắn chúng ta sẽ gọi cảnh sát ngay lập tức. Thiên Chúa của chúng ta không độc ác như thế đâu.

Thế thì câu truyện trên muốn nói cho chúng ta điều gì? Chúng ta hãy đan nối với truyền thống Do Thái giáo để hiểu nội dung một cách sâu xa hơn. Vấn đề ở đây không phải là Abraham có ý định sát tế Isaac, nhưng ông chỉ muốn tuân hành ý Chúa cách triệt để. Ông cột trói Isaac và hiến dâng cho Chúa, không hề tiếc nuối và giữ lại cho mình. Đây là một thái độ vâng phục trọn vẹn trong đức tin. Qua hình tượng Isaac, tổ phụ Abraham đã trói buộc mình và dòng dõi của mình vào chính Thiên Chúa và vào lời hứa của Ngài. Hành động này không phải là nhằm giải quyết công việc trước mắt, cụ thể là việc giết đứa con đặt lên bàn để tế lễ. Nhưng động thái của tổ phụ Abraham mang chiều kích linh thánh, một hành vi biểu tỏ đức tin, và dẫn đưa đến một chân trời rộng mở hơn, đó là chân trời của lời hứa.

Bài học ở đây, là khi chúng ta biểu tỏ đức tin, chúng ta cột trói mình (như Abraham cột trói Isaac) vào với Thiên Chúa, tự nguyện “trao nộp”chính chúng ta trong bàn tay của Thiên Chúa, thì đáp lại, Thiên Chúa cũng sẽ trói buộc Ngài trong giao ước với chúng ta, và Ngài sẽ hiến trao tất cả cho chúng ta, vì Thiên Chúa luôn trung thành với giao ước mà Ngài đã cam kết.

Đây là sự cột trói song phương, giữa chúng ta và Thiên Chúa.

Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô cũng gợi mở cho chúng ta am tường về sự trói buộc lưỡng chiều này. Thánh nhân viết “ Nếu Thiên Chúa bênh đỡ chúng ta, ai còn có thể chống lại được chúng ta” (Rm 8, 31b). Tiếp nối suy tư này, Thánh Phaolô tiếp tục đưa dẫn chúng ta đến một bản hòa điệu song đối với những câu hỏi và những thách đố được gợi ra. Ngài viết: “Vì tôi thâm tín rằng, dù sự chết hay sự sống, dù thiên thần hay ma vương quỷ lực, hiện tại hay tương lai hoặc bất cứ sức mạnh nào,… không có gì có thể tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô Chúa chúng ta (Rm 8,38-39). Đây là hình mẫu sự cột trói thâm sâu giữa chúng ta và tình yêu Thiên Chúa.

Bài Tin mừng hôm nay dẫn mời chúng ta thông dự vào cuộc biến hình của Đức Giêsu. Ở trên núi cao, ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đã mục kích vinh quang của Đức Giêsu khi Ngài đàm đạo với Môisê và Elia. Hai vị ấy là biểu thị cho lề luật và các ngôn sứ, như được nhắc đến trong lời kinh tổng nguyện của phụng vụ hôm nay. Tuy nhiên cả hai vị này đều có liên hệ đến những biến cố rất ý nghĩa trong cựu ước. Môise và Êlia đều đã tiếp cận trực tiếp Đức Chúa Giavê trên núi Sinai (Xh 24,1,19). Đồng thời, cả hai ông đều gợi nhắc về Đấng Messia, Đấng sẽ đến cứu chuộc dân người. Êlia được đặc cách để tiên báo về đấng Messia và ông cũng chính là người dọn tâm hồn cho dân chúng trước khi ngày của Đức Chúa khởi sự (Mal 3,23). Còn ông Môisê, vào thời của Chúa Giêsu, người ta vẫn có truyền thống xem ông, giống như vai trò của Êlia, người đã đạt đến sự viên toàn của sự đợi chờ Đấng Mesia ở trên nước trời. Vì thế, giây phút Chúa biến hình trên núi Tabor, cũng mang chở một chiều kích cánh chung, và tiên báo sự viên thành giao ước mà Chúa đã ký kết trên núi Sinai năm xưa.

Ba môn đệ đã nghe tiếng Chúa Cha từ trong đám mây “Đây là con yêu dấu của ta, hãy nghe lời Người”. Cả ba ông đã chứng kiến giây phút viên toàn của lịch sử, lúc Đức Giêsu vén mở vinh quang chiến thắng của Ngài. Đó là những khoảnh khắc các ông được thông dự trước vào sự tròn đầy của sự thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Nhưng liền ngay sau đó, các ông phải trở về đối mặt với cuộc sống đời thường. Từ trên núi xuống, chỉ còn lại duy nhất một mình Đức Giêsu, một Thiên Chúa làm người, một Thiên Chúa đang sống kiếp tăm tối của thân phận con người như chúng ta, và vinh quang chói ngời trên núi Tabor vẫn còn đang bị che dấu. Trong cuộc hành trình đức tin của chúng ta hôm nay, chúng ta cũng phải cột trói và hiến dâng bản thân, để trao dâng cho Đức Giêsu, Đấng là Thiên Chúa nhưng mang trên vai những bầm dập và khổ đau trong phận người. Chúng ta cột trói vào Ngài, hiến dâng cho Ngài, có nghĩa là chúng ta phải cùng với Ngài đi lên Giêrusalem để được sát tế. Hơn nữa, như thánh Phaolô gợi nhắc, chúng ta phải cột trói vào Ngài giữa những cay đắng và bi thương trong cuộc sống hiện sinh hôm nay. Chúng ta diễn tả động thái đức tin, bằng cách trói buộc vào Đức Giêsu, bởi vì chính Ngài cũng đã tự trói buộc vào thân phận con người của chúng ta, đã tự nguyện tiến nhận cái chết để cho chúng ta được ơn giải cứu.

Cuộc biến hình của Đức Giêsu trên đỉnh núi Tabor vén mở để cho chúng ta cảm thấu được uy quyền, hiểu biết về sứ mạng và nhận ra bản tính đích thực của Đấng là Thiên Chúa – Người, là chính Đức Giêsu. Cuộc hành trình đức tin của chúng ta cũng sẽ khởi đầu và kết thúc cùng với Ngài, bởi vì trong cuộc lữ hành đó, chúng ta sẽ mãi mãi gắn kết và buộc trói chúng ta vào với Ngài.

 

28.Thay đổi--Lm. Vũ Đình Tường

Vũ trụ chúng ta sống luôn biến đổi. Người sống vùng sa mạc nhận biết biến đổi rõ nhất là trong sa mạc. Sau một cơn bão thung lũng cát biến thành núi cát. Sức mạnh đó vượt ngoài tưởng tượng của loài người. Các khoa học gia có thể giải thích, đo lường, tìm hiểu nhưng bất lực không thể ngăn cản. Người sống vùng đồng bằng nhận biết biến đổi qua nước chảy trên sông. Người ta nói nước chảy đá mòn. Thực tế dân sống vùng sông ngòi biết nước chảy vài ba năm sông bị cạn dần, bờ sông bị mòn, lòng sông đã không mòn mà còn bị phù sa bù lấp làm lòng sông nông cạn. Biến đổi trong vũ trụ là điều không thể tránh. Cuộc sống đời người cũng có nhiều biến đổi theo từng giai đoạn. Từ trẻ thơ biến thành thiếu niên rồi thanh niên rồi trưởng thành, thành người lớn trước khi phải nhờ đến cây gậy chống bước đi, cụ ông, cụ bà. Mỗi một giai đoạn đều có thay đổi về cả vóc dáng lẫn tinh thần.

Tương tự như thế cuộc sống tâm linh cũng có những giai đoạn phát triển, thay đổi. Mỗi một giai đoạn giúp chúng ta biến thành con người khác. Cũng vóc dáng đó, cũng con người đó nhưng trong tâm hồn có biến đổi, có giao động, có dấu chỉ của thành hình. Thành hình như thế nào tuỳ thuộc vào chọn lựa lối sống của mỗi cá nhân.

Mừng kính lễ Chúa biến hình giúp chúng ta nhận biết con người trung tín theo Chúa không biến hình nhưng thành hình. Thành hình như thế nào chúng ta không thể khẳng định rõ ràng. Chúng ta chỉ biết qua hình ảnh nhận được trên núi thánh chúng ta mường tượng ra cuộc sống tương lai của người trung thành theo Chúa sẽ tương tự như hình ảnh trên núi thánh. Nhìn vào hình dạng biến đổi của Thầy để có cảm nghiệm là sẽ trở nên giống Thầy. Toàn thân sẽ trắng như tuyết, mặt mày sáng tươi và tinh thần đầy hoan lạc. Điều này tự mình không thể hoàn thành nhưng nhờ vào ơn Thầy ban cho. Kẻ tin theo Chúa được khai mở chút ít về cuộc sống tương lai nhờ các môn đệ được Chúa cho cảm nhận trên núi thánh. Con người trở nên trong sáng nhờ ánh sáng của Thầy chiếu dọi. Như mặt trăng sáng nhờ mặt trời, các môn đệ trung tín trở nên trong sáng nhờ ánh sáng mặt trời công chính là Đức Kitô chiếu toả.

Môn đệ không dám so với Thầy thì ít ra hình ảnh các tổ phụ cho biết các ngài cũng biến đổi như thế. Các ngài không so với Thầy, các ngài có được sự sáng nhờ Thầy ban cho, nhờ sống trung tín trong niềm tin. Niềm tin đây chính là ai tin vào Thầy cũng sẽ cảm nhận được sự sống mới nơi Thầy ban cho. Sự sống đó biến đổi con người bất toàn của ta trở nên tốt hơn, đẹp hơn, cao quí hơn, hoàn toàn hơn và cuối cùng trong sáng như tuyết. Đây là một cảm nghiệm, niềm hạnh phúc tuyệt vời mà trần thế không thể nào diễn tả. Các môn đệ đi theo Thầy được Thầy ưu đãi cho cảm nghiệm sự sống tương lai. Các ngài được nhìn thấy tương lai đời mình hạnh phúc như hình ảnh trên núi thánh. Dù chỉ hé mở một chút đã khiến các ngài say mê, muốn buông bỏ mọi sự nơi trần thế, không còn quyến luyến chi. Trước khi thực sự bước vào cộc sống mới, cuộc sống thành hình đó các ngài phải xuống núi. Xuống núi không phải để tích trữ, thu góp. Xuống núi để chính thức từ bỏ, dứt khoát xa lìa những gì thuộc về trần thế. Mỗi một hành động tốt lành đều giúp ta trở nên trong sáng hơn, mỗi một cử chỉ bác ái, yêu thương đều biến ta trở nên tốt lành hơn. Chính những biến đổi hàng ngày trên thay hình đổi dạng cuộc sống của ta, giúp ta trở nên trong sáng hơn. Từ bỏ lối sống tự tạo để bước theo con đường Thầy đã đi qua, con đường Thầy dẫn đường, chỉ lối. Con đường từ bỏ dù chông gai, cay đắng cũng rất đáng từ bỏ, cố gắng, trung tín bước theo Thầy vì sau những vất vả, gian truân là ánh sáng ngập tràn. Sau những âu lo, phiền muộn là niềm vui vĩnh cửu. Sau những khổ đau là hạnh phúc tuyệt vời. Sau những xua đuổi, rượt bắt là tưng bừng chào đón, đàm đạo. Hình ảnh đám mây bao phủ chính là trở ngại ngăn cách lớn nhất cho những ai không thể dứt khoát từ bỏ. Chỉ khi nào vượt qua đám mây che phủ đó con người mới nhận biết chân giá trị của cuộc sống mai hậu đang đón chờ.

Chúng ta cầu xin tâm tình trong lòng luôn ấp ủ cảnh sống tươi sáng. Ước mong niềm hy vọng tươi sáng sẽ xoá tan mây mù, tăm tối.

 

29.Con yêu dấu--Lm. Vũ Đình Tường

Mỗi lần Chúa Cha nhắc đến tình yêu Cha Con dành nhau ta thấy tình yêu đó luôn thể hiện không phải bằng ngôn từ không mà luôn kèm theo sứ mạng của Tin Mừng. Sứ mạng đó được thể hiện qua hành động cụ thể. Sứ mạng Chúa Con tự nguyện lãnh nhận ngay sau khi Đức Kitô lãnh nhận phép thanh tẩy từ Joan đó là công khai rao giảng về nước trời.

Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con

Liền sau đó Đức Kitô tiến vào hoang địa và ở đó bốn mươi ngày ăn chay, cầu nguyện chuẩn bị cho chương trình rao giảng công khai về nước Thiên Chúa đã đến gần.

Ngày biến hình trên núi thánh có sự hiện diện của ba tông đồ Phêrô, Giacobê và Gioan. Cả ba đều chứng kiến cuộc đàm thoại giữa Đức Kitô và tổ phụ Môisen và tiên tri Elia. Cuộc đàm thoại bị gián đoạn khi các ông nghe tiếng Chúa Cha vang vọng như tiếng sấm phán

Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài

Các tông đồ được chiêm ngắm ít nhiều về cuộc sống tương lai và các ông vui mừng muốn ở lại trên núi thánh nhưng Đức Kitô có chương trình Ngài cần thực hiện nên Thầy trò xuống núi. Sự hiện hữu của các tổ phụ trên núi thánh xác nhận một niềm tin. Niềm tin đó chính là có sự sống đời sau. Đối với nhân loại các tổ phụ đã chết nhiều năm trước, mộ các ngài còn nằm kia nhưng sao các ngài đang sống, hiện diện trên núi thánh xác nhận các ngài đang an vui sống gần Chúa. Nhắc đến tổ phụ Môisen là nhắc đến hành trình bốn mươi năm, vượt sa mạc dẫn dân Chúa chọn về Đất Hứa. Môisen dưới sự hướng dẫn, bảo bọc của Thiên Chúa đã vượt qua ngàn trùng gian khổ, dẫn dân Chúa chọn vượt Biển Đỏ, giải thoát họ khỏi ách nô lệ của Pharaô tiến vào Đất Hứa. Tiên Tri Elia cũng có sứ mạng vất vả không kém. Elia đặt trọn niềm tin vào lời Chúa làm tròn sứ mạng trong lo âu, sợ hãi cho sự sống còn của chính ông. Vua Ahab làm vua vùng phía bắc xứ Israel từ 874-853 BC. Ông nghe lời vợ là Jezebel thờ tà thần Baal. Thiên Chúa sai tiên tri Elia báo cho vua biết nếu không thống hối ông và toàn dân sẽ bị phạt. Vua Ahab đã không thống hối còn tìm các giết Elia. Nhà tiên tri phải trốn nơi hoang địa và Thiên Chúa cứu ông khỏi tai hoạ và giúp ông hoàn thành điều Thiên Chúa sai phán. (Muốn biết thêm chi tiết mời đọc số một, Sách các Vua chương 17-22).

Tiếng phán ra của Chúa Cha từ trong đám mây là bằng chứng rõ ràng khác cho thấy Thiên Chúa hằng sống luôn đồng hành với Đức Kitô. Những sáng sớm Đức Kitô tìm nơi thanh vắng cầu nguyện chính là Ngài đàm đạo cùng Chúa Cha.

Sứ mạng xuống núi của Đức Kitô là mang lại ơn cứu độ cho nhân loại. Một sứ mạng đầy đau thương, nhiều nước mắt và cuối cùng là chết trong cô đơn, trên thập giá, nơi đồi vắng. Một kiểu hoang địa mà khi nghe đến ai cũng cảm thấy chân tay run rẩy, toàn thân rùng rợn. Đức Kitô đi trọn con đường đó và sau ba ngày chôn trong mộ Ngài sống lại vinh quang.

Sau khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết người ta mới nhận ra sức mạnh vô song và vinh quang ngàn trùng của Thiên Chúa. Sức mạnh đó mạnh hơn sự chết và vinh quang đó sáng tỏ hơn mặt trời chiếu sáng. Điều này cho thấy có sự liên kết giữa biến hình và sự sống trường sinh. Để có sự sống trường sinh cần có biến hình. Để được biến hình lại cần hoàn thành sứ mạng trao phó. Để hoàn thành sứ mạng trao phó cần đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô sẽ được vinh thăng sống muôn đời kề cận vinh quang Thiên Chúa, nhận cùng lời Chúa phán trên núi thánh.

Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài.

 

30.Ngộ ra--Lm. Vũ Đình Tường

Ngộ ra là nhận thức bất ngờ biết được của sự vật đã từng coi qua, nhìnlại, xem đi, xem lại rất cẩn trọng hay của đoạn văn từng nghiền ngẫm nhiều lần, rồi bất thần nhận biết điều hay, ý tốt, hiện ra trong tâm trí làm cho tâm hồn hứng khởi, tâm trí vui, rạo rực điều vừa cảm nhận được. Ngộ ra là nguồn hứng khởi cho tâm trí, giúp tâm trí giầu mạnh, mở ra một chân trời mới, cánh cửa mới cho tâm hồn.

Đối với Kitô hữu ngộ ra điều mới mẻ về đức tin là một bước tiến nhảy vọt trong linh đạo, dẫn đến yêu mến Chúa nhiều hơn và phục vụ tha nhân tích cực và hăng say hơn. Ngộ ra thoả mãn điều con tim khao khát, mong đợi. Ngộ ra gây hứng khởi cho tâm hồn, làm cho tinh thần sảng khoái, sức mạnh nội tâm nhảy vọt. Ngộ ra điều mới mẻ về tình yêu Chúa, điều này không chỉ có lợi cho đức tin mà còn làm cho ta nhận ra giá trị thực và rõ hơn mục đích của cuộc lữ hành trần thế. Ngộ ra còn xác tín điều quan trọng khác là Thiên Chúa hiện thực và hiện diện trong cuộc lữ hành của ta. Ngộ ra còn thay đổi nhận thức về Thiên Chúa. Hình ảnh Thiên Chúa yêu thương, giầu bác ái, chậm phê bình và hay tha thứ là hình ảnh Thiên Chúa ta tôn thờ. Ngộ ra còn giúp nhận biết đau khổ trần thế, bệnh tật, già nua không phải do Chúa dựng nên nhưng đó là một phần của tiến trình sống. Cây cối, thú vật và mọi sinh vật khác đều trải qua chương trình lột xác để trưởng thành hơn. Riêng con người thì đó là tiến hoá để trở nên tốt hơn trước khi tiến vào cuộc sống vĩnh cửu.

Ba tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo Đức Kitô đã lâu. Các ngài chưa bao giờ nhận biết vinh quang thực của Đức Kitô mãi cho đến khi được chính mắt nhìn thấy trên núi thánh. Chính kinh nghiệm trên tỏ cho các ông biết rõ hơn về Đức Kitô, Đấng các ông đang tin theo. Con mắt đức tin mở ra, tâm trí các ông rộng mở, tinh thần cao vút và con tim nhảy mừng vì được diện kiến vinh quang Thiên Chúa. Trong giây phút mừng vui tột cùng các ông không biết nói gì. Phúc âm thuật lại lưỡi các ông hầu như co cứng, không phát lên lời.

Các ông không biết phải nói gì vì các ông kinh hoàng Mc. 9,6

Đứng trước cảnh huy hoàng, rực rỡ của Thiên Chúa, ngôn ngữ loài người bế tắc, ngôn ngữ trần gian chỉ đủ để diễn tả niềm vui trần thế mà không thể diễn ta nổi niềm vui đến từ trời cao. Nhớ lại ngày Chúa Giáng Sinh các thiên thần cũng không diễn tả niềm vui bừng lên như ánh sáng ban mai bằng lời nói nhưng cất tiếng hát vang vọng không trung để diễn tả niềm vui. Các tông đồ dù cảm thấy vui mừng nhưng không biết làm cách nào diễn tả nguồn vui trào dâng trong tâm hồn. Các ông không hát nhưng cúi gục mặt thầm thán phục và kinh hãi trước hào quang vượt quá sức nhìn của mắt thường. Tai các ông còn nghe được tiếng đối đáp của các tổ phụ và rồi Đức Kitô đã khuyến khích các ông. Khi tỉnh lại các ông nhận ra Đức Kitô còn các vị khác đã biến khỏi mắt các ông. Kinh nghiệm trên núi thánh bồi bổ đức tin các ông tin tưởng bước theo Đức Kitô. Đức tin trở nên vững vàng hơn, dấn thân tích cực hơn và hy sinh trọn vẹn hơn. Kinh nghiệm trên núi thánh ban cho các ông con mắt mới, quả tim mới, tâm hồn mới và cuộc sống mới. Cuộc sống đơn sơ nhưng đầy bình an, hy vọng. Điều các ông nghe được trên núi thánh

Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Ngài Mc 9,7

Đây chính là điều Chúa Cha mời gọi Kitô hữu trung thành đi theo Đức Kitô, theo Con yêu dấu Thiên Chúa để nhận tình yêu Chúa Cha dành cho. Trên đường xuống núi Đức Kitô dặn các tông đồ dấu kín những gì đã chứng kiến. Các ông ấp ủ điều đó trong lòng. Miệng không nói ra nhưng tâm hồn khắc ghi những gì đã chứng kiến và trong cuộc sống rao giảng Tin Mừng tâm trí các ông luôn quay lại khúc phim núi thánh. Dù đã nhìn thấy, nghe được nhưng các ông vẫn chưa hiểu rõ í nghĩa câu

Sống lại từ cõi chết có nghĩa gì Mc 9,11

Mãi cho đến khi Đức Kitô sống lại từ cõi chết hai tông đồ trên đường Emaus đã chẳng xác nhận điều đó là gì khi các ông miệng nói ra:

Dọc đường, khi Người nói chuyện và giải thích Kinh Thánh cho chúng ta, lòng chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao? (Luca 24,32)

 

31.Ánh sáng của đức tin--Lm. Hà Ngọc Đoài

"Người biến hình trước mặt các ông... và từ đám mây có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người." (Mc 9:1,7) Có một vị đạo sĩ cao niên bị mù. Ai nhìn thấy ông đều tỏ ra thương tâm và tìm cách cứu chữa ông. Có người mời được một y sĩ lừng danh đến chữa trị cho đạo sĩ. Y sĩ rất tự tín, đến gặp đạo sĩ và khuyên rằng: "Ngài hãy an tâm và tin vào bài thuốc của tôi có thể giúp cho đôi mắt được sáng như xưa." Mọi người đứng chung quanh đều vui mừng và chờ đợi. Riêng đạo sĩ bình tĩnh trả lời: "Không dám phiền ông phải bận tâm cho sự mù lòa về phần xác của tôi. Hơn lúc nào hết, tâm hồn tôi thấy những gì mà trước đây tôi không thấy, và bây giờ tôi được thấy rõ hơn" Nhờ con mắt Đức Tin mà đạo sĩ có thể nhìn tới thế giới siêu linh. Đôi mắt phần xác bị mù lòa vì tuổi đời làm giới hạn bao nhiêu, thì con mắt tinh thần lại vượt không gian và thời gian để vươn tới sự gần gũi Thiên Chúa bấy nhiêu. Nhờ con mắt của Đức Tin mà linh hồn có thể nhìn thấy được mạc khải của thế giới linh thiêng. Nhờ vậy vị đạo sĩ có niềm vui trong tâm hồn. Khi Đức Giêsu báo tin cho các tông đồ biết là cuộc hành trình giảng đạo của Ngài đang đi về Giêrusalem. Tại đó, vì trung tín với Thiên Chúa Cha trong việc rao giảng mà Ngài phải chịu khổ hình cho đến chết. Rồi Ngài sẽ sống lại. Khi nghe tin đó thì các tông đồ lo sợ và khuyên can. Để giúp các tông đồ được siêu thoát, Đức Giêsu đem họ lên núi cao và tỏ bày vinh quang của Ngài qua sự biến hình. Trên đỉnh núi cao này Ngài chuẩn bị cho cuộc khổ nạn trên đỉnh núi Calvê. Khi bị treo trên thÿnh giá, người ngoại giáo binh sĩ Rôma, và tội nhân sẽ nhận ra Ngài là ai. Chính họ tuyên xưng 'Ngài là Con Thiên Chúa."

"Tôi sẽ tiến đi trước thiên nhan Chúa trong miền đất của nhân sinh. " (TV 114:9) Chúng ta đang sống giữa một thế giới đa văn hóa, và nhiều tôn giáo. Những phép thuật của khoa học làm cho một số bị lung lạc đức tin! Là Kitô hữu, chúng ta nhìn vào Chúa Kitô là Ánh Sáng soi đường chỉ lối cho chúng ta vào cõi sống trường sinh.

 

32.Ai hiểu được chữ tình?--Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Tình yêu, hai tiếng thân quen mà rất khó diễn đạt. Chuyện cũng thường tình vì nhiều thi nhân đã từng hỏi: đố ai biết chữ tình là chữ chi chi? Mùa chay là mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu hoán cải ăn năn. Ăn năn hoán cải, không nguyên chỉ vì thấy sự xấu xa của kiếp tội đòi mà còn vì cảm nhận mối tình bao la mà Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thấy sự xấu xa và bi đát của thân phận tội lỗi của bản thân, để rồi quay bước trở về là điều chính đáng và hợp lý, nhưng chưa hẳn là sâu xa và lâu bền. Một sự hoán cải, trở về dựa trên niềm xác tín vào tình yêu của Thiên Chúa mới thực sự là bền vững và sâu xa hơn nhiều. Giáo lý Công giáo đề cập đến hiện thực này khi phân biệt hai hình thức ăn năn tội đó là ăn năn tội vì Chúa và ăn năn tội vì mình, hay nói cách khác là ăn năn tội cách trọn và ăn năn tội cách chẳng trọn. Để góp phần giúp chúng ta trở về cách trọn hảo hơn, xin được chiêm ngắm tình yêu của Thiên Chúa qua các bài đọc của Chúa Nhật II Mùa Chay B này.

Yêu mến ai thì không chỉ muốn mà còn tìm mọi cách thế để hiến dâng điều tốt nhất của mình cho người mình yêu.. " Hãy đem con của ngươi, đứa con một yêu dấu của ngươi là Isaac, hãy đi đến xứ Môrigia mà dâng nó làm của lễ toàn thiêu ở đấy, trên một ngọn núi Ta sẽ chỉ cho" ( St 22, 2 ). Được hiểu như là lệnh truyền của Thiên Chúa, nhưng đó chính là tấm lòng của Abraham dành cho Đấng đã kêu gọi ông ra khỏi nơi quê cha đất tổ mà tiến về hứa địa. Dù băn khoăn, đau xót, nhưng Abraham vẫn muốn hiến dâng điều tốt nhất của mình là chính sự sống nối dài của mình, qua người con một.

Tình yêu thật diệu kỳ. Chính khi trao dâng là lúc lãnh nhận và lãnh nhận gấp trăm, gấp nghìn lần. Abraham đã không mất người con một yêu quý, mà đã trở thành cha của một đoàn con đông đảo "như sao trên bầu trời, như cát ngoài bãi biển". Tình yêu thật diệu kỳ, vì Thiên Chúa là Tình Yêu ( 1Ga 4,8 ). Là Đấng phải được mọi vật mọi loài tôn thờ và chúc tụng, là Đấng đáng được mọi người thần phục mến yêu và hiến dâng tất cả, thì Thiên Chúa lại trao ban tất cả cho chúng ta. Thánh Tông đồ dân ngoại đã luận lý rằng: Một khi Thiên Chúa đã ban chính Con Một cho chúng ta thì lẽ nào Người lại chẳng rộng ban tất cả cho chúng ta? ( x. Rm 8,32 ).

Các Tin Mừng Nhất Lãm đều tường thuật sự kiện Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabôrê. Có Êlia và Môsê hiện ra và đàm đạo với Người. Nội dung đàm đạo là về cuộc khổ nạn mà Chúa Giêsu sắp chịu tại Giêrusalem. Và đó chính là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại. Vì không có tình yêu nào cao quý cho bằng mối tình của người hiến dâng mạng sống vì người mình yêu ( x. Ga 15,13 ). Đây không phải là một tình cảm nhất thời mang tính tự phát, nhưng là một ý đinh có từ ngàn đời qua một chương trình được chuẩn bị từ ngàn xưa, mà sự hiện diện của Môsê và Êlia, đại diện cho Lề luật và hàng Ngôn sứ là một minh chứng hiển nhiên.

Nếu nói rằng Thiên Chúa trao ban chính Con Một, vì nhân loại bội phản, bất trung, sa ngã, phạm tội thì quả không sai. Nhưng nếu nói rằng Thiên Chúa hiến ban Con Một của Người cho nhân loại để mạc khải chính Người là Tình Yêu thì đúng hơn nhiều. "Biên giới của tình yêu là một tình yêu không biên giới".

Thập giá Chúa mời gọi ta hoán cải. Mùa chay, mùa đặc biệt mời gọi đoàn tín hữu chiêm ngắm cuộc khổ nạn của Đấng cứu độ. Các khổ hình Chúa Kitô đã chịu và cái chết tủi nhục của người trên thập giá như một lời tố cáo tội ác của nhân loại chúng ta. Thấy được sự xấu xa của bản thân mình, hẳn nhiên ít nhiều, chúng ta cũng được thúc đẩy chê ghét tội lỗi và hoán cải ăn năn. Tuy nhiên chính tình yêu của Chúa mới làm chúng ta vươn lên, đổi mới, nên hoàn thiện và nhất là biết sống yêu thương cách quên mình.

Được chiêm ngắm dung nhan sáng láng của Thầy chí thánh, đúng hơn là nhờ được thông phần một cách nào đó "bản thể của Đấng là Tình Yêu", thì Phêrô đã lên tiếng: " Thưa Thầy, chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia."( Mc 9,5 ) Sao chỉ có ba cái lều mà không là bốn, năm hay là sáu? Dù đang kinh hoàng và không biết phải nói gì, nhưng Phêrô đã thay hai bạn đồng môn Gioan và Giacôbê nói lên tấm lòng của mình, một tấm lòng quên mình vì người khác.

"Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" ( Mc 9,7 ). Ước gì chúng ta hằng luôn ghi khắc vào tâm khảm những lời từ miệng của Đấng Cứu Độ sau đây: "Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em" ( Ga 14,24 ). " Vậy, nếu Thầy là Thầy và là Chúa, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em" ( Ga 13,12 ). " Tất cả những gì anh em muốn người ta làm cho mình, thì chính anh em cũng hãy làm cho người ta, vì Luật Môsê và lời các ngôn sứ là thế đó" ( Mt 7,12 ).

Ai hiểu được chữ tình? Có thể nói rằng đó là những ai biết ở lại trong tình yêu Đấng Cứu Độ, đồng thời, nhờ và với tình yêu của Người, đã biết yêu thương như Người yêu thương. Thấy tội ác của mình, người ta có cơ may hối hận, ăn năn. Nhưng nghiệm thấy được tình yêu cứu độ người ta sẽ biết đổi đời và vươn lên.

 

33.Crux est lux-Thập Giá là vinh quang!--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty SDB

Nhiều nhà chú giải Thánh Kinh cho là cảnh hiển dung trên núi Ta-bo là một trong những sự kiện quan trọng nhất của Tân Ước, vì tuy không phải là chóp đỉnh, biến cố này thật sự tóm tắt tất cả mạc khải cứu độ. Chúng ta thấy ở đây, Mô-sê và Ê-li-a, các phát ngôn viên của lề luật và ngôn sứ (tắt một lời là đại diện của Cựu Ước) giới thiệu đấng Kitô của Tin Mừng cho các môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan. Các môn đệ này sẽ là các nhân chứng được coi là ‘trụ cột’ của Giáo Hội (theo lối diễn tả của Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ga-lát), những người có trách nhiệm rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo (Xem chú thích Mc 9:1tt trong ‘Lời Chúa Cho Mọi Người’). Nếu quả thật là như thế thì hiển dung đâu chỉ đơn thuần là một liệu pháp tâm lý đề vực dậy tinh thần suy sụp của các môn đệ trước cuộc khổ nạn đau thương Đức Giêsu sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem. Ý nghĩa của nó chắc hẳn phải lớn lao hơn nhiều…, và vì thế đáng để ta dành đôi chút thời giờ tìm hiểu thêm.

Vinh quang, hay diện mạo đích thực của Thiên Chúa là điều con người mọi thời đại và mọi tôn giáo đều muốn kiếm tìm. Mô-sê và Ê-li-a là hai nhân vật Cựu Ước được mô tả như đã có diễm phúc chớm thấy vinh quang đó tỏ lộ; Mô-sê trên định Si-nai khi lãnh tấm bia giới luật (xem sách Xuất Hành chương 19), và Ê-li-a trên đỉnh núi Khô-rếp trên đường trốn chạy khỏi sự truy đuổi của hoàng hậu I-dê-ven (xem 1 Vua chương 19). Tuy nhiên thứ vinh quang Đức Chúa mà hai ông được chứng kiến thực tế đã rất khác nhau; một đàng là ‘Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống, khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh… (Xh 19:18), đàng khác là ‘Sau động đất là lửa, nhưng Đức Chúa cũng không ở trong lửa. Sau lửa là tiếng gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng đó, ông Ê-li-a lấy áo choàng che mặt, rồi ra đứng ở cửa hang… (1 V 19:12-13). Nếu thế vinh quang mà Đức Giêsu muốn hiển thị trong lần biến dạng trên núi Ta-bo có chi khác với những lần đó không? Trước hết đó hẳn phải là một thứ vinh quang đích thực, vì được hiển thị do chính Người Con duy nhất từ Thiên Chúa mà đến. Vinh quang đó không những phải vượt xa mọi thứ hào quang đôi mắt phàm tục có thể nhìn thấy, mà còn phải vượt xa những gì cả Mô-sê lẫn Ê-li-a đã được chứng kiến trong những lần thị kiến Đức Chúa thời Cựu Ước.

Tác giả Lu-ca cho biết ‘hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giê-ru-sa-lem’ (Lc 9:31), điều đó chứng tỏ cuộc xuất hành sắp tới mới biểu hiện vinh quang thật, khác với những gì các ông đã biết hoặc đang được chứng kiến lúc này. Thứ hào quang mà hai ông hiện đang được chứng kiến chưa hẳn là tột đỉnh; tột đỉnh vinh quang phải là cuộc xuất hành các ông đang được nghe đề cập tới. Đức Giêsu cũng hàm cùng một ý đó khi căn dặn ba môn đệ trên đường xuống núi: “không được kể lại cho ai nghe các điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”. Đúng vậy, cuộc tử nạn hay cuộc vượt qua Người sắp chịu mới chính là vinh quang đích thực, trong đó tình yêu cứu độ của Thiên Chúa được tỏ hiện cách rực rỡ nhất. Nếu Thiên Chúa là tình yêu, thì vinh quang chói lọi của Người không thể là điều gì khác hơn biểu hiện của tình yêu đầy từ nhân và xót thương thông qua hành động cứu chuộc. Sau này khi gần tới giờ ra đi chịu chết và khi cầu nguyện với Chúa Cha, chính Đức Giêsu đã không ngần ngại gọi giờ phút ‘tang thương’ đó là giờ Thiên Chúa tỏ lộ vinh quang Ngài, giờ phút Thiên Chúa được tôn vinh cách tuyệt đối. “Lạy Cha, giờ đã đến, xin Cha tôn vinh Con Cha để Con Cha tôn vinh Cha… xin ban cho con vinh quang mà con vẫn được hưởng bên Cha trước khi có thế gian” (Ga 17:1.8).

Chính Mô-sê và Ê-li-a cũng hầu như còn đang mong đợi được chứng kiến thứ vinh quang đó, vinh quang của Thập Giá. Và Đức Giêsu thật sự mong muốn và khích lệ các môn đệ, đặc biệt ba môn đệ thâm tín nhất, loan truyền cho mọi người thứ vinh quang ‘xuất hành’ đó, hơn là chựng lại làm ba lều bên thứ vinh quang ‘giả tạo’ của diện mạo sáng láng và y phục trắng tinh. Phải chăng đây chính là cuộc chuyển biến quyết định nhất của mọi niền tin, từ Cựu Ước bước qua Tân Ước, từ vinh quang của quyền uy (lửa, động đất, loa vang dội…) qua vinh quang của tha thứ và cứu độ, từ quan niệm về một Đức Chúa quyền phép qua hình ảnh một Thiên Chúa là Cha của Đức Kitô Giêsu đầy xót thương nhân hậu? Đối với các môn đệ là những người Do Thái chính hiệu, sự chuyển tiếp này không thể không gây ngỡ ngàng và đặt ra nhiều vấn nạn. Các ông vẫn còn phải ‘bàn nhau xem câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì’, và Đức Giêsu còn phải cất công giải thích nhiều lần hơn nữa. Điều này cũng sẽ mãi mãi, qua mọi thời đại, tiếp tục là vấn đề then chốt độc đáo của niềm tin Kitô hữu (so với các tôn giáo khác, nhất là Do Thái giáo và Hồi giáo) khi phải vẽ lên trong tâm linh các tín hữu hình ảnh về một Thiên Chúa… lòng lành, xót thương và cứu độ, những nét không tuân theo bất cứ thứ lô-gich hay lối suy nghĩ thông thường nào, nhưng chỉ dựa trên mạc khải duy nhất của Đức Kitô thập giá. Cách duy nhất họ có thể làm là để mình hoàn toàn bị khuất phục bởi mạc khải vinh quang thập giá, điều làm cho họ, trước mặt khôn ngoan của người đời, bị liệt vào hạng ngu đần và hèn nhất; do đó “Hãy vâng nghe lời Người!”

Mùa chay chính là thời gian để mỗi chúng ta vâng nghe và đón nhận thứ vinh quang cứu độ này của Thiên Chúa, vì thế đó là thời gian của thanh lọc và củng cố niềm tin Kitô.

Lạy Chúa là đấng Cứu Độ của con! Con xin được như Phêrô dựng lều, nhưng không phải để chiêm ngắm dung mạo hiển dung sáng láng, mà là để say mê vinh quang cứu độ Chúa dành cho con. Chính Chúa đã chủ động kêu mời con ở lại trong tình yêu xót thương của Người, không những chỉ trong mùa chay thánh mà còn trong suốt cuộc sống dương thế, và mãi mãi trong hạnh phúc Quê Trời mai sau. Amen.

 

34.Lên núi--Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Tin Mừng Chúa Nhật II Mùa Chay năm B, Thánh Máccô thuật lại câu chuyện Chúa Giêsu đưa ba môn đệ Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng với Người lên ngọn núi Tabor. Đây là ba môn đệ thân tín của Chúa. Người yêu họ cách đặc biệt. Điều đó cho thấy, Chúa Giêsu khi xuống trần gian, Người cũng rất người. Người yêu mọi người nhưng vẫn có những tình cảm đặc biệt cho một số người. Người biến hình trước mặt ba môn đệ. Áo Người trở nên chói lọi, trắng tinh như tuyết, không một thợ giặt trên trần gian nào có thể giặt trắng đến thế. Đó là một khoảnh khắc kỳ diệu trong đời. Ba môn đệ đã ngơ ngẩn, ngẩn ngơ khi chứng kiến khoảng khắc đó. Phêrô đã thốt lên “chúng con ở đây thật là hay”. Ông nói mà không biết mình nói gì vì tất cả các ông đều hoảng sợ. Quả thực, không hay sao được khi được ở bên Chúa, được xem thấy Chúa. Nếu có một điều để ước, tôi cũng ước được ở đó cùng với ba môn đệ để chứng kiến khoảnh khắc Chúa biến hình. Chỉ một lần và chỉ một lần thôi, được thấy Chúa là mãn nguyện lắm rồi.

Nếu như Chúa Nhật I, Chúa mời tôi vào sa mạc, thì Chúa Nhật II hôm nay, Chúa mời tôi lên núi với Người. Sa mạc và núi cao đều là những nơi Chúa hẹn gặp con người. Giữa thiên nhiên tươi đẹp, Chúa ngỏ lời với con người. Để gặp được Chúa, tôi cũng phải ra khỏi bản thân để lên núi với Người.

Có một lần, tôi cùng với một nhóm Linh mục đi lên núi Yên Tử. Đây là ngọn núi cao 1068m so với mực nước biển, có ngôi Chùa Đồng nổi tiếng, nằm ở ranh giới của hai tỉnh Bắc Giang và Quảng Ninh. Dù đã có hệ thống cáp treo nhưng du khách vẫn phải tự leo lên một quãng đường khá dài. Trong nhóm của chúng tôi, một số cha lớn tuổi xin đầu hàng ngay từ đầu. Một số khác leo được giữa chừng thì bỏ cuộc vì bụng to quá. Chỉ có một nhóm nhỏ lên được tới đỉnh núi. Người lên đỉnh núi đầu tiên là một vị linh mục nhỏ nhất. Có lẽ ngài chỉ khoảng hơn 40 kg.

Quan sát vị linh mục chinh phục đỉnh núi đầu tiên, tôi rút ra được một bài học cho riêng mình. Để leo lên một ngọn núi cao, tôi cần phải có những hành trang cần thiết.

Thứ nhất đó là một niềm tin kiên vững không bỏ cuộc. Leo núi đòi tôi phải tốn nhiều sức lực. Có những đoạn đường nhiều chông gai không dễ đi. Tôi dễ dàng bỏ giữa chừng. Tôi cũng có thể thấy một cái gì đó trên đường lôi cuốn khiến tôi xao lãng. Tôi cần phải mạo hiểm, phải ra khỏi bản thân để có một cú nhảy của niềm tin, như niềm tin của cụ Abraham trong bài đọc 1 (St 22, 1-18 ). Thiên Chúa đòi Abraham phải hiến tế chính con một yêu dấu của mình là Isaac cho Ngài. Đây là điều vượt quá luân thường đạo lý. Không có một nền luân lý nào cho phép cha giết con. Đó là một tội ác không thể dung thứ. Vì thế mà hành động của Abraham chỉ có thể hiểu được trong viễn cảnh ông tuyệt đối tin tưởng vào Thiên Chúa. Ông tin Thiên Chúa có thể trả lại sự sống cho Isaac và ông vẫn sẽ là tổ phụ của một dân đông đảo. Trong tác phẩm “Kinh hãi và run sợ” (Crainte et Tremblement), Soren Kierkegaard đã viết những dòng vô cùng tuyệt vời để diễn tả niềm tin của Abraham “Tôi nghiêng mình bảy lần trước quý danh Ngài và tôi nghiêng mình bảy mươi lần trước hành động đó của Ngài”. Abraham đã trở thành cha của những người có niềm tin là thế.

Thứ hai, để lên núi, tôi cần buông bỏ. Tôi cần bỏ lại những hành trang cồng kềnh khiến con người tôi ra nặng nề. Bụng càng to càng khó leo núi. Biết bao thứ trong cuộc đời bủa vây tôi. Tham luyến, sân hận, si mê đó là những thứ như muốn kéo ghì tôi xuống. Tôi cần can đảm chặt đứt những thứ đó để có thể nhẹ nhàng thanh thoát. Càng nhẹ nhàng, tôi càng dễ dàng bay cao. Có những thói quen đã ăn sâu vào con người tôi. Muốn bỏ đi quả là điều không hề dễ dàng.

Lạy Chúa, xin biến đổi con mỗi ngày. Xin cho con một niềm tin kiên vững vào Chúa. Xin cho con biết thành tâm sám hối mỗi ngày để loại bỏ đi những Virus độc hại vẫn thường xâm chiếm linh hồn con. Xin cho con biết chạy đến với Chúa mỗi ngày bởi vì: “Trước Thánh Nhan, ôi vui sướng tràn trề. Ở bên Ngài, hoan lạc chẳng hề vơi” (Tv 16,11).

 

35.Người đã phó nộp Ngài vì hết thảy chúng ta--Lm. Stephanô Bùi Thượng Lưu

Buổi sáng tinh sương hôm đó, trên con đường dẫn tới vùng đất Moriyah (theo truyền thuyết, chính là ngọn đồi sau này đền thánh Giêrusalem sẽ được xây trên đó), cụ già Abraham tay "cầm lửa và dao phay", Isaac, đứa con duy nhất của cụ vác củi. Cả hai đang mải miết trèo núi để làm lễ tế kính tiến Thiên Chúa Giavê.

Câu chuyện xảy ra vượt sức tưởng tượng của con người! Khởi đầu là lệnh truyền của Thiên Chúa Giavê: "Ngươi hãy lấy con ngươi, con một ngươi, ngươi yêu dấu tức là Isaac mà đi tới đất Moriyah, và ở đó hãy dâng nó làm của lễ thượng hiến trên một quả núi ta sẽ tỏ cho ngươi" (St 22,2). Tiếp đó là việc thi hành thượng lệnh không sai một ly: "Abraham xây tế đàn rồi sắp củi, và trói Isaac con ông mà đặt lên tế đàn, trên đống củi, đoạn Abraham giơ tay cầm lấy dao phay để tế sát con mình" (St 22,9-10).

Hành động của Abraham là tột đỉnh của lòng tin: quả thực Abraham đã không từ chối Chúa một điều gì, ngay cả người con duy nhất của ông. Đức tin của Abraham đã trở nên khuôn vàng thước ngọc cho mọi lòng tin, không phải một đức tin mù quáng, phi lý, nhưng một đức tin dựa trên chính Thiên Chúa, Đấng hằng trung tín. Cuộc thử thách đức tin của Abraham thật khủng khiếp, nhưng "lòng kính sợ Thiên Chúa" là thành trì kiên cố bảo vệ đức tin kiên vững của ông trong cơn bão táp. Chính vì thế, Thiên Chúa Giavê đã ân thưởng ông bội hậu: "Vì ngươi đã không từ chối với ta con một ngươi thì ta sẽ ban phúc chúc lành cho ngươi, ta sẽ làm cho dòng giống ngươi thêm đông, nên nhiều như sao trên trời, như cát dưới biển... Mọi dân thiên hạ sẽ lấy dòng giống ngươi mà cầu phúc cho nhau, bởi vì ngươi đã vâng nghe tiếng Ta". (St 22,17-18). Dòng giống đông như "sao trời cát biển" đó chính là những cõi lòng tin Thiên Chúa, đó chính là hội thánh tại thế, đó chính là mỗi người chúng ta.

"Ngài là con chí ái Ta, các ngươi hãy nghe Ngài" (Mc 9,7)

Hiến tế của Abraham dâng hiến Isaac mới chính là hình bóng của một Hy lễ toàn hảo của chính Đức Giêsu Kitô, con một Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã quả quyết: "Người đã không tha cho chính con của Người, nhưng đã phó nộp Ngài vì chúng ta hết thảy" (Rm 8,32). Lòng mến của Thiên Chúa đối với con người thật khôn lường khôn tả. Chính tình yêu vô bờ bến ấy, thể hiện qua việc Đức Kitô chịu nạn chịu chết trên bàn thờ thập giá, đã khơi nguồn ân cứu độ, hoàn thành giao ước vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và con người.

Mùa chay thánh, mùa dọn lòng người tín hữu đón nhận tình yêu tuyệt đối của Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng với ba môn đệ Phêrô, Giacobê và Gioan chiêm ngưỡng bản tính và vinh quang Thiên Chúa hiện tỏ nơi Đức Kitô con yêu dấu của Ngài. "Hãy nghe Ngài" vì Ngài là "Đường là sự thật và sự sống" dẫn đưa con người về với Thiên Chúa. Thái độ của người tín hữu trong mùa chay thánh là hãy lắng nghe Lời Chúa, suy niệm Lời Chúa, và đem ra thực hành Lời Chúa trong đời sống.

Hãy luôn ghi nhớ rằng, con đường đức tin Abraham xưa đã đi cũng như cuộc hành trình đức tin của chúng ta trong thế giới hôm nay, cả hai chỉ là một, sẽ đầy thử thách chông gai, và chóp đỉnh vẫn là: Vâng Phục và Kính Sợ Thiên Chúa.

 

36.Cuối đường hầm hay trên đỉnh núi?--Lm. Giuse Đỗ Vân Lực

Với tốc độ 300.000 cây số một giây, ánh sáng có thể bay nhanh tới những miền xa thẳm trong chớp mắt. Không vật nào có thể di chuyển nhanh như thế. Nhờ ánh sáng Chúa biến hình hôm nay, ba môn đệ cũng phóng tầm nhìn rất xa, xa tới tận bản tính Thiên Chúa. Chính vì thế, các ông đã xác định được hướng sống và tìm được nền tảng của niềm hi vọng cho cuộc đời. Trong ánh sáng thần kỳ, Đức Giêsu đã mạc khải tất cả sự thật về Người. Sứ mệnh Người hiện rõ từng nét. Chúng ta tìm về ánh sáng đó để cùng các môn đệ ngất ngây chiêm ngưỡng dung nhan tuyệt vời của Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và là Đấng cứu độ muôn dân.

ÁNH SÁNG THẦN KỲ

Nếu không được chứng kiến ánh sáng thần kỳ trên núi, các môn đệ mãi mãi sống trong giằng co bất tận giữa thực tế và mộng tưởng. Giấc mơ Thiên sai vẫn đẹp như ngày nào. Thiên sai phải là một anh hùng cái thế thực hiện tất cả những giấc mộng bá chủ của dân tộc Do thái. Thực tế Thày lại tiên báo về một Thiên sai đau khổ và bị những nhà lãnh đạo dân chúng tiêu diệt khỏi mặt đất (Mt 16:21; Lc 9:22; Mc 8:31). Lời Thày như dẫn các môn đệ vào con đường hầm dầy đặc bóng tối.

Nhưng đã đến lúc ánh sáng lóe lên ở cuối đường hầm. Đức Giêsu muốn lôi các môn đệ ra khỏi cảnh hoang mang đó. Người phải củng cố niềm tin các môn đệ. Nếu không, các ông sẽ mất hẳn chiếc phao và sẽ trôi dạt đến một chân trời vô định. Cả sự nghiệp Thày trò sẽ tan tành ra mây khói. Bởi vậy Thày quyết định dẫn ba môn đệ thân tín nhất lên núi để tìm một điểm mốc cho tương lai.

Núi là nơi lý tưởng để Thày trò cầu nguyện. Nhưng lần này khác hẳn. “Núi là nơi thường chứng kiến những mạc khải siêu nhiên và những cuộc thần hiển” (The New Jerome Biblical Commentary 1990:615). Sau khi đã leo tới đỉnh núi, “Người biến đổi hình dạng trươc mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.” (Mc 9:3) Đức Giêsu đã xuất hiện nguyên hình. Thân xác không cản nổi luồng sáng từ thiên tính Người. Niềm tin các môn đệ bừng dậy. Có lẽ trong niềm tin Phật tử, Đức Phật cũng tỏa ra một thứ hào quang tương tự khi chứng ngộ, thành đạo dưới gốc cây bồ đề (?). Bởi vậy nói theo kinh nhà Phật, trong cuộc biến hình hôm nay, Đức Giêsu cũng đã thành con đường dẫn các môn đệ thoát khỏi bến mê và trở về nhà Cha an toàn.

Trong ánh sáng biến hình, các môn đệ sẽ hiểu được lời Đức Giêsu hứa về “Triều Đại Thiên Chúa đầy uy lực” (Mc 9:1) và xác tín “Thày là Đức Kitô” (Mc 8:30). Nói cách khác, Thày tự mạc khải là Đấng quyền năng có sứ mạng cứu nhân độ thế. Trong địa vị và vai trò lớn lao đó, Thày xứng đáng là vị lãnh đạo muôn dân vào Đất Hứa. Thày xuất hiện để lời các tiên tri trở thành hiện thực. Chính vì thế hai ông Môsê và Eâlia đã xuất hiện để củng cố và chiếu sáng niềm tin các môn đệ vào sứ mạng của Thày. Đúng hơn, hai ông là cái nền đánh bóng dung nhan Đức Giêsu.

CHÂN TƯỚNG VỊ THIÊN SAI

Nhưng trên hết, chính lúc các ông ngây ngất về dung nhan Thày trổi vượt hơn các ông Môsê và Eâlia, thì “có một đám mây bao phủ các ông” (Mc 9:7). Mây là biểu tượng Thiên Chúa hiện diện. Phải được nhắc lên đám mây, các ông mới nghe được tiếng Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9:7). Lời trìu mến chừng nào! Tất cả cơ nghiệp Chúa Cha là Đức Giêsu! Nhưng cơ nghiệp ấy Chúa Cha đã không ngần ngại hi sinh cho hạnh phúc nhân loại. Hình ảnh Abraham sẵn sàng sát tế Isaac chỉ diễn tả phần nào tấm lòng hi sinh cao cả của Thiên Chúa đối với con người. Abraham chỉ bị thử thách, chứ không sát tế người con yêu quí. Trái lại, “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8:32). Thiên Chúa Cha quí trọng mạng sống Con Cha tới mức nào. Vậy mà Người đã hi sinh mạng sống ấy cho chúng ta (Disciples in Mission [Homily Guide, Lent Cycle B] 1999:10). “Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (1 Cr 6:20).

“Tiếng trong đám mây làm liên tưởng tới vị tiên tri trong Đệ Nhị Luật (18:15) sẽ được lắng nghe vào những ngày sau hết” (Faley 1994:231). Đám mây và Lời Chúa Cha chứng minh rõ ràng tự bản tính Đức Giêsu là Con Thiên Chúa. Còn ai xứng đáng cho các môn đệ nghe lời hơn không? Vậy mà từ xưa tới nay, các ông vẫn hoang mang vì dư luận! Bởi vậy từ nay, dù Thày có nói những điều trái tai gai mắt, các môn đệ cũng phải chấp nhận. Sự thật vẫn là sự thật. Thày không sợ sự thật. Thày muốn môn đệ cũng phải đối diện với sự thật. Vì “sự thật sẽ giải phóng các ông” (Ga 8:32).

Thấy cảnh Đức Giêsu biến hình, Phêrô cảm thấy lúng túng. “Ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (Mc 9:6). Một kinh nghiệm khó quên. Một cảm nghiệm thần bí tuyệt vời. Tuyệt vời đến nỗi ông muốn kéo dài mãi cảnh thần tiên đó. Đề nghị dựng ba lều chỉ là một cách nói lên điều ông không biết diễn tả làm sao nỗi vui sướng ngây ngất. Nhưng Đức Giêsu không muốn các môn đệ “ngủ quên trên chiến thắng”. Ngay trên núi, sau khi chứng kiến cảnh Thày biến hình, các ông đã bị trả về thực tế. “Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (Mc 9:8). Thực tế trơ ra đó. Nhưng thực tế không phải chỉ có thế. Các ông lại phải tiếp tục nghe những điều nhức nhối tâm can phát ra từ miệng Thày. Thày trò rủ nhau xuống núi. Thày tiếp tục quả quyết về số phận không thể tránh: “Người phải chịu nhiều đau khổ và bị khinh chê.” (Mc 9:12) Lúc này có lẽ các ông đã sẵn sàng nghe Đức Giêsu hơn, vì ai có thể tẩy mờ hình ảnh Thày biến hình khỏi tâm trí các ông? Làm sao các ông quên được lời phán từ đám mây: “Hãy vâng nghe lời Người”. Nghe lời Người để tìm đến sự sống, chứ không phải cái chết. Đúng hơn, niềm hi vọng sẽ bừng dậy khi “Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Đó mới là điều ám ảnh tâm trí các ông suốt đời. Đức Giêsu Phục sinh sẽ là câu trả lời đích xác, dẹp yên mọi xôn xao trong lòng các ông từ trước tới nay. Từ đây giấc mộng Thiên sai bá chủ sẽ nhường bước cho niềm hi vọng Phục sinh lớn lao đó. Ánh sáng biến hình chỉ là bóng mờ so với ánh sáng Phục sinh. Nhưng không chứng kiến hay cảm nghiệm được ánh sáng biến hình, người ta có thể ngộ nhận về sứ mệnh thiên sai của Đức Giêsu. Đó là lý do tại sao “Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trừ khi Con Người từ cõi chết sống lại.” (Mc 9:9) Trong ánh sáng Phục sinh, các môn đệ mới nhận thấy rõ ràng “nơi Đức Giêsu Kitô, chính Thiên Chúa đã can thiệp để cứu độ dân Người.” (Fisichella 1995:669) Người chính là vị Thiên sai đến thực hiện tất cả những lời Thiên Chúa hứa giải thoát nhân loại.

Ngày nay, nhiều nơi trên thế giới, nhân loại vẫn còn sống trong những đường hầm chật chội, tăm tối. Sự dữ và bất công còn hiện diện khắp nơi. Chính vì thế người Kitô hữu vẫn chưa thể nghỉ yên. “Sứ mệnh Thiên sai vẫn còn đó như mời gọi dân thiên sai thực hiện cuộc giải thoát toàn vẹn và sau cùng. Biến cố huyền nhiệm Phục sinh chắc chắn đã mang lại ơn cứu độ. Biến cố đó không chuẩn chước, nhưng đúng hơn thúc ép chúng ta phải trở nên khí cụ thực hiện công bình và từ bi ở bất cứ nơi đâu sự dữ còn hoành hành”(Fisichella 1995:669). Nhờ đó, hòa bình sẽ là dấu chỉ rõ nhất của Thiên Chúa tình yêu giữa một xã hội đầy bạo động và sa đọa này.

Hi vọng không phải lóe lên ở cuối đường hầm, nhưng chiếu toả mãnh liệt trên đỉnh núi. Hôm nay sau khi chiêm ngưỡng dung nhan Đức Giêsu, các môn đệ đã nhận thấy “sức mạnh duy nhất của Thiên Chúa là sức mạnh tình yêu, tình yêu toàn năng” (TGM Angelo Comastri: Zenit 12/3/2003) đang hoạt động mãnh liệt trong tâm hồn con người và toàn thể vũ trụ.

 

37.Tìm vinh quang Thiên Chúa ở đâu?--Lm. Trần Xuân Lãm

Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa xuống trần gian mang hình hài thể xác con người như ta, nhưng hôm nay Ngài tạm thời từ bỏ hình dạng bình thường của con người, để mặc lấy một hình dạng khác rất siêu phàm: "Y phục Ngài rực rỡ, trắng tinh, không thợ giặt nào ở trần gian giặt trắng như vậy". Sự sáng láng chiếu tỏa vinh quang của thiên giới.

Đức Ki-tô chính là Đấng Messiah ẩn mình, người tôi trung đau khổ của Thiên Chúa, hôm nay được tỏ bày trước kỳ hạn vinh quang, qua việc các đại diện của lề luật và ngôn sứ là Mô-sê và Ê-li-a, hiện ra và đàm đạo với Ngài. Đây là lần thứ hai có tiếng phán từ trời về Chúa Giê-su: "Này là Con Ta chí ái" (Mc 9:7)

Trong lúc còn thử thách ở cuộc đời trần gian, chúng ta được mời gọi tin phục hoàn toàn vào Thiên Chúa qua mọi biến cố trong cuộc đời. Thiên Chúa ẩn náu mình đi không muốn tỏ vinh quang và quyền phép uy nghi của Ngài ra, để ép buộc chúng ta nghe lời Ngài. Ngài đã ban cho chúng ta tự do và Ngài tôn trọng tự do đó. Hơn nữa, có tự do mới có công phúc.

Tuy nhiên những ai đọc và suy niệm lời Chúa, những ai có con mắt đức Tin trong sáng thì đã thấy và đã biết Thiên Chúa uy quyền và vinh quang ở đâu: ở trong Bí tích Thánh thể, trong các Bí tích, trong Phúc âm, trong mọi biến cố, hoàn cảnh cuộc đời. Chúa hiện ra ở đó còn uy quyền sáng láng hơn cả khi biến hình trên núi cao hôm nay.

Bài Phúc âm còn ngụ ý dạy chúng ta, nếu muốn được nhìn thấy Thiên Chúa vinh quang và uy nghi thì phải lên núi cao, vượt trên mọi thấp hèn của xác thịt. Bên cạnh đó, chúng ta cần sẵn sàng bước theo con đường thập giá của Đức Ki-tô, vì con đường ấy dẫn chúng ta đến vinh quang và phúc trường sinh muôn đời.

 

38.Đức Giêsu hiển dung--Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

“Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa...”

Có một mối liên hệ sâu xa giữa biến cố được kể lại trong bài Tin Mừng hôm nay (Mc 9,2-10) với lời tiên báo về số phận của Con Người trong Mc 8,31. Trước phản ứng rất mạnh mẽ của ông Phêrô (đại diện cho nhóm các đồ đệ) đối với lời tiên báo đó (8,32), Đức Giêsu, vốn đầy tình thương yêu nhân lành đối với các đồ đệ, đã muốn giúp các ông hiểu và đón nhận chương trình cứu độ của Thiên Chúa, bằng cách cho các ông được trải nghiệm một thực tại ngoại thường: biến cố hiển dung.

“Khi ấy, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao” (c.2). Tác giả Tin Mừng không nói rõ đó là ngọn núi nào. Có lẽ ông muốn ám chỉ núi Sinai, là ngọn núi mà ở đó, ông Môsê và ông Êlia (các nhân vật sẽ xuất hiện trong c.4) đã được chứng kiến các cuộc thần hiện của Thiên Chúa (x. Xh 34,1-8; 1V 19,8-18). Trước đây, các đồ đệ đã từng được biết rằng Đức Giêsu là Đấng Mêsia (8,30), nhưng các ông lại hiểu sai về tư cách và sứ mạng Mêsia của Người. Đức Giêsu đã cố gắng giúp họ không hiểu sai, bằng cách nói cho họ biết về số phận đang được dành sẵn cho Con Người (8,31), nhưng Người đã thất bại trong nỗ lực đó (8,32). Bây giờ Người đưa các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi riêng ra một nơi, để một lần nữa, giúp các ông điều chỉnh cái ý tưởng sai lầm của các ông về Đấng Mêsia và giúp các ông đón nhận những hệ luận của việc gắn bó với Người. Những gì các ông sắp trải nghiệm sẽ là một cuộc thần hiện, cho các ông thấy tình trạng vinh quang của Đức Giêsu sau khi Người chiến thắng sự chết. Người muốn cho các ông cảm nghiệm trước ánh vinh quang của Đấng sắp đi vào cuộc khổ nạn kinh hoàng.

“Người biến đổi hình dạng trước mắt các ông. Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (cc.2c-3). Vinh quang của Đức Giêsu được trình bày qua các chi tiết về vẻ huy hoàng của y phục của Người. Theo quan niệm đương thời, y phục là cách diễn tả con người, và trong trình thuật này, nó có giá trị ám chỉ nhân tính của Đức Giêsu. Y phục đó bây giờ “trở nên rực rỡ, trắng tinh”. Sự rực rỡ và trắng tinh thuần khiết đó biểu tượng cho vinh quang thần linh thấm đẫm nhân tính của Người. Đó là vinh quang thực của Đấng bị trao nộp vào tay người đời vì sự sống thật của nhân loại. Sự chết mà Người sắp trải qua sẽ thất bại tận căn trước vinh quang thần linh này. Và vẻ huy hoàng thuần khiết đang được tỏ lộ nơi Đức Giêsu này có nguồn gốc thiên thai, chứ không phải là kết quả của nỗ lực nhân loại: “Không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy”.

“Và ba môn đệ thấy ông Êlia cùng ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu” (c.4). Sự xuất hiện của hai nhân vật vĩ đại của Cựu Ước là các ông Môsê và Êlia, đã đem vào trong những thực tại mà các đồ đệ đang trải nghiệm một đường nét và ý nghĩa mới: mối liên hệ của Cựu Ước với Đức Giêsu. Tác giả Mc đã không nói rằng ông Môsê và ông Êlia đến, mà là các ông “hiện ra”, như thể một thực tại đang còn ẩn giấu bây giờ được tỏ lộ ra. Đàng khác, ông Môsê và ông Êlia hiện ra là để cho các đồ đệ của Đức Giêsu thấy, và tác giả không hề nói gì về vẻ vinh quang của các vị ấy. Hai vị là đại diện của Cựu Ước (Lề Luật và các ngôn sứ) như đã được ban truyền cho dân. Và tuy hiện ra cho các đồ đệ thấy, nhưng ông Môsê và ông Êlia không nói gì với các ông mà chỉ đàm đạo với Đức Giêsu. Điều này có nghĩa là Cựu Ước chẳng truyền đạt cho các đồ đệ của Đức Giêsu sứ điệp nào nếu không qua Đức Giêsu. Ông Môsê và ông Êlia xuất hiện trong sự quy hướng về Đức Giêsu mà thôi. Chính Đức Giêsu mới là Đấng xác định giá trị của Cựu Ước. Môsê và Êlia, tức là Lề Luật và các ngôn sứ, không phải là những giá trị tuyệt đối, mà là những thực tại tùy thuộc vào thực tại Giêsu. Đức Giêsu và sứ điệp của Người siêu vượt hơn hẳn mọi thực tại cao quý nhất của mặc khải Cựu Ước. Những gì Đức Giêsu nói và thực hiện thì quan trọng hơn hẳn những gì ông Môsê và các ngôn sứ đã dạy.

“Bấy giờ, ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: "Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia" (c.5). Sự tiến triển của biến cố hiển dung bị đoạn tục bởi sự kiện ông Phêrô lên tiếng. Được trực tiếp chứng kiến những gì đang diễn ra, ông Phêrô hướng về Đức Giêsu (chứ không phải về ông Môsê hay ông Êlia) và thưa chuyện với Người.

Ông Phêrô đưa ra một đề nghị, nhân danh các bạn (“chúng con”) và hy vọng sẽ được Đức Giêsu đồng ý. Điểm chính yếu trong đề nghị là việc làm ba cái lều, một cho Đức Giêsu, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia. Có hai khía cạnh đáng chú ý, được diễn tả bằng danh từ “lều” và số từ “ba”. Hạn từ “lều” gợi ý về lễ Lều: ông Phêrô nối kết cuộc hiển dung của Đức Giêsu với sứ mạng Mêsia của Người, và ông hiểu đó là sứ mạng Mêsia theo hướng dân tộc chủ nghĩa. Với số từ “ba” và được phân chia rõ ràng là “một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”, ông Phêrô đang đặt cả ba vị trên cùng một bình diện, xóa mờ sự tùy thuộc của các ông Môsê và Êlia đối với Đức Giêsu và đặt các ông ấy trong tư thế độc lập. Thực tại đang xảy ra, như chúng ta đã nói trên kia, là ông Môsê và ông Êlia xuất hiện chung với nhau trong sự quy hướng về Đức Giêsu. Nhưng trong đề nghị của ông Phêrô, thì Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia đồng hàng với nhau, và mỗi vị có vai trò riêng của mình, mỗi vị có “lều” riêng của mình. Đức Giêsu là Đấng Mêsia; ông Môsê: Lề Luật và các thiết chế; ông Êlia: nhà cải cách tôn giáo vĩ đại. Bằng cách đó, ông Phêrô cho thấy ý tưởng của ông về Đấng Mêsia (x. 8,29.33). Một cách gián tiếp, ông Phêrô phủ nhận sự mới mẻ của sứ điệp và vai trò của Đức Giêsu và Nước Thiên Chúa.

Rõ ràng ông Phêrô đã được nhìn thấy vinh quang của Đức Giêsu, nhưng chưa hiểu. Đúng ra, cần phải nối kết vinh quang đang được hé lộ trong biến cố hiển dung này với thực tại phục sinh của Con Người sau cuộc khổ nạn và cái chết của Ngài, như Đức Giêsu đã từng nói trước (8,31), nhưng ông Phêrô chưa thực hiện được sự nối kết đó. Ông vẫn đang còn mang tư tưởng của loài người chứ chưa phải là tư tưởng của Thiên Chúa (8,33).

“Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (c.6). Tại sao các ông lại kinh hoàng đến độ không biết nói gì? Có yếu tố nào đe dọa các ông ở đây? Trong sự sợ hãi và cảm thấy bị đe dọa đó, ông Phêrô lại chỉ ngỏ lời với Đức Giêsu thôi, chứ không nói gì với các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ ông cảm thấy kinh hoàng là vì một điều gì đó nơi Đức Giêsu. Quả thực, ông và các bạn đang được chứng kiến vinh quang thần linh tỏ lộ nơi Đức Giêsu. Các ông hiểu rằng nơi Người đang có mãnh lực thần linh của chính Thiên Chúa, vốn là mãnh lực có thể gây chết chóc cho người phàm một khi họ được chứng kiến. Và điều đó gây ra nỗi kinh hoàng tột độ cho các ông.

“Bỗng có một đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người" (c.7). Xuất hiện yếu tố thứ ba của cuộc thần hiện. Yếu tố thứ nhất là sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu, cho thấy tư cách và vị thế thần linh của Người. Yếu tố thứ hai là sự xuất hiện của các ông Môsê và Êlia, chứng tỏ Đức Giêsu là điểm đến, là đỉnh điểm, là điểm quy chiếu của tất cả Cựu Ước. Bây giờ xuất hiện yếu tố thứ ba: Đức Giêsu được công bố là Con Thiên Chúa, Đấng hiến dâng chính mạng sống mình, Đấng là Lời tối hậu của Thiên Chúa cho nhân loại.

Có thể nói sự xuất hiện của đám mây và tiếng phán từ đám mây chính là đỉnh điểm của cuộc thần hiện. Đám mây vừa mạc khải vừa che giấu sự hiện diện của Thiên Chúa. Và trong thực tế, đám mây đã thế chỗ của những chiếc lều mà ông Phêrô muốn làm. Nói chính xác hơn, sự xuất hiện của đám mây bao trùm đồng một trật Đức Giêsu, ông Môsê và ông Êlia, chính là sự từ chối, hoặc chí ít cũng là sự điều chỉnh, cái đề nghị vừa được phát biểu của ông Phêrô. Khi đề nghị làm ba cái lều “ở đây” là ông Phêrô đang muốn cầm giữ cả ba vị trong cõi đất này, với hy vọng rằng vương quốc Mêsia, nhờ các Ngài, sẽ được khai mở như là một thực tại thế tạm. Trái lại, Thiên Chúa cho thấy rằng vinh quang của Đức Giêsu và thực tại Người mang đến, tự bản chất, thuộc về cảnh vực thần linh chứ không phải là những thực tại thế tạm.

Cùng với đám mây và từ đám mây, có tiếng phán. Tiếng ấy không nói với Đức Giêsu nhưng là nói với các môn đệ và cung cấp cho các ông lời giải thích về những gì đang diễn ra. Phần thứ nhất của lời giải thích là một khẳng định: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Đại từ “đây” rõ ràng loại trừ ông Môsê và ông Êlia khỏi điều được công bố và đồng thời nhấn mạnh tính cách hơn hẳn của Đức Giêsu so với hai vị đó. Ngữ đoạn “là Con của Ta” cho thấy một cách tường minh rằng thực hữu của Đức Giêsu xuất phát từ chính Thiên Chúa, rằng hành động của Người là hành động của chính Thiên Chúa, rằng lời của Người là lời của chính Thiên Chúa. Định ngữ “yêu dấu” nhấn mạnh mối tương quan đặc biệt giữa Thiên Chúa và Đức Giêsu.

Phần thứ hai là một lời kêu gọi: “Hãy vâng nghe lời Người”. Đức Giêsu là Tôn Sư độc nhất, là Đấng công bố lời tối hậu của Thiên Chúa. Các môn đệ chỉ phải vâng nghe lời Người mà thôi. Cựu Ước (mà đại diện ở đây là các ông Môsê và Êlia) không có gì để nói trực tiếp với các môn đệ nữa nếu không phải là qua Đức Giêsu. Như thế, không hề có hai mặc khải song song hay tiếp nối (Cựu Ước và Đức Giêsu), mà chỉ có một mặc khải duy nhất nơi Đức Giêsu, Đấng thực hiện và hoàn tất những gì được nói trong Cựu Ước, Đấng quyết định giá trị và đem lại sự trường tồn cho những thực tại Cựu Ước.

Tác giả Tin Mừng không nói gì về phản ứng của các môn đệ đối với những gì vừa được công bố từ đám mây. Trong Kinh Thánh, một khi được ý thức, lời của Thiên Chúa sẽ gây nên nơi người nghe sự sợ hãi. Nhưng các môn đệ ở đây không phản ứng gì. Hình như tác giả Tin Mừng có ý ngầm cho biết rằng các ông đã chẳng hiểu đúng ý nghĩa của những thực tại đang diễn ra, y như trước đây các ông đã không hiểu đúng ý nghĩa lời tiên báo của Đức Giêsu (x. 8,31tt).

“Các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi” (c.8). Trái với đề nghị của ông Phêrô, các ông Môsê và Êlia đã biến đi. Từ nay, họ không còn vai trò gì trong lịch sử nữa, chỉ còn lại một mình Đức Giêsu, Đấng duy nhất mà các môn đệ phải vâng nghe lời, Đấng duy nhất là tôn sư và ngôn sứ. “Chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”.

Sau đó, các Ngài rời cảnh vực thần linh và trở về với lịch sử trần trụi. Cho đến lúc này, như chúng ta đã hơn một lần nói ở trên, các môn đệ chưa hiểu đúng những thực tại mà các ông vừa được trải nghiệm. Vì thế, “ở trên núi xuống, Đức Giêsu truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại” (c.9). Chỉ khi vinh quang của Người được liên kết chặt chẽ với sự từ chối và cái chết mà Người đã từng nói cho các ông biết, thì các ông mới có thể nói lại cho người khác những gì các ông vừa được trải nghiệm trên núi. “Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩa là gì” (c.10).

Ngày nay, trong rất nhiều trường hợp, chúng ta cũng chẳng khác gì các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan: hiểu sai lời Đức Giêsu, hiểu sai những thực tại thần thiêng được ban cho trải nghiệm, cứ mãi chỉ mang tư tưởng nhân loại chứ không phải tư tưởng của Thiên Chúa... Nhưng đồng thời, ngay trong Mùa Chay thánh này, biết đâu Chúa vẫn đang hiển dung cho chúng ta một cách nhiệm mầu... Từng chi tiết của cuộc hiển dung trong bài Tin Mừng hôm nay đều đáng được suy niệm một cách nghiêm túc và đều có ý nghĩa sâu xa đối với đời sống đức tin của chúng ta....

 

39.Con người phải lòng Thiên Chúa--Lm. Giuse Lê Danh Tường

Đứng trước Thiên Chúa, con người tự thấy mình hèn kém. Nó sợ hãi khi nghĩ đến sự công thẳng của Thiên Chúa giáng xuống những con người tội lỗi. Nhưng nhìn về tình yêu bao la của Chúa, con người lại e dè, xấu hổ. Nó tự thấy mình bất xứng với tình yêu mà Chúa Cả Trời Đất dành tặng cho nó. Thiên Chúa thì mải mê tìm kiếm và tỏ tình với con người. Rồi cũng đến lúc con người ngã vào lòng Thiên Chúa. Lịch sử cuộc tình ấy tiếp tục được trình bày trong Chúa nhật thứ II này.

Người đầu tiên thuận lòng theo Chúa

Sau khi đơn phương ký kết với ông Noe, Thiên Chúa không ngừng bày tỏ tình thương của Ngài với con người. Nhưng sau biến cố Đại Hồng thủy bi thương, dường như con người chẳng sợ hãi Thiên Chúa; Con người tiếp tục làm ngơ trước tình thương của Ngài. Câu chuyện tháp Babel như lặp lại cái tội kiêu ngạo của con người, tội đòi được bằng Trời. Tuổi thọ của các tổ phụ được mô tả dần dần bị giảm xuống cho thấy hậu quả của tội lỗi con người tiếp tục đè nặng trên đôi vai của nó.

Abraham, một người cụ thể phải lòng Chúa đã đột ngột bước vào lịch sử cuộc tình giữa Trời và người. Một con người chính thức gục ngã trước tình thương của Chúa. Ông đã không thể cưỡng lại được tình cảm yêu mến và sự chăm lo của Chúa dành cho Ông. Abraham đã thất thần phải lòng Thiên Chúa. Ông bước đi theo Ngài bất chấp mọi sự. Ra đi nhưng Ông không biết mình sẽ đi đâu. Chỉ đơn giản là Ông đi theo tiếng gọi của Ngài.

Bài đọc thứ nhất (St 22, 1-2. 9a. 10-13. 15-18) trích lại phần cao trào thử thách mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Chấp nhận đi theo Chúa rồi, nhưng những gì trải ra trước mắt Ông chỉ toàn là những trái ngang và mù mịt. Lời Chúa hứa ban cho Ông Bà một dòng dõi đông đúc luôn được Chúa nhắc lại. Nhưng điều quan trọng là tuổi Ông Bà đã già mà vẫn chưa có con thì nói gì đến dòng dõi. Thế rồi niềm hy vọng được khơi lên mạnh mẽ khi đứa con trai duy nhất của Ông Bà đến tuổi khôn. Nhưng chính lúc ấy thì Thiên Chúa kêu Ông hãy hiến tế con mình. Trái ngang và mịt mù làm vậy, nhưng Abraham vẫn nhanh nhẹn bước đi và thi hành theo Lời Chúa. Ông đã phải lòng Chúa thật rồi.

Tại sao Chúa lại cứ thử thách con người như thế? Người ta có thể than trách về Ngài cứ như là Chúa chỉ nói lời chứ không thực hiện. Nhưng lịch sử cho thấy Thiên Chúa đã dần thực hiện lời hứa của Ngài với tổ phụ Abraham về một dòng dõi đông đúc, một miền đất phì nhiêu và một lời chúc phúc. Ngược lại, lịch sử của con người lại phơi bày những yếu đuối, đổ vỡ, phản bội và bất trung với Chúa. Những thử thách trong tình yêu nhằm thanh tẩy con người ấy càng làm cho câu chuyện tình của Chúa và con người ngày càng trở nên mãnh liệt và đầy thi vị.

Cảm nếm cảnh xum vầy chan hòa hạnh phúc

Trong bài đọc thứ hai (Rm 8, 31b-34) trích từ thư Thánh Phaolo Tông đồ gửi tín hữu Roma, thánh nhân đã thốt lên: “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Tình yêu mà Chúa dành cho con người quả thực không có biên giới. Thiên Chúa đã không để cho Tổ phụ Abraham dâng hiến đứa con một của mình cho Ngài. Nhưng đến lượt Ngài, thì Ngài đã trao ban chính Con Một của mình cho con người. Thiên Chúa không bao giờ để cho con người bị tận diệt; và để cứu con người khỏi cảnh hư vong, Thiên Chúa đã trao ban tất cả cho con người.

Nếu có giây phút nào đó khiến con người nghi ngờ tình yêu của Chúa, thì Ngài sẵn sàng cho con người hưởng kiến vinh quang ngày chiến thắng, ngày đoàn tụ trong hân hoan. Khung cảnh thần hiện của Chúa Giêsu trên núi Tabor được thuật lại trong bài Tin mừng Chúa nhật này (Mc 9, 1-9). Chúa Giêsu biến hình trở nên sáng láng cùng sự xuất hiện của Môsê và Êlia. Tất cả làm cho không gian trở nên lạ thường. Các môn đệ chứng kiến cảnh này đã bị choáng ngợp trước vẻ huy hoàng. Phêrô lên tiếng nhưng “Phêrô không rõ mình nói gì”. Các ông như không còn ý thức về thân phận mình nữa mà chỉ còn lại là sự thâm nhập của Chúa vào trong con người các ông.

Phêrô đã thốt lên: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm”. Được cảm nếm giây phút rạng ngời trong Chúa, các ông chẳng còn thiết tha gì ở thế gian này. Ông đã thốt lên một lời trong tâm trạng hoảng sợ. Đứng trước cảnh tượng mà người ta chỉ còn có thể ngây người, há miệng, trố mắt nhìn thì làm sao mà còn nghĩ được gì. Phêrô nói mà còn chẳng biết mình nói gì. Nhưng nó lại cho ta thấy khát vọng sâu xa của con người là được ở lại trong Chúa. Lời thốt lên ấy của Phêrô là tiếng vọng từ tận sâu thẳm của tâm hồn con người. Chứng kiến một tình yêu cao cả đến thế nơi Chúa thì con người cũng dần phải lòng hết thôi.

Ngẫm

Phải lòng Thiên Chúa là hạnh phúc cho con người. Tình yêu Chúa có sức thanh tẩy con người tội lỗi, tái tạo và biến đổi con người đổ vỡ trở nên thánh thiện tinh tuyền. Chỉ một lần bạn được cảm nếm sự dịu ngọt của Chúa, bạn sẽ thấy tâm hồn trở nên tươi mới. Và cũng chỉ một lần bạn được ngã vào vòng tay yêu thương của Chúa sẽ muôn đời bạn không thể quên Ngài. Những ngày tháng, hay chỉ là những phút giây bạn phải lòng Thiên Chúa, bạn bị Chúa chiếm hữu tâm hồn, thì bạn sẽ đủ nghị lực và niềm tin để vượt qua tất cả mọi chông gai thử thách trên đường đời.

Nếu không màng chi đến thời khắc lịch sử, thì Mùa Chay đến rồi lại đi. Chẳng còn gì đọng lại trong tôi, trong bạn. Mùa Chay là cơ hội, là dịp mà con người tự tạo ra cho nhau để mà cùng nhau cảm nếm Tình yêu Chúa. Trong tĩnh lặng hay trong hoảng loạn, trong không gian thiêng thánh hay giữa chốn phồn hoa, lời tỏ tình của Chúa vẫn không ngừng vang lên.

Hãy dừng lại một chút để cảm nếm bạn ạ. Hãy nuốt đi những miếng nhai nhồm nhoàm để hớp lấy giọt sương sa thanh khiết mát rượi; hãy bỏ xuống chiếc kính màu chắn nắng để diện kiến vinh quang rạng ngời của Tạo Hóa; hãy rút cái phone ra khỏi tai để bạn có thể nghe thấy âm thanh thực của cuộc sống, những âm thanh từ trời cao hay tiếng róc rách của con suối dưới chân đồi; hãy mở rộng tâm hồn để được cảm nhận tất cả những cung bậc của tình Trời và người đang rung lên từ những tế bào sống trong ta.

 

40.Lên núi cầu nguyện--Tôma Nguyễn Xuân Hiệp

Chuyện kể rằng: Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, rất hợp tính và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện. Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hằng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng, ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo. Mười năm sau, người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hợp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa. Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh ta. * Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua. * Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác. * Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi, có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa. Sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước. Vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế. Muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải biết từ bỏ những thói quen xấu, những cám dỗ đam mê và đồng thời biết nổ lực luyện tập những nhân đức tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết đứng, chứ không còn là một thân cây tươi tốt sống động vươn mỗi ngày. Sở dĩ người anh trở nên tầm thường, khô cằn vì suốt 10 năm qua anh ta luôn tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái xấu nào và cũng không nổ lực tập một nhân đức nào. Tức anh ta không chịu “lên núi” trong đời sống hằng ngày để cầu nguyện, để gặp Chúa, để được biến đổi.

Cả ba bài đọc phụng vụ hôm nay mời gọi chúng ta theo Chúa Giêsu “lên núi cầu nguyện”. Bài đọc 1, sách Sáng Thế tường thuật lại biến cố “lên núi” của Tổ phụ Abraham đầy giân truân vất vả, cả sự dâng hiến mạng sống người con một yêu dấu theo thánh ý Thiên Chúa. Chính bởi đức tin mạnh mẽ và quả cảm vượt thắng tất cả mà ông được gặp gỡ Thiên Chúa và được chúc phúc. Bài đọc 2, thánh Phaolô mời gọi giáo đoàn Rôma: hãy tín thác vào Thiên Chúa Tình Yêu, cho dẫu hành trình đức tin như một cuộc “leo núi” đầy khó nguy. Chính Thiên Chúa đã đi bước trước và thể hiện tình yêu qua Người Con Một: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tha, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”. Bài Tin Mừng, thánh sử Maccô đã tường thuật lại biến cố Chúa Giêsu biến hình trên núi trước mặt các môn đệ thân tín là: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Qua biến cố ấy, Chúa Giêsu muốn để lại cho các tông đồ và mỗi chúng ta bài học hữu ích trong hành trình đức tin của người kitô hữu là phải “lên núi” “Đức Giêsu lên núi cầu nguyện” (Mc 9, 28). Đây là bài học căn bản và nền tảng mà Chúa Giêsu muốn dạy mỗi người chúng ta: Phải cầu nguyện, kết hiệp và tìm thánh ý Chúa sau và trước những công việc làm. Để thực hiện điều ấy, “Đức Giêsu lên núi”, tức phải vứt bỏ những vướng bận lo toan thành công thất bại, phải dành thời giờ cho việc leo núi, vượt thắng những cám dỗ đam mê, phải nổ lực phấn đấu không ngừng với thân xác nặng nề để leo lên độ cao khó khăn vất vả trong đời sống tâm linh mới có thể sống tương giao với Thiên Chúa và để lắng nghe thánh ý của Người. Nếu thiếu vắng đời sống tương giao kết hiệp với Thiên Chúa trong thinh lặng, trong thẳm sâu tâm hồn để kín múc sức sống thần linh từ Thiên Chúa, thì xem chừng cách cầu nguyện ấy đã đi vào vết xe đổ của kiểu cầu nguyện đầy hình thức bên ngoài mà Chúa Giêsu đã từng lên án những người Biệt Phái. Đó là kiểu cầu nguyện kể lể, huênh hoang báo cáo kết quả cho cấp trên là Thiên Chúa. Hay kiểu cầu nguyện xem Thiên Chúa chỉ là chỗ dựa tinh thần tạm thời. Khi gặp thất bại, gian truân thì sốt sắng đến với Thiên Chúa như chiếc phao cứu sinh của đời sống tâm lý để giải tỏa những xung đột, những bế tắc, để vượt qua những bĩ cực thương đau. Sự sốt sắng cầu nguyện hy sinh ấy là vì con người, chỉ dừng lại ở nhu cầu ích lợi cá nhân chứ chưa đi vào mối tương giao kết hiệp với Thiên Chúa để tìm thánh ý Người. Nhà thần học Bonneffeur bảo: Đó là kiểu cầu nguyện ngoại giáo; một kiểu cầu cạnh tư lợi. Người không biết Chúa và cả những người vô thần cũng làm như thế. Một kiểu cầu an! Còn Chúa Giêsu mời gọi chúng ta phải vượt thoát những vướng bận lo toan của đời thường để kết hiệp với Chúa, để tìm thánh ý Chúa trong từng biến cố, từng phút giây. Phải kết hiệp với Thiên Chúa cách liên lỉ mọi lúc mọi nơi, mọi công việc. (x. Mc 18,1-8. 9-14) Ước mong Lời Chúa hôm nay soi dẫn mỗi người chúng ta biết “lên núi” mỗi ngày, biết từ bỏ những cám dỗ đam mê, những vướng bận đời thường, mà sống kết hiệp với Thiên Chúa qua Thánh lễ, kinh nguyện, xét mình, tĩnh tâm, lãnh bí tích Giao hòa …. Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor hôm nay là hình ảnh tiên trưng hành trình vác thập giá lên núi Canvê và phục sinh của Chúa Giêsu. Và đó cũng là hành trình đức tin của mỗi người tín hữu chúng ta. Mỗi người chúng ta phải “lên núi” mỗi ngày mới có thể “biến hình”, mới có thể phục sinh sáng láng như Đức Giêsu Kitô. Amen.

 

41.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Đức Ông James M. Reinert--Đan Quang Tâm dịch

MÙA CHAY, NHỚ LẠI VAI TRÒ VÀ SỨ MẠNG

CỦA TA TRONG GIÁO HỘI

Câu truyện Ápraham sẵn sàng hiến tế con trai mình là Ixaác đặt toàn bộ việc cử hành Mùa Chay vào trong một ánh sáng tuyệt hảo. Thánh Phaolô ám chỉ về câu truyện này trong Thư gửi tín hữu Rôma. Tuy nhiên, ông nhắc cộng đồng rằng Thiên Chúa không những chỉ sẵn sàng hiến tế Con của Người nhưng Người còn “đã trao nộp vì hết thảy chúng ta”.

Bởi vì hy tế đó, ta có can đảm và sự tự tin để biết rằng nếu ta trung thành, ta không có gì phải sợ. Thiên Chúa đã làm tất cả việc này cho chúng ta, Phaolô viết. Làm sao Người lại lên án chứ?

Tất cả điều này được tái củng cố trong câu truyện Hiển Dung khi Đức Giêsu khích lệ các tông đồ đừng mất đức tin trong ngày sắp đến. Trình thuật Hiển Dung trong Phúc âm Thánh Máccô thực tế chỉ là sự chép lại từng từ trong Phúc âm của Thánh Mátthêu và Thánh Luca. Ngay cả các biến cố dẫn đến sự kiện cũng y hệt.

Điều quan trọng là đặt bài Phúc âm ngày hôm nay vào trong ngữ cảnh. Theo Thánh Máccô, sự kiện xảy ra sáu ngày sau khi Đức Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thày là ai?” Câu trả lời mà Thánh Phêrô đưa ra cho Người, quen gọi là lời tuyên tín của Phêrô, “Thầy là Đức Kitô!”, đã đưa Đức Giêsu đến chỗ báo trước lần thứ nhất về cuộc thương khó, cái chết và sự phục sinh của Người và vạch ra các đòi hỏi cho các môn đệ. Một lần nữa, Đức Giêsu sắp nhắc nhở các môn đệ và tất cả chúng ta rằng đây là một bộ phận trong kế hoạch của Thiên Chúa và từ lúc này trở đi, trong khi tiếp tục cuộc hành trình lên Giêrusalem, Người sẽ nói về thập giá rất nhiều lần.

Nay, sáu ngày sau, Đức Giêsu đem Phêrô, Giacôbê và Gioan lên đỉnh núi và Người hiển dung. Chắc chắn đây là một sự nếm trước về cuộc phục sinh. Hầu như chắc chắn là các môn đệ vẫn còn tìm cách để hiểu biết đầy đủ điều Đức Giêsu muốn nói khi bảo họ: “Người sẽ bị giết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Nay họ được giải thích rõ về lời nói đó. Họ xem thấy vinh quang của trời; họ thấy mối liên quan giữa “lề luật” trong Môsê và các “ngôn sứ” trong Êlia và sứ điệp mà Đức Giêsu đã và đang rao giảng.

Trong Chủ nhật thứ hai này của Mùa Chay, ta được nhắc đến các vai trò và trách nhiệm của ta trong Giáo hội. Tất cả điều này đến với ta bằng sự đoan chắc rằng đây là một phần trong kế hoạch của Thiên Chúa, ta có các nghĩa vụ với tư cách là môn đệ và ta có sự đoan chắc về Nước Thiên Chúa – mà ta vừa mới nhìn qua – trước hết trong câu truyện Hiển Dung và rồi trong sự phục sinh của Đức Giêsu vào sáng Chúa nhật Phục sinh.

“Toàn thể dân Chúa đều có một vai trò để thực hiện trong khi Giáo Hội hoàn thành sứ mạng của mình. Bằng các cách thức khác nhau và thông qua mỗi thành viên theo các năng khiếu và cách hành động thích hợp với ơn gọi của mỗi người, dân Chúa đáp lại bổn phận công bố và làm chứng cho Tin Mừng (x. 1 Cr 9,16), trong sự nhận thức rằng “hoạt động truyền giáo là một công việc của mọi Kitô hữu” (Thông điệp Redemptoris Missio, 2) (Sách Tóm lược Học thuyết Xã hội Giáo hội Công giáo, 538).

“Đời sống cá nhân và xã hội, cũng như hành động con người trong thế giới, luôn luôn bị tội lỗi đe doạ. Tuy nhiên, “bằng cách chịu khổ vì chúng ta…, Đức Giêsu Kitô không những làm gương cho chúng ta để chúng ta bước theo Người, mà Người còn mở ra cho chúng ta một con đường. Nếu đi theo con đường ấy, cuộc sống và cái chết của chúng ta sẽ được thánh hoá và mặc một ý nghĩa mới” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22). Trong đức tin và thông qua các bí tích, người môn đệ Đức Kitô gắn bó mật thiết với mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu để con người cũ của mình, cùng với những khuynh hướng xấu, chịu đóng đinh với Đức Kitô. Rồi khi trở thành thụ tạo mới, họ được ân sủng tăng sức để có thể “bước đi trong đời sống mới” (Rm 6,4). Điều này “không chỉ đúng với các Kitô hữu, mà còn đúng đối với mọi người thiện chí, vì ân sủng vẫn đang hoạt động một cách vô hình trong tâm hồn những người ấy. Vì Đức Kitô đã chết cho mọi người và vì ai ai cũng được mời gọi hưởng chung một định mệnh duy nhất, là định mệnh thần linh, ta phải tin rằng Đức Chúa Thánh Thần ban cho mọi người khả năng trở thành những người thông phần vào Mầu nhiệm Vượt Qua, bằng phương cách chỉ có Thiên Chúa biết” (Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes, 22) (sđd, 41).

 

42.Lên núi để được biến đổi--Lm. Minh Anh

“Chúa Giêsu đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan đi riêng với Người lên núi cao”.

Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ không bất ngờ khi nói, Mùa Chay là mùa cầu nguyện; nhưng sẽ khá bất ngờ khi bảo, Mùa Chay là ‘mùa lên núi’ và bất ngờ hơn khi cho rằng, Mùa Chay còn là mùa biến đổi. Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay mời gọi chúng ta ‘lên núi lòng mình’ để cầu nguyện; ở đó, như các môn đệ, chúng ta sẽ được đổi thay. Và như thế, Mùa Chay là mùa ‘lên núi để được biến đổi’.

Bài đọc Sáng Thế tường thuật cuộc lên núi nghiệt ngã của Abraham; ở đó, vị tổ phụ vâng lời Thiên Chúa, đã chấp nhận hiến tế Isaac con mình. Thế nhưng, ngọn núi này còn có tên là núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’, vì Abraham còn nhận ra khuôn mặt của một Ngôi Vị  thần linh có trái tim thương xót vô bờ; Người là Thiên Chúa nhân hậu, đã tha chết cho con ông, cũng là Đấng đã đưa ông ‘lên núi để được biến đổi’. Lòng tin của ông vào Người càng tuyệt đối hơn, ông sẽ là “Cha các kẻ tin”.

Ngôi Vị thần linh có trái tim xót thương vô bờ đó, ‘đã liệu’ cho con của Abraham thoát chết, lại ‘không liệu’ cho Con Một của mình khỏi chết. Thánh Phaolô hẳn đã nhớ lại ngọn núi ân phúc ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ cho Abraham ấy để nói đến cái chết cần thiết của Chúa Giêsu, một cái chết không thể thiếu cho ơn cứu độ nhân loại vốn cũng xảy ra trên một ngọn núi ‘Thiên Chúa sẽ liệu’ khác; Phaolô viết, “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con, vì tất cả chúng ta”.

Tin Mừng hôm nay cũng cho thấy sự cần thiết việc các môn đệ ‘lên núi để được biến đổi’. Chúa Giêsu biết rõ những ai theo Ngài, cụ thể là các môn đệ, sẽ khó chấp nhận Ngài. Bởi lẽ, yêu kẻ thù, vác thập giá, hy sinh mạng sống và lời kêu gọi nên hoàn thiện, với họ, thật là cay nghiệt; và nhất là, họ sẽ trải qua những gì Ngài đã báo trước về cuộc thương khó và tử nạn của Ngài; cùng lúc, họ sẽ chịu bắt bớ và tan tác như chiên mất chủ. Vì những lý do đó, Chúa Giêsu đã đưa Phêrô, Giacôbê, và Gioan lên núi; ở đó, Ngài biến hình trước mặt họ, tỏ cho họ thoáng thấy Ngôi Vị thần linh cao cả của Ngài; đó là một mặc khải về Ngôi Vị thật của Con Thiên Chúa, Ngôi Vị Thiên Chúa. Việc chứng kiến sự vĩ đại và vinh quang của một vị Thiên Chúa nơi Thầy mình hẳn sẽ đọng lại trong họ và giúp họ mỗi khi bị cám dỗ dẫn đến nản lòng hay tuyệt vọng trước những quẩn bách hay những đòi hỏi thánh thiện Ngài đặt ra. Tắt một lời, cuộc hiển dung của Chúa Giêsu là sự ‘chuẩn bị gần’ trước khi họ đi vào thương khó của Thầy và trò; ‘lên núi để được biến đổi’ là thế!

Sau năm 373, muốn biết Chúa nhiều hơn, Thánh Gioan Kim Khẩu đã lên núi, một vùng cao gần Antioch. Mặc dù vì bệnh tật, thời gian cô tịch này không được nhiều năm, nhưng thánh nhân đã học được rằng, có Chúa ở bên, ngài có thể một mình chống lại bất cứ ai hoặc bất cứ điều gì. Sau đó, là giám mục Constantinople, ngài đã chống lại những sai lạc của hoàng đế Theodosius, người khiến ngài phải lưu đày. Gioan Kim Khẩu đã để lại những lời bất hủ, “Điều gì khiến tôi có thể sợ hãi? Cái chết ư? Các người biết rằng, Đức Kitô là sự sống của tôi, tôi sẽ có được nó nhờ cái chết! Hay là lưu đày? Trái đất và tất cả sự sung mãn của nó đều thuộc về Chúa! Nghèo khó ư? Tôi không sợ; vì tôi chẳng ước mơ giàu có! Và chết ư? Tôi chẳng chồn chân!”.

Anh Chị em,

Như Thánh Gioan Kim Khẩu, những ngày Mùa Chay, chúng ta được mời gọi ‘lên núi’ không ngừng để biết Chúa Giêsu, hiểu Ngài như các môn đệ hiểu. Một khi đã xác tín Đấng tôi đi theo là ai, chúng ta mới có thể dễ dàng noi gương Ngài, nghĩa là sẵn sàng hiến tế ‘Isaac đời mình’, hiến tế cái tôi của mình. Và đây đích thực là sự biến đổi tận căn mà Thiên Chúa đang chờ đợi mỗi người. Chúng ta ‘lên núi lòng mình’ bằng lời cầu nguyện thầm lặng của trái tim, ra sức tìm kiếm Thiên Chúa, hầu có thể nhìn vào nội tâm của mình, và nhất là để nhìn vào khuôn mặt của Chúa Giêsu và cho phép ánh sáng Ngài tràn ngập, chiếu sáng và biến đổi cuộc sống của chúng ta. Và như thế, thật ý nghĩa, Mùa Chay này, chúng ta đã ‘lên núi để được biến đổi’ vậy.

Chúng ta có thể cầu nguyện,

“Lạy Chúa, tạ ơn Chúa đã cho con thấu hiểu và cảm nghiệm, con đang bước theo một Giêsu nhân từ và giàu lòng xót thương. Cho con không ngừng hiến tế ‘Isaac đời con’, vươn ra khỏi cái tôi ích kỷ; cho con biết yêu mến việc ‘lên núi để được biến đổi’ hầu nên giống Ngài ngày một hơn”, Amen.

 

43.Hai khuôn mặt một tình yêu--Lm. Phanxicô Xavie Lê Văn Nhạc

Tin mừng Mc 9: 2-10: Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: "Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa".

Tại nước Mêhicô, người ta thường tổ chức những cuộc đấu võ rất ác liệt. Đó là một loại võ tự do, nên các võ sĩ có thể phục sức tùy sở thích và có thể mang cả mặt nạ trong khi đấu võ.

Một linh mục tên là Ga-ê-ta-nô đang làm công tác xã hội để giúp nuôi các trẻ em nghèo và mồ côi. Để có thêm tiền cho mục đích này, Cha Ga-ê-ta-nô liền nghĩ đến chuyện ghi danh tham dự các trận đấu.

Với một thân hình to lớn, thông thạo võ thuật và đầy lòng dũng cảm, mỗi khi lên võ đài, Cha Ga-ê-ta-nô mang một chiếc mặt nạ màu vàng để che dấu tung tích của mình. Ngài thường đấu với những đối thủ hung hãn nhất. Tất cả tiền thưởng hoặc thù lao nhận được, Cha đều dành cho quĩ cứu trợ các trẻ em nghèo và mồ côi. Từ đó, chiếc mặt nạ vàng trở thành biểu tượng cho tấm lòng vàng của Cha Ga-ê-ta-nô.

Thưa anh chị em,

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên võ đài Cha Ga-ê-ta-nô là một võ sĩ mang mặt nạ vàng, ở giữa đàn con cô nhi của cha. Cha là một linh mục sống hoàn toàn cho người khác, phản ảnh tình yêu của Thiên Chúa, một tình yêu cho đi mà không tính toán, không so đo, không sợ thương tích.

Hai khuôn mặt, một tình yêu: Trên núi Ta-bo, khuôn mặt Chúa Giêsu bừng sáng ánh hào quang của một Thiên Chúa. Ở giữa loài người, Con Thiên Chúa vẫn mang khuôn mặt bình thường như chúng ta. Ba môn đệ đã quá quen với khuôn mặt Thầy Giêsu, khuôn mặt dãi dầu mưa nắng vì sứ vụ, khuôn mặt chan chứa mọi thứ tình cảm của con người. Rồi đây, ba môn đệ này còn phải làm quen với khuôn mặt khổ đau trong Vườn Cây Dầu và khuôn mặt đẫm máu trên Thập giá của Thầy Giêsu. Biến hình chỉ là một hào quang lóe lên ngắn ngủi, bất ngờ, báo trước vinh quang phục sinh sắp đến. Thân xác Chúa Giêsu sẽ được vào vinh quang viên mãn khi thân xác ấy chịu lăng nhục và đóng đinh vì yêu Cha và yêu con người đến tột cùng.

Ở bài đọc 1 hôm nay, sách Sáng thế đã cho ta thấy: Thiên Chúa đã dung tha cho Abraham khỏi sát tế Isaac, người con duy nhất của Lời Hứa. Nhưng Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một yêu quí của Ngài. Như lời Thánh Phaolô: "Thiên Chúa đã không dung tha chính Con Một mình, nhưng lại phó nộp vì tất cả chúng ta, há Ngài lại chẳng ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con của Ngài sao?" (Rm 8,32). Nếu Thiên Chúa đã ban cho chúng ta Người Con duy nhất của Ngài thì Ngài còn tiếc gì với chúng ta nữa? Abraham là hình ảnh của Cha trên trời, không ngại dẫn Con mình đến Thập giá trên Núi Sọ. Hơn nữa, hình ảnh của Isaac vác củi đi theo cha và bằng lòng để cha sát tế, cũng hướng chúng ta về cuộc Thương Khó: Chúa Giêsu vác lấy Thập giá rồi tự hiến mình trên Thập giá theo ý Chúa Cha.

Trong cuộc biến hình huy hoàng rực rỡ của Chúa Giêsu trên núi Tabo, chính Chúa Cha đã xác quyết một lần nữa: "Chúa Giêsu chính là Người Con yêu quý của Thiên Chúa". Người Con trong thực tế rực rỡ vinh quang của Thiên Chúa, nhưng đã ẩn che vinh quang đó để đi vào con đường vâng phục cho đến chết và chết trên Thập giá, để dẫn đưa nhân loại đi qua cùng một con đường Thập giá đến vinh quang Phục Sinh. Cảnh tượng huy hoàng của Núi Tabo hôm nay sẽ củng cố lòng tin của chúng ta khi đứng trước cảnh tượng tang thương trên Núi Golgôtha, đồng thời nhắn nhủ chúng ta phải biết tìm ra sức sống phong phú bên kia cái chết. Chấp nhận mất tất cả để nhận lại tất cả, chấp nhận chết với Chúa để sống lại vinh quang với Ngài, đó là định luật căn bản của Kitô giáo. Abraham, "người Cha của mọi kẻ có lòng tin" đã lấy chính cuộc đời mình để làm sáng tỏ cuộc định luật căn bản đó. Và cuộc biến hình trên Núi Tabo cũng nhằm chứng minh định luật tất yếu chết để sống cuộc đời Chúa Kitô cũng như của chúng ta trên đường về cõi sống.

Chúng ta cũng được biến hình, được bừng sáng, nếu chúng ta dám yêu thương, dám từ bỏ cái tôi ích kỷ, để cái tôi đích thực được lộ ra, trong sáng. Thế giới hôm nay không thấy Chúa biến hình sáng láng, nhưng họ có thể cảm nghiệm được phần nào, khi thấy các kitô hữu có khuôn mặt vui tươi, chan chứa niềm tin, tình thương và hy vọng, như khuôn mặt mang mặt nạ vàng của Cha Ga-ê-ta-nô trên võ đài, tượng trưng tấm lòng vàng của Cha đối với các em nghèo và mồ côi.

Thưa anh chị em,

Chúa Giêsu, "Người Con Một yêu quí của Cha, Người đẹp lòng Cha", đã chấp nhận tạm gác bỏ, dấu kín vinh quang Ngài vốn có từ muôn thuở nơi Chúa Cha, để hóa thân làm người hầu cứu rỗi chúng ta, Ngài còn hy sinh đến cùng độ, hy sinh chính mạng sống mình theo ý Chúa Cha nữa. Vì thế, Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh trên hết mọi loài, sau khi cho Ngài được Phục Sinh từ cõi chết.

Mầu nhiệm này đã được thực hiện trọn vẹn một lần trong lịch sử, nhưng hằng ngày, đặc biệt trong thánh lễ, mầu nhiệm ấy còn được tưởng niệm, tái hiện trên bàn thờ. Tham dự Thánh Thể, dấu hiệu và bằng chứng tình yêu của Chúa, nhờ Chúa Kitô, chúng ta bày tỏ lòng yêu mến Chúa, biết ơn Chúa và cố gắng đổi mới đời sống hằng ngày của chúng ta, góp phần làm cho thế giới này biến hình đổi dạng trở nên Trời Mới Đất Mới trong ngày Chúa Giêsu Kitô trở lại trong vinh quang.

 

44.Vâng phục thánh ý Chúa: Đường trọn lành hoàn hảo--Lm. Giuse Phạm Ngọc Khuê

Kính thưa quý anh chị em,

Thiên Chúa là Đấng thượng trí, khôn ngoan vô cùng, mọi phán quyết, dạy dỗ của Người đều là chân lý, là tình thương cứu độ: Thầy là đường, là sự thật và có lời ban sự sống đời đời (cf. Jn 14, 1 – 12), nghĩa là bản chất của lời làm nên sự sống trần gian.

Đầy dẫy chứng từ Kinh Thánh minh xác chân lý cứu độ phát xuất từ lời “tình yêu và sự sống” thần linh được đón nhận trong tự do của loài thụ tạo.

Abraham vâng lời Chúa ra đi, đạt tới đất hứa, được nên công chính bởi tin, trở thành tổ phụ của tất cả những ai bước đi trong đức tin này, nghĩa là được vào Nước Chúa, sở hữu sự sống muôn đời.

Đức Maria, bởi sự vâng phục tuyệt đối, trở nên Mẹ Thiên Chúa, nên dấu chỉ và niềm hy vọng cho dân Chúa trên đường lữ thứ trần gian.

Trên tất cả, Chúa Giê-su, cuộc đời Ngài đồng hóa với sự “vâng phục”, như của ăn làm cho cơ thể sống, sự vâng phục ý Cha làm cho Giê-su luôn sống như một Adam mới, trở nên nguyên nhân phần rồi đời đời cho tất cả những ai tùng phục Người.

Những nhân chứng của niềm hy vọng lớn lao giúp chúng ta lắng nghe, vâng phục và thực thi ý Chúa, được cụ thể trong phụng vụ Lời Chúa, để được sống và sống dồi dào.

Chủ đề xuyên suốt các chúa nhật mùa chay: sự hiệp thông giữa Thiên Chúa và con người được thiết lập qua dấu chỉ “Giao Ước”. Lắng nghe và thực thi ý Chúa là dấu chỉ đức tin, điều kiện cấu thành sự hiệp thông cứu độ, đem lại sự sống đời đời.

Trong chúa nhật I, hiệp thông giao ước làm theo cách thức Chúa chỉ: Noe lên núi, đóng tàu. Tình hiệp thông ghép các tấm ván thành con tàu cứu gia đình ông khỏi đại nạn hồng thủy.

Chúa Giê-su mời gọi con người hoán cải canh tân đón nhận Nước Trời. Trong con tàu Giê-su, mỗi người trở thành chi thể sống động, có Giê-su là đầu, để hễ đầu đi tới đâu, thì toàn thân được lôi kéo tới đó, đầu có sự sống bởi Cha, thì các chi thể, nhờ Ngài, cũng được sống như vậy.

Trong chúa nhật II mùa chay, tình hiệp thông giao ước còn được nâng lên mức độ cao hơn khi Thiên Chúa đòi hỏi sự hiến tế chính bản thân mình.

Abraham, trong bài đọc I, được ban tặng mọi phúc lành giao ước với điều kiện phải tuyệt đối vâng phục ý Chúa. Lệnh truyền sát tế I-xa-ác là một đòi hỏi rất nặng nề, nếu không muốn nói là quá sức chịu đựng. Giết con ruột, con một duy nhất, có khác gì giết chết chính bản thân mình. Giết chết con một duy nhất đồng hóa với tận diệt, tuyệt tự, điều mà người Do Thái không bao giờ dám nghĩ và dám làm, vì nó là sự chúc dữ tồi tệ, đáng nguyền rủa nhất.

Đặt mình vào tâm trạng Abraham lúc này, chúng ta thấy đức tin của ông thật mạnh mẽ, phi thường, đã dám nhảy liều trong niềm hy vọng. Nhờ tin vững vàng vào Thiên Chúa, ông đã vượt lên trên con người tự nhiên, mỏng giòn, yếu đuối. Sẵn sàng hiến tế I-xa-ác là hành vi đức tin của bậc anh hùng. Nhờ đó, ông được nên “công chính”, đón nhận mọi lời hứa giao ước.

Bài đọc thứ I cho cái kết có hậu: tất cả đều hoan hỷ, hạnh phúc:

Chúa vui, vì biết ông là người có lòng yêu mến, kính sợ Ngài. Chúa chúc phúc, ban thưởng tất cả mọi sự hơn những gì ông dám ước mơ: được đất hứa làm gia nghiệp muôn đời, được con cái đông như sao trời cát biển, được lôi kéo vào dòng dõi ông tất cả những kẻ bước đi trong đức tin của ông.

Abraham vui, vì sự sống của con ông được bảo tồn, được hưởng tất cả lời hứa và qua ông nhân loại cũng được chúc phúc.

Abraham thật có phúc, vì đã tin và vâng phục đức tin trong mọi sự ! Ông thật là bạn hữu, là con yêu dấu của Cha trên trời, xứng danh trung gian giữa Thiên Chúa và loài người.

Abraham chỉ là hình ảnh tiền trưng của Đấng phải đến, Đức Giê-su Kitô. Abraham là người bởi đất, được nên công chính bởi “tin”, Đức Giê-su là người của “Trời”, làm cho nhân loại nên công chính bởi “Nhập thể”. Bản tính thần linh đảm nhận lấy nhân tính và thần hóa nhân tính nên hàng thần thiêng.

Sự “hiển dung” là cách diễn tả nhân tính Giê-su được được đưa vào vinh quang sáng láng bất diệt. Trong trạng thái vinh hiển này, Giê-su hoàn tất mọi điều lề luật và các ngôn sứ chỉ về Ngài. Sự xuất hiện của Mô-sê và Ê-li-a là nhân chứng cho cả mạc khải rằng: Đấng phải đến đã đến rồi, nhân loại không còn phải chờ đợi đấng nào khác nữa.

Đặc biệt trong biến cố này là sự thần hiển Ba Ngôi: Giê-su biến đổi sáng láng tốt lành, Chúa Thánh Thần lấy hình đám mây bao phủ tất cả, Chúa Cha tuyên phán: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7b).

Như vậy, trong tư cách Ngôi Lời nhập thể, Giê-su là người duy nhất vâng phục trọn vẹn thánh ý Cha, đã trở nên Con rất yêu dấu của Cha.

Giê-su, đã thay thế Adam bất trung, trọn niềm tin phó thác nơi Cha, trở nên nguyên nhân phần rỗi đời đời cho tất cả những ai tùng phục người.

Cuộc đời Giê-su kết thúc bằng: “mọi sự đã hoàn tất”, trở nên Con yêu dấu, Con hoàn hảo như Cha trên trời là Đấng hoàn hảo.

Trong sự phục sinh vinh hiển, lên trời, ngự bên hữu Cha, Giê-su là Đấng trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người.

Phao-lô coi vai trò trung gian của Chúa Giê-su là sự bênh đỡ mạnh thế không ai có thể chống lại chúng ta.

Cũng vậy, vì một tình yêu luôn luôn lớn hơn, Cha trên trời đã thí bỏ Con Một yêu dấu vì tất cả chúng ta, lẽ nào Ngài lại ruồng rẫy, hất hủi, kết án chúng ta.

Giê-su, đã chết và đã sống lại, đang ngự bên hữu Cha, biện hộ và chuyển cầu, để chúng ta được sống và sống dồi dào.

Chúng ta cũng phải nghe lời Cha: đón nhận và thực hành giáo huấn của Chúa Giê-su, thì lời hứa giao ước mới được mãi mãi duy trì, tình yêu và sự sống thật mới đạt thấu chúng ta.

Hãy biết lắng nghe, thực hiện ý Cha trên trời, để trong Giê-su, chúng ta cũng trở nên con yêu quý của Cha, xứng đáng hưởng phúc lành là sự sống muôn đời. Amen.

 

45.Hãy Nghe Lời Người--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến

Đoạn 9,2-9 thuộc phần thứ hai của văn mạch 8,31-9,29. Trong phần thứ nhất (8,31-9,1), Chúa Giêsu loan báo công khai lần đầu tiên về cuộc thương khó, cái chết, và sự sống lại, và các môn đệ đã  tỏ ra không hiểu (8,31-33). Người còn nói thêm những điều kiện xem ra khó thực hiện để làm môn đệ của Người và để cứu lấy mạng sống (8,34-9,1). Do đó, trong phần thứ hai, việc biến hình (9,2-9), đối thoại về Êlia (9,10-13) và biểu hiện quyền năng của Chúa Giêsu (9,14-29) là để mạc khải Chúa Giêsu cho các môn đệ và để kêu gọi các ông hãy tin và nghe lời Người.

Mọi chi tiết cuộc biến hình tập trung về Chúa Giêsu, mà cao điểm là tiếng nói từ đám mây: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người” (9,7). Chúa Cha thực hiện việc biến hình nầy. Cuộc biến hình diễn ra trong khung cảnh của thế giới Thiên Chúa. Phần chuẩn bị: chiếc áo rực rỡ và trắng tinh Chúa Giêsu đang mặc biểu thị tình trạng của Người sau khi sống lại (x.16,5), hai khuôn mặt lớn của Cựu Ước: Môsê đại diện cho Lề luật và giao ước (1,44; 7,10; 10,3; 12,26). Êlia tranh đấu để dân chúng trung thành với giao ước mà chuẩn bị cho Chúa đến (Mal 3,22.24; Dnl 18,15). Phần mạc khải: đám mây biểu thị sự hiện diện của Thiên Chúa (Xh 19,9.16; 20,21; 24,15-18; 34,5). Tiếng nói từ đám mây ngỏ với ba môn đệ là tiếng của Thiên Chúa (Xh 24,16). Lời ấy xác quyết với họ Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa (1,11, nói trực tiếp với Chúa Giêsu; 14,61; 15,39), và ra một mệnh lệnh là phải nghe lời Người.

“Hãy nghe lời Người” được ban ra như một giới răn. Như xưa, trong khung cảnh núi Sinai, đám mây, Thiên Chúa đã tỏ mình ra (Xh 20,2-17; Đnl 5,6-21) và đã ban Mười Giới Răn trên bia đá cho Môsê (Xh 34,28; Đnl 4,13; 5,22; 10,4), bây giờ, cũng trên núi cao và có đám mây, Thiên Chúa tỏ mình ra trong Chúa Giêsu và giới răn của Người là hãy nghe lời Con Yêu Dấu của Người. Giới răn nầy được đặt trước cả giới răn thứ nhất: “Hãy nghe, hỡi Israel” (12,29). Như thế, những khó khăn của các môn đệ đã được soi sáng. Chúa Giêsu mà Phêrô tuyên xưng là Đấng Kitô (8,29), cũng chính là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Cuộc khổ nạn và sự chết của Người (8,31) sẽ được vượt qua bằng sự sống lại bởi quyền năng của Thiên Chúa. Những đòi hỏi của Người về việc vác thánh giá và từ bỏ chính mình (8,34-38) là có thể thực hiện, vì điều ấy được bảo đảm bởi lời của Con Thiên Chúa.

Lời của Chúa Giêsu bây giờ đáng nghe hơn cả lề luật của Môsê và lời của Êlia. Hãy nghe lời của Chúa Giêsu cách tuyệt đối để được chia sẻ vinh quang của Người (x. 8,38).

 

46.Biến hình trong đời thường--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy

Tin mừng Mc 9: 2-10: Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.

Chúng ta vừa nghe thánh Marcô thuật lại quang cảnh hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor. Sự Biến Hình của Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa:

1. Đây là một điều thật quí báu cho Chúa Giêsu

- Chúa Giêsu đã quyết định lên Giêrusalem và quyết định ấy có nghĩa là phải đối diện và chấp nhận thập giá. Người cần biết cách tuyệt đối rằng mình đã quyết định đúng trước khi tiếp tục dấn bước trên con đường khổ giá. Trên đỉnh núi, Người đã nhận ra quyết định của Người.

- Êlia và Môsê đã đến gặp Chúa Giêsu: Môsê là nhân vật tối cao đã ban bố Lề Luật cho dân Israel. Êlia là vị ngôn sứ vĩ đại nhất trong các ngôn sứ. Khi hai nhân vật lỗi lạc đó hội kiến với Chúa Giêsu, có nghĩa là nhà ban bố lề luật vĩ đại nhất và vị ngôn sứ lỗi lạc nhất đã nói với Chúa Giêsu rằng “xin cứ tiến lên!” Nó có nghĩa là hai vị thấy nơi Chúa Giêsu hoàn thành tất cả những gì họ đã từng mong đợi. Nó cũng có nghĩa là họ thấy nơi Chúa Giêsu tất cả những gì mà lịch sử vẫn trông chờ từ lâu và đã hướng về đó với hy vọng tròn đầy. Dường như chính lúc đó Chúa Giêsu được bảo đảm rằng Người đang đi đúng đường, vì cả lịch sử đều dẫn đến thập giá.

2. Đây là một điều quí báu vô cùng cho các môn đệ của Chúa Giêsu

Các môn đệ đang bị tan nát cõi lòng khi nghe Chúa Giêsu khẳng định rằng Người sắp phải lên Giêrusalem để chịu chết. Điều này dường như đã thiêu hủy tất cả những gì họ được biết về Đấng Mêsia. Các môn đệ đang bối rối, ngẩn ngơ, kinh ngạc, chẳng hiểu sự việc thế nào. Những việc xảy ra chẳng những khiến họ rối trí mà còn khiến họ đau lòng.

Những gì đã thấy trên núi cao cho họ một cơ hội để bám lấy Chúa Giêsu ngay cả khi họ chẳng hiểu gì. Cho dù có thập giá hay không, họ vẫn được nghe chính tiếng nói của Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu là "Người Con Yêu Dấu". Nó khiến các môn đệ trở thành các chứng nhân cho vinh quang của Chúa Giêsu vì chính họ đã được thấy vinh hiển của Người.

3. Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi...

- Biến Hình trên núi làm các ông hân hoan, không muốn xuống núi, vì trên núi hạnh phúc hơn cuộc sống đời thường... nhưng phải xuống núi. Hiểu được điều đó nên Susanna Wesley đã có lời cầu nguyện “Lạy Chúa, xin giúp con nhớ rằng đạo không chỉ hạn hẹp trong nhà thờ hay trong cầu nguyện, suy ngẫm, mà là ở khắp mọi nơi trước nhan Chúa”.

Nhà tâm lý học Abraham Maslow kể lại câu chuyện một người mẹ trẻ như sau: "vào một buổi sáng nọ, cô sửa soạn bữa sáng cho gia đình. Nhà bếp chan hòa ánh sáng, những đứa con của cô đang cười đùa vui vẻ, và chồng cô đang đùa giỡn với đứa con út. Trong khi cô đang trét bơ trên bánh và rót nước cam, ngay lúc đó, cô cảm thấy tràn trề niềm vui sướng và yêu thương trong gia đình. Rưng rưng nước mắt, cô đã cảm động đến nỗi không thể nói lên lời." Maslow gọi lúc đó là "giây phút tột đỉnh".

"Giây phút tột đỉnh" là thời khắc ngắn ngủi quí báu làm chúng ta nhìn thấy những biến cố thông thường cách siêu thường. Nó là giây phút giống như là Thiên Chúa chiếu ánh sáng của Ngài vào những sự vật chung quanh chúng ta và làm cho chúng ta cảm thấy mình đang nhìn thấy một thế giới khác. Ý tưởng về "giây phút tột đỉnh" giúp chúng ta hiểu được phần nào những gì mà Phêrô, Giacôbê và Gioan đã cảm nghiệm trong bài Phúc Âm hôm nay.

Các ngài đã cảm nghiệm được những "giây phút tột đỉnh"

Chỉ trong một mấy phút quí báu, các ngài đã thấy được Chúa Giêsu trong một hình thức hoàn toàn khác biệt. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy Thiên Chúa chiếu rọi qua con người bề ngoài của Chúa Giêsu. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã nhìn thấy một thế giới vượt trên thế giới này. Chỉ trong mấy phút quí báu, các ngài đã thấy từ ngoại diện của Chúa Giêsu đến những gì bên trong nội diện: Con Thiên Chúa sáng láng và vinh hiển. Đó chính là  mục đích của việc Chúa Giêsu hiển dung trên núi cao. Tuy nhiên trong cuộc đời Chúa Giêsu cũng có mặt sáng mặt tối.

- Mặt tối là đêm Vườn Cây Dầu đau thương ảm đạm; mặt sáng là cuộc biến hình sáng láng trên núi cao. Nếu các môn đệ chỉ nhìn thấy mặt mặt u ám của đêm Vườn Cây Dầu, lúc Chúa Giêsu bộc lộ nhân tính của mình, tỏ ra kinh khiếp hãi hùng trước cuộc khổ nạn sắp tới đến nỗi phải đổ mồ hôi máu và phải van lơn cầu khẩn với Chúa Cha xin cho khỏi uống chén đắng (Lc 22, 41-44)… mà không thấy được mặt sáng láng của Người trên núi cao, thì các ông sẽ ngã lòng thất vọng. Và biết đâu, các ông đã bỏ đi hết, thì lấy ai làm nhân chứng cho biến cố phục sinh! Lấy ai loan báo Tin Mừng Cứu Độ?  Vì thế, Chúa Giêsu cho các môn đệ thấy mặt sáng của Người trước, qua việc tỏ cho các ngài thấy dung mạo sáng láng vinh hiển của Người, tỏ cho các ngài thấy Người là “Con yêu dấu của Thiên Chúa Cha” để động viên tinh thần các ông khỏi sa sút, thất vọng trong đêm Vườn Cây Dầu sắp đến.

Sự kiện Chúa Giêsu tỏ cho ba môn đệ thân tín cảm nhận thời khắc vinh hiển của Người trên núi cao để chuẩn bị tinh thần các ông đương đầu với thời khắc đen tối của Người trong đêm khổ nạn.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã tỏ vinh quang trên núi cao để củng cố đức tin cho các môn đệ khi họ gặp gian truân thử thách. Xin Chúa cũng nâng đỡ đức tin non yếu của chúng con để chúng con tin tưởng rằng: nếu cùng với Chúa vượt qua mọi khó khăn hôm nay thì chắc chắn cũng được chung phần vinh quang phục sinh với Chúa. Amen.

 

47.Một thoáng Thiên Đàng--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Chúa Giêsu đưa ba môn đệ lên núi Tabor. Biến Hình rực rỡ nhằm củng cố tinh thần cho các môn đệ sau khi Chúa loan báo cuộc khổ nạn. Các môn đệ không thể hiểu được hành trình của Đấng Cứu Thế sao lắm gian nan; kẻ theo Ngài làm sao không ngại ngùng sợ hãi cho được! (x. Mt 17,13-14; Mc 8,34; Mt 8,18; Mc 13,9; Lc 9,26). Nếu người ta làm an toàn những viên thuốc đắng bằng vỏ bọc kẹo ngọt; Chúa Giêsu hoá giải tin cuộc khổ nạn bằng cuộc Biến Hình rực rỡ. Bọc kẹo chứ không bọc thuốc ngũ. Hoá giải chứ không gây mê. Chúa cho các môn đệ thấy trước một thoáng Phục Sinh trước Phục Sinh. Chúa cho họ cảm nếm một chút Thiên Đàng trước Thiên Đàng.

[Một thoáng Thiên Đàng đã làm cho ông Phêrô ngây ngất và muốn ở lại đó luôn: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê và một cho ông Êlia”. Ông Môsê đại diện cho luật, ông Êlia đại diện cho các ngôn sứ. Hai ông đến chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đấng mà hai ông đã loan báo và chờ đợi. Ông Môsê đã xin cho được thấy dung nhan Thiên Chúa mà không được (x.Xh 33,19-22). Ông Êlia là “ông Ba Lửa”, ba lần khiến lửa từ trời xuống, một lần để đốt của lễ trên núi Cat Minh (1V 18, 36-38), hai lần để đốt lính của vua (2V 1,9-12); ông không xin được thấy dung nhan Đức Chúa, nhưng Đức Chúa tỏ cho ông thấy Người không ở trong gió bão, không ở trong cơn động đất, không ở trong lửa. “Sau lửa có tiếng gió hiu hiu.Vừa nghe tiếng đó, ông Êlia lấy áo choàng che mặt, rồi ra ngoài đứng ở cửa hang. Bấy giờ có tiếng hỏi ông” (1V 19,11-13). Hôm nay cả hai ông được chiêm ngắm dung nhan vinh hiển của Đức Kitô.

Ông Phêrô ngây ngất không biết phải nói gì, “vì các ông kinh hoàng”. Đây không phải lần đầu các ông kinh hoàng. Nhưng hôm nay nỗi kinh hoàng lên tới cực độ khi đám mây bao phủ các ông. Và từ đám mây có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Người”. Đó là câu trả lời cho sự phản kháng của ông Phêrô. Hãy vâng nghe lời Người, kể cả lời về thập giá mà loài người không thể chấp nhận. Chỉ có Con Yêu Dấu của Thiên Chúa mới chấp nhận và cho ta sức mạnh để vác mà đi đàng sau Người, để có thể vào trong vinh quang với Người. Tại sao Thiên Đàng lại ở cuối con đường thập giá? Tại sao lại cần đến Con Yêu Dấu của Thiên Chúa để dẫn ta đi trên con đường ấy mà vào trong vinh quang?

Một thoáng Thiên Đàng trôi qua như gió thoảng, như mây bay: “Các ông chợt nhìn quanh thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”. Trên đường xuống núi, Đức Giêsu lại truyền cho các ông giữ bí mật: “Người truyền cho các ông không được kể lại cho ai nghe những điều vừa thấy, trước khi Con Người từ cõi chết sống lại”]. (x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Maccô; Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).

Trên núi cao, Đức Giêsu gặp gỡ thân mật với Chúa Cha. Bỗng chốc Người biến hình. Các môn đệ ngất ngây trong niềm hạnh phúc tuyệt vời. Các ông muốn ở lại trên núi để sống niềm hạnh phúc ngập tràn ấy. Các ông muốn níu kéo khoảnh khắc thần tiên ấy lại nên Phêrô thay mặt anh em thưa với Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay! Chúng con xin dựng tại đây ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Êlia”. Các môn đệ muốn đăng ký thường trú trên núi Tabor, muốn đắm mình trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo của Thầy. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa. Nhưng Đức Giêsu đưa các môn đệ trở xuống. Người chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên núi Golgotha. Xuống núi để chu toàn nhiệm vụ trần gian. Đức Giêsu phải chịu khổ nạn, chịu chết rồi mới Phục Sinh mở lối vào thiên đàng. “Cảm nghiệm sự kiện Hiển Dung đã giúp cho thánh Phêrô nhận thức trong lúc ngất trí, những thực tại được biểu trưng trong các nghi thức của ngày lễ đã được hoàn tất, biến cố Hiển Dung loan báo thời đại Messia đã bắt đầu. Mãi khi xuống núi, thánh Phêrô lại phải học hỏi một lần nữa, thời đại Messia trước tiên là thời đại của thập giá và việc Hiển Dung, Chúa biến dạng thành ánh sáng, sẽ bao trùm chúng ta trong ánh sáng của cuộc khổ nạn.” (x.Đức Giêsu thành Nazareth, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, Lm Aug Nguyễn Văn Trinh biên dịch, trang 269).

Ba môn đệ thân tín được Đức Giêsu dẫn lên núi Tabor. Ở đó cả ba nhìn thấy vinh quang của vương quốc Thiên Chúa chói sáng nơi Đức Giêsu. Trên núi, đám mây thánh thiện của Thiên Chúa bao phủ họ. Trên núi, trong cuộc đàm đạo của Đức Giêsu Hiển Dung với Lề luật và Tiên tri, họ hiểu rằng, giờ của ngày Lễ Lều đích thực đã đến. Trên núi, họ cảm nghiệm, Đức Giêsu chính là Tora sống động, là lời trọn vẹn của Thiên Chúa. Trên núi, họ thấy “quyền lực” của vương quốc đang đến trong Đức Kitô. Nhưng chính trong sự gặp gỡ đáng sợ với vinh quang của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu, họ phải học biết điều thánh Phaolô nói trong lá thư thứ nhất gởi giáo đoàn Côrintô với các môn đệ thuộc mọi thời đại: “Chúng tôi rao giảng một Đức Kitô bị đóng đinh, điều mà người Do thái coi là ô nhục không thể chấp nhận, và dân ngoại cho là điên rồ. Nhưng đối với những ai được Thiên Chúa kêu gọi, dù là Do thái hay Hy lạp, Đấng ấy chính là Đức Kitô, Người là sức mạnh và là sự khôn ngoan của Thiên Chúa” (1Cor,23-24). Sức mạnh của vương quốc tương lai xuất hiện nơi Đức Giêsu Hiển Dung, Đấng nói với các chứng nhân Cựu ước về sự cần thiết của cuộc khổ nạn như con đường tiến đến vinh quang (x. Lc 24,26-27). Như thế, họ được tiền dự vào ngày quang lâm; nhờ đó dần dần họ được dẫn vào mầu nhiệm sâu thẳm của Đức Giêsu.(x.sđd, trang 273).

Tin vào Đức Kitô là đi con đường Thập Giá cùng với Người. Muốn ở lại trong vinh quang của Đức Kitô, phải vác thập giá với Người: “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo” (Lc 9,23).Vác thập giá hằng ngày là chấp nhận những khổ đau theo thánh ý Chúa, là đối diện với những thách đố của cuộc đời với lòng thanh thản trong sự phó thác vào tình yêu Thiên Chúa, là biết từ bỏ và chọn lựa những gì cần thiết để nuôi dưỡng niềm tin vào Thiên Chúa. Cuộc lữ hành Đức Tin đầy hiểm nguy sóng gió. Satan “như sư tử gầm thét, ngày đêm rình mò chờ chực cắn xé” (1 Pr 5,8).Satan luôn rình rập chung quanh chúng ta, nó “chờ đợi thời cơ” (Lc 4,13) thuận tiện và khai thác tất cả mọi thứ trong cuộc sống để làm lung lay niềm tin của chúng ta. Nếu chúng ta“có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này ‘rời khỏi đây, qua bên kia !’ nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (Mt 17,20-21). Sức mạnh đức tin thật lớn lao!

Bài đọc 1 kể về đức tin của Abraham. Nhờ “tin Đức Chúa” (St 15, 6), Abraham được “Đức Chúa lập giao ước” (St 15,18). Không những thế, ông còn trở thành tổ phụ của dòng dõi đông như sao trên trời (x. St 15,5). Nhưng trên hết, nhờ lòng tin, ông được “Đức Chúa kể ông là người công chính” (St 15,6). Lòng tin đã thực hiện một cuộc biến hình ngoạn mục trong đời Abraham. Đức tin đã khiến Abraham vượt núi băng rừng đến miền đất hứa. Đất hứa đó, ngày nay không đóng khung trong ranh giới Do thái, vì miêu duệ Abraham là Giáo hội đã trải rộng khắp mặt đất. Mặc dù niềm tin đó đã gặp nhiều thử thách, nhưng Giáo hội vẫn sống mạnh mẽ với niềm tin tuyệt đối vào Thiên Chúa nơi Đức Giêsu Kitô. Nhờ đó, Giáo hội đã biến hình và luôn phản ánh vinh quang Thiên Chúa giữa muôn dân.

Cuộc biến hình hôm nay còn ngoạn mục hơn Abraham nhiều. Chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu sẽ biến Kitô hữu thành người công chính, thành bạn hữu của Người để có thể đi vào cuộc hiệp thông sâu xa với Thiên Chúa. 

Gặp gỡ Đức Kitô và bước theo Đức Kitô là một hành trình đức tin đi đến sự sống mới.Thánh Phaolô đã đi trọn hành trình ấy và ngài đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống biến đổi trở nên giống Chúa Kitô. Tư tưởng “trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô” (Pl 3,10) bàng bạc trong các bức thư của ngài và đã trở thành nguyên lý căn bản đưa chúng ta đến ơn cứu rỗi. Cuộc biến đổi để trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn là một tiến trình kéo dài cả đời người. Mỗi ngày một chút, rũ bỏ con người cũ, loại dần lối sống tội lỗi để làm con người mới với lối sống mới theo Thánh Thần, chúng ta sẽ gắn bó và thuộc về Chúa Kitô, và Người sẽ “biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Bài đọc 2).

Thiên Chúa yêu thương con người là một tình yêu không “môn đăng hộ đối”, hoàn toàn do sáng kiến và lòng xót thương của Ngài. Thiên Chúa đã đi bước đầu trong mối tương quan và thiết lập giao ước với Apraham.Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc và nguyên vẹn. Thiên Chúa cũng hứa thông qua ông, tất cả các dân tộc trên trái đất sẽ được chúc phúc, bởi vì Đấng Messia sẽ đến từ dòng dõi của ông. Lời hứa ấy đã được nên trọn vẹn nơi Chúa Giêsu. Biến cố biến hình chính là một mạc khải về tình thương lạ lùng đó. Thiên Chúa hiến mình cho con người: Cha hiến ban Con và Con hiến ban chính bản thân mình chịu chết để vào Phục Sinh khai mở con đường dẫn tới sự sống. Tin vào tình thương Thiên Chúa, nên chúng ta học theo lối sống của Chúa Giêsu bằng cách đọc và suy gẫm Tin Mừng, đem Lời Chúa vào cuộc sống, để cho Lời Chúa thay đổi cách suy nghĩ, nói năng và hành động của chúng ta được trở nên giống với cung cách của Chúa Giêsu. Đó là được biến hình trong Chúa, nên đồng hình đồng dạng với Chúa như Thánh Phaolô đã từng cảm nghiệm: “Tôi sống nhưng không phải tôi sống, chính Chúa Kitô sống trong tôi” (Gal 2,10).

“Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở trong người đó…sẽ sinh nhiều hoa trái” (Ga 15,5). Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con mỗi ngày nên giống Chúa trong lời nói việc làm, xin cho đời sống chúng con nên dấu chỉ yêu thương của Chúa giữa cuộc đời hôm nay. Amen.

 

48.Từ cõi chết sống lại, nghĩa là gì?--Lm Trần Bình Trọng

Chúa Giêsu nhận thức rằng cuộc khổ hình mà Người sắp phải chịu sẽ để lại một kinh nghiệm đau thương cho các tông đồ, nhất là cho Phêrô, Giacôbê và Gioan, là những người sẽ chứng kiến cảnh sầu khổ của Chúa trong vườn cây dầu. Vì thế Chúa đưa ba tông đồ lên đỉnh núi để biến hình cho họ thấy cảnh vinh quang của nước Chúa. Việc Chúa biến hình có mục đích là củng cố đức tin và đức cậy của các tông đồ, trong cái viễn tượng của cuộc khổ hình và thánh giá. Sau cảnh biến hình, Chúa ra lệnh cho các tông đồ không được thuật lại cho ai những điều họ vừa xem thấy, cho tới khi Con người từ cõi chết sống lại (Mc 9:9). Các tông đồ tuân giữ lời căn dặn đó, nhưng vẫn tự hỏi nhau: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì?

Trong Mùa Chay ta cùng với các tông đồ suy gẫm ý nghĩa của lời Chúa: Từ cõi chết sống lại nghĩa là gì? Các tông đồ bày tỏ nỗi buồn sầu khi Chúa Giêsu tiên báo, Con người sẽ phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế và kinh sư loại bỏ, bị lên án tử hình, và ngày thứ ba sẽ sống lại (Mc 8:31). Các ông không thể nào quan niệm được rằng Thày mình sẽ phải chịu đau khổ. Các ông muốn Đức Kitô đi theo đường lối của loài ngưòi, nghĩa là tránh khổ hình thập giá. Vì thế Phêrô đại diện cho các tông đồ kéo riêng Người ra và trách Người (Mc 8:32).

Từ đó các tông đồ quan sát và suy niệm những cảnh: Thày mình bị bách hại trong vườn cây dầu, bị dân chúng lăng nhục, nhạo cười, bị quân lính tra tấn và đánh đòn, cuối cùng chịu đội mão gai, vác thánh giá và chịu chết trên thập giá. Những cảnh bách hại và lăng nhục Thày mình phải chịu làm các tông đồ nản lòng, khiếp sợ. Họ nản lòng vì cái chết của Thày mình đã làm tiêu tan những mối hi vọng của họ. Họ khiếp sợ vì bị người Do Thái truy nã, bách hại. Rồi khi được loan tin là Thày mình đã sống lại họ trở nên hoang mang, không biết đâu là thực hư. Chỉ sau khi đối diện với Chúa phục sinh họ mới trở nên xác tín. Và từ đó họ ra đi để làm chứng cho việc Chúa sống lại. Để chia sẻ cái niềm vui phục sinh của Thày mình, họ cũng đã phải trải qua những bách hại, chịu tù đày và chịu khổ hình trên thập giá. Đúng như lời Chúa phán: Đày tớ không trọng hơn chủ. Nếu người ta đã bách hại Thày, họ cũng bách hại các con (Ga 15:20). Và như vậy các tông đồ dần dần đã hiểu được từ cõi chết sống lại như thế nào? Các vị tử đạo trong đó có tiền nhân Việt Nam, 117 vị anh hùng tử đạo, cũng đã hiểu đuợc tư cõi chết sống lại là thế nào trước khi dám để cho lý hình hành xử.

Đối với ta, tư cõi chết sống lại nghĩa là gì trong đời sống mỗi người? Một biến cố rất quan trọng xẩy ra trong đời sống ta, mang lại sự sống thiêng liêng cho tâm hồn là Bí tích Rửa tội. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, ta cũng được sống lại từ cõi chết. Cái tội nguyên tổ bị hủy diệt, và ta được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Thế rồi từ đó trong cuộc sống hàng ngày, ta cũng trải qua những cuộc chết đi sống lại nho nhỏ, không phải như các tông đồ, cũng không phải như các vị tử đạo. Khi ta sẵn sàng chịu thua thiệt, mất mát ở đời này, như mất bạn bè, mất việc làm, mất dịa vị xã hội, chỉ vì tin yêu vào Chúa, và tuân giữ giới răn Chúa, tức là ta đã chết đi cho mình một phần, để được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa. Khi ta sẵn sàng chết đi cho tội lỗi, chết đi cho tính ươn hèn, chết đi cho tính tham lam, ích kỷ, lười biếng, chết đi cho tính nói hành nói xấu, ta sẽ đuợc tham dự vào đời sống mới trong ơn nghĩa với Chúa. Đó chính là ý nghĩa của lời Chúa: Nếu hạt lúa miến rơi xuống đất mà không mục nát đi, nó sẽ trơ trọi một mình; còn nếu mục nát đi, nó sẽ sinh nhiều bông trái (Ga 12:24). Khi ta chịu cắt tỉa những tính mê nết xấu, ta sẽ được vươn lên về đời sống tinh thần, đời sống thiêng liêng. Bấy giờ ta mới cảm nghiệm được ý nghĩa của lời Chúa: chết đi sống lại như thế nào.

 

49.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--‘Tin Vui Xuân Lộc’

Bài Tin Mừng về việc Chúa hiển dung còn gọi là Chúa Biến Hình hôm nay nằm trong phần đầu của phần III nói về Mầu Nhiệm Con Người. Sau khi loan báo về cuộc Thương khó và Phục Sinh lần thứ nhất, Chúa Giêsu dạy cho các tông đồ và các môn đệ, là những người đi theo Ngài về Thập Giá, về Từ bỏ. Sau đó Ngài liền củng cố ngay niềm tin cho các Tông đồ bằng biến cố hiển dung như một lời trấn an trước đau khổ, Thập giá và cái chết, hơn nữa như một lời khẳng định: chỉ có con đường Thập giá mới dẫn tới cuộc sông vinh quang Phục sinh. Giơ đây, chúng ta hãy cùng ba môn đệ lên núi, chiêm ngắm cuộc biến đổi kỳ lạ này để học được tâm tình của Chúa Giêsu.

“Sáu ngày sau....” ý nói về một khoảng cách gần sau khi Chúa Giêsu loan báo về cuộc thương khó và sự chết của Ngài. Lần này, Chúa Giêsu chỉ dắt ba ông đi riêng ra, đó là Phêrô, Giacôbê và Gioan. Chúng ta thấy đây là nhóm nòng cốt của tập đoàn 12 vị là. Ba vị này: một người là thủ lãnh, cầm đầu Giáo Hội sau này; một vị là Giám mục tiên khởi Jérusalem và một vị được mệnh danh là “Người được Chúa yêu”. Thánh sử Máccô ghi rõ “chỉ mính các ông thôi tới một ngọn núi cao”. “Núi cao” ý nói vinh quang Thiên Chúa sẽ được tỏ hiện trên đó và đúng thế “Người biến dổi hình dạng trước mắt các ông”. Đây chính là mục đích mà Chúa Giêsu dẫn ba ông đi riêng ra, tách biệt khối nhóm 12. Sự biến đổi của Ngài được miêu ta phủ đầy ánh sáng chói loà. Ánh sáng trắng ấy không có thợ nào ở trần gian làm được. Đây chính là vẻ huy hoàng từ nơi Thiên Chúa, ánh sáng chiếu dọi của Con Chiên trong sách Đaniel và sách Khải Huyền. Cùng lúc ấy, các ông thấy Môsê và Êlia xuất hiện, trò chuyện với Chúa Giêsu. Hai vị thuộc thế hệ Cựu Ước, đại diện cho lề luật và các Ngôn sứ, có ảnh hưởng rất lớn đối với người Do Thái. Hai vị đàm đạo với Chúa Giêsu về cuộc vượt qua của Ngài tại Giêrusalem (x. Lc 9,31) Ý nói toàn bộ lề luật và các Ngôn sứ; nói đúng hơn toàn bộ Kinh Thánh đều qui về Chúa Giêsu và làm chứng rằng Chúa Giêsu là người hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia. Ngài là Người Tôi Tớ đau khổ trong Isaia, là Đấng Mêsia, Đấng Cứu độ nhân loại ẩn mình. Ngài chính là Thiên Chúa đến gánh tội trần gian (x. Ga 1,29), là Đấng Trung gian đưa Thiên Chúa đến với con người và qui tụ con người đem về cùng Thiên Chúa.

Lúc này, Phêrô theo cảm tính đã bày tỏ tâm tình muốn ở lại trong vinh quang này mãi. Ông thưa rằng: Thưa Thầy, chúng con ở đây, thật là hay. Ông không biết ý kiến của hai ông kia thế nào, nhưng ông cảm thấy ý của mình có lẽ là tốt nhất, tuyệt vời nhất. Nếu Chúa đồng ý, ông sẽ dựng ba cái lều cho ba vị, còn ông và các bạn không cần chốn nương thân. Thấy sự lúng túng và chỗ hổng này, Thánh Sử Maccô viết một câu như muốn biện minh cho câu nói thiếu hụt ấy: Ông không biết phải nói gì vì kinh hoàng. Qua câu này, chúng ta lại thấy rõ hơn vẻ huy hoàng chói lọi toát ra từ con người Giêsu, một con người cùng ăn cùng uống “ người trần mắt thịt” mà nay đột nhiên biến đổi kỳ diệu, đến nỗi người môn đệ cùng sống với Ngài đã thốt lên những lời vô nghĩa, còn hai ông kia không nói được gì cả.

Giờ đây là giờ Thiên Chúa hành động: một đám mây, có tiếng phán: và xác nhận Chúa Giêsu là Con Yêu Dấu của Chúa Cha, con người chỉ còn một bổn phận là VÂNG NGHE LỜI NGÀI mà thôi. Một mạc khải, một xác tín, một lệnh truyền. Chúa Cha mạc khải cho ba môn đệ biết: Chúa Giêsu là Con Yêu dấu của Ngài, chính Chúa Cha khẳng định với các ông điều này qua sự hiện diện và lời nói của Ngài trong đám mây. Ngài ra lệnh đòi buộc các ông: hãy nghe lời Con của Ngài. Đây là một mạc khải từ Thiên Chúa; Chúa Cha xác nhận Chúa Giêsu, người Nagiarét, cùng ăn cùng uống với các ông đây là Con Thiên Chúa. Ngài là Con Yêu Dấu của Chúa Cha vì luôn làm đẹp lòng Cha, luôn chọn Thánh Ý Cha làm lương thực nuôi sống mình (x, Ga 4,34). Bây giờ, Chúa Cha cũng muốn các môn đệ, những người đi theo Chúa Giêsu. Hãy bắt chước Chúa Giêsu. Như Chúa Giêsu đã tuân giữ ý Cha, thì các ông hãy vâng giữ lời Chúa Giêsu, chính là tuân hành Thánh Ý Chúa Cha vậy.

Cuộc hiển dung kết thúc sau khi tiếng phán chấm dứt, các ông nuối tiếc nhìn quanh, nhưng chỉ còn hiện tại: Chúa Giêsu và các ông mà thôi. Sau biến hình, mọi sự trở về bình thường, một Giêsu bằng xương bằng thịt... có dễ lôi cuốn các ông vào con đường Thập Giá, con đường Vượt Qua hay không?

Trong câu 9 và 10. Chúa Giêsu ra lệnh các ông phải giữ kín những điều mới xảy ra, mà chỉ được rao truyền sau khi Ngài sống lại. Chúa Giêsu muốn giữ kín bí mật Mêsia, bí mật Con Thiên Chúa khi Ngài còn đang sống trên trần gian này. Các ông vâng lời, nhưng vẫn thắc mắc “ từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì? Từ “sống lại”, từ “phục sinh” vượt xa tầm trí hiểu của các ông; các ông vẫn cho rằng: chết là hết. Các ông vẫn chưa hiểu và tin vào sự sống lại.

Ngày nay, mỗi người chúng ta được biến đổi hàng ngày. Chúng ta thường chú ý về những biến đổi về thể xác, về kiến thức, về địa vị, danh vọng... Có bao giờ chúng ta để ý chăm chút, nuôi dưỡng để biến đổi về tâm hồn, về đời sống tâm linh của chúng ta chưa?. Nếu chưa, chúng ta hãy mau đến với Bí Tích Thánh Thể, nơi đó chính Chúa Giêsu sẽ dạy chúng ta cách biến đổi theo ý Chúa Cha, biến đổi để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng vời Con Chí Ái của Người là Đức Giêsu Kitô khổ nạn và Phục Sinh. Amen.

 

50.Đức Giêsu biến đổi hình dạng--Lm PX Vũ Phan Long

1.- Ngữ cảnh

Cuộc đời của Đức Giêsu là một hành trình, một chuyến đi đường. Điều này, tác giả Mc đã cho thấy dọc theo tác phẩm của ngài với từ ngữ “con đường” (hodos), đặc biệt trong phân đoạn 8,27–10,45: ở đây chúng ta thấy Đức Giêsu thường xuyên ở trên đường cùng với các môn đệ (8,27; 9,33.34; 10,32). Trên đường đi, Đức Giêsu nhắc đi nhắc lại cách Người sống. Người tìm cách giải thích cho các môn đệ rằng, một bên, do chương trình mà Người sẽ thực hiện theo lệnh của Thiên Chúa, bên kia do kế hoạch của các đối thủ muốn khử trừ Người, Người phải chọn lựa giữa đánh liều mạng sống và phản bội sứ mạng. Vì đã chọn vâng lời Thiên Chúa, Người đi lên Giêrusalem.

Biến cố Đức Giêsu biến đổi hình dạng là cốt lõi của đoạn trung tâm 8,27–10,45 và được trực tiếp liên kết với phân đoạn Phêrô tuyên xưng đức tin và lời loan báo đầu tiên về Thương Khó (8,27–9,1).

Chúng ta có lý khi coi bài tường thuật về Hiển Dung như là cái trục của TM Mc. Điều này càng rõ khi người ta nhận thấy bài này có thể dễ dàng tách khỏi ngữ cảnh: chỉ việc nối câu nói của Đức Giêsu về Quang Lâm gần kề (9,1) với cuộc tranh luận về Êlia phải đến trước (9,11-13) thì thấy tư tưởng cũng như thể văn không bị cắt đứt gì cả (Với lại các yếu tố của các bài tường thuật chỉ được nối với nhau bằng các liên từ kai: 9,1: “Và Người nói”; 9,2: “Và Người lên núi…”; 9,11: “Và các ông hỏi …”).

Sau khi đã nói đến những gian khổ mà các môn đệ phải chấp nhận nếu muốn đi theo Người, Đức Giêsu thêm: “Tôi bảo thật các người: trong số những người có mặt ở đây, có những kẻ sẽ không phải nếm cái chết trước khi thấy Triều Đại Thiên Chúa đến, đầy uy lực” (9,1). Theo tác giả, biến cố Triều Đại (Nước) Thiên Chúa đến là đối tượng của Tin Mừng (1,14-15). Còn “uy lực” của Thiên Chúa thì sẽ được biểu lộ vào ngày Quang Lâm. Đức Giêsu đã khẳng định như thế nhiều lần (x. 12,18-27; 13,24-27; 14,61-62).

Nếu tạm bỏ bài Hiển Dung sang một bên, ta thấy cuộc tranh luận sau đó bàn về việc Êlia trở lại (9,11-13). Đồng hoá Gioan Tẩy Giả và Đức Giêsu với Êlia và các ngôn sứ Israel ngày xưa là một đề tài được Mc thường xuyên đề cập đến, ở đây, cũng như ở trong 6,14-16 và 8,27-29. Cuộc tranh luận ấy trước tiên có tầm mức cánh chung, bởi vì ngôn sứ Malakhi đã loan báo Êlia sẽ trở lại làm vị tiền hô của Đấng Mêsia (x. Ml 3,23-24). Đức Giêsu đã nhìn nhận Gioan Tẩy Giả đóng vai trò này (Mc 1,2-8; x. Lc 1,17). Nói tóm, cuộc tranh luận về việc ngôn sứ Êlia trở lại, cho dù được coi là đã được thể hiện nơi Gioan Tẩy Giả, được ghép rất tự nhiên vào một lời của Đức Giêsu liên hệ đến biến cố Nước Thiên Chúa đến.

Vậy, bài tường thuật Hiển Dung đã được tháp vào đây là do nền thần học của tác giả và do cấu trúc ngài cung cấp cho tác phẩm của ngài, nhưng cũng là để làm một đoạn giải thích sự chậm trễ của Quang Lâm. Nếu như vậy, tác giả đã thực hiện được một sự hài hoà đáng phục bởi vì câu nói về Quang Lâm của Đức Giêsu được minh hoạ và báo trước trong biến cố Hiển Dung. Sự xuất hiện của Êlia được nhắc đến trong biến cố này, gợi ra câu hỏi về vai trò của Êlia sau đó. Khi đó, viễn cảnh Quang Lâm được lặp lại, càng thêm long trọng.

2.- Bố cục

Bản văn có thể chia thành ba phần:

1) Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (9,2a-b);

2) Đức Giêsu biến đổi hình dạng (9,2c-8);

3) Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9,9-10).

Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự “đóng khung” vừa chính xác vừa tinh tế, ở cc. 2 và 8. Một đàng, Mc viết rằng “Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao”. Đàng khác, ông nói rằng “Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”: kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài cc. 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của TM Mc, là bí mật thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Mc cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Mêsia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật Hiển Dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Mêsia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.

3.- Vài điểm chú giải

- sáu ngày sau (2): Toàn bài gợi tới Xh 24. Cũng như Môsê, Đức Giêsu lên núi với ba bạn đồng hành nêu rõ tên (Xh 24,1.9). Tới ngày thứ bảy, Thiên Chúa nói với Môsê; qua sáu ngày, Đức Giêsu lên núi và có tiếng Thiên Chúa phán. Tác giả Riesenfield nhấn mạnh tới chi tiết “sáu ngày sau” mà cho rằng đấy là biến cố Đức Giêsu tỏ mình ra là Đấng Mêsia (truyền thống dành ngày thứ bảy để tưởng niệm Thiên Chúa đăng quang làm vua). Đám mây, cũng giống như trong Xh 24,16t, là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa.

- một ngọn núi cao: Ta không thể xác định đây là ngọn núi nào, nhưng nó có thể gợi tới núi Sinai (theo Xh 24). Ngọn núi là nơi có các cuộc thần hiển: Thiên Chúa nói với Môsê trên núi (Xh 24,15tt); Ngài tỏ mình ra với Êlia trên núi (1 V 19,8).

- Người biến đổi hình dạng: Không có kinh nghiệm nào trong quá khứ, dù là kinh nghiệm của Môsê ở trên núi Sinai, có thể giúp hình dung sự biến đổi hình dạng của Đức Giêsu ở đây. Điều đặc biệt là khi Người ở trong vinh quang thiên quốc, các môn đệ vẫn nhận ra Người. Đức Giêsu có “y phục rực rỡ, trắng tinh không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy” (c. 3). Thật ra đây là một “ánh sáng chói lọi”, là màu sắc của những thực tại thiên quốc và cánh chung. Cuộc Hiển Dung không phải là kết quả của một nỗ lực con người, nhưng là một biến cố được mô tả theo dạng thái bị động (c. 2: metemorphôthê, aorist passive) để cho thấy rằng Thiên Chúa là Đấng hành động một mình trong biến cố này.

- thấy ông Êlia cùng ông Môsê (4): Theo truyền thống, Môsê có vai trò rất quan trọng trong lịch sử dân Chúa. Thứ tự Êlia–Môsê của riêng tác giả Mc tương ứng với vị trí quan trọng hơn mà Êlia có trong TM II. Ngoài ra, ông còn là một dung mạo mang tính khải huyền và thiên sai hơn Môsê. Tuy nhiên, c. 5, với tên Môsê ở trước, ta nhận ra dấu vết của truyền thống mà Mc chưa xóa đi. Dù sao, sự xuất hiện của hai ông chứng tỏ “Nước Thiên Chúa đã đến gần”. Hai ông xuất hiện vừa cho thấy Đức Giêsu hiệp thông với thiên giới, vừa giới thiệu với tư cách và số phận của Người.

- đàm đạo với Đức Giêsu: Mc không cho biết đề tài cuộc trao đổi giữa Đức Giêsu với Êlia và Môsê.

- chúng con xin dựng ba cái lều (5): Khi ba nhân vật thiên giới đàm đạo với nhau, ba tông đồ, những con người “phàm phu tục tử”, ở cách xa. Do đó, khi ngỏ lời với Đức Giêsu mà chỉ thưa Người là “Thầy” (rabbi) và đề nghị được dựng ba lều, Phêrô đã chứng tỏ sự ngỡ ngàng hụt hẫng của mình. Đề nghị của Phêrô là nhắm duy trì hoàn cảnh các ông đang trải nghiệm. Tuy nhiên, ta chỉ hiểu được đề nghị này nếu ta đặt nó vào trong khung cảnh lịch sử của Lễ Lều. Lễ này kéo dài kỷ niệm 40 năm dân Israel đã sống trong sa mạc, dưới lều, để phụng sự Đức Chúa (Yhwh), và được Ngài che chở (đám mây sáng). Nhân danh dân tộc mình, Môsê đã yêu cầu vua Pharaô để cho dân đi vào sa mạc để có thể cử hành lễ mừng Đức Chúa. Lễ này có thể trùng hợp với cuộc thần hiển tại núi Sinai, nhưng thật ra, nó bao trùm những năm dài trước khi vào Đất Hứa. Người Do-thái đã ghi giữ rồi nhớ nhung đời sống du mục này và đã kết tinh nó vào Lễ Lều, kéo dài một tuần, để kết thúc chu kỳ Lễ Vượt Qua và lễ Ngũ Tuần. Trong Do-thái giáo hậu lưu đày, Lễ này có chứa nỗi niềm chờ mong Đấng Mêsia.

Thật ra, vì mối bận tâm của Mc là cho thấy hành trình đức tin của các môn đệ, nên đề nghị này của Phêrô chứng tỏ ông không hiểu gì (tương tự ở 8,32t): Do muốn duy trì niềm hạnh phúc thiên giới, ông lại đang muốn tránh những đau khổ chắc chắn phải đi vào.

- kinh hoàng (6): Tác giả đã nhận định: “Thật ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng” (9,6; xem 14,40: tình trạng ngây dại ở vườn Ghếtsêmani). Sự kinh hoàng này (tương tự sự kinh hoàng của các phụ nữ khi sứ thần hiện ra tại mộ, x. 16,5-8) chứng tỏ các ông khó mà hiểu, thậm chí không thể hiểu, tầm mức thiên sai của những lời nói và hành vi của Đức Giêsu. Phêrô đã minh giải sai cuộc tỏ mình của Đấng Mêsia trên núi; tất cả những gì ông có thể nói ra đều mang vẻ ngờ nghệch vì ông kinh hãi trước sự đột nhập của thế giới thần thiêng. Và khi Mc ghi nhận ở c. 8 rằng “các ông chợt nhìn quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi”, ta lại không nghe ra như một lời trách nhắm đến đến các tông đồ là đã không biết tiếp tục dựa vào lòng tin mà nhìn ra Đức Giêsu vẫn không ngừng sống cùng các thánh của Cựu Ước và sống trong tình thân thiết với Cha Người đó sao? Khi cũng những vị tông đồ này tự hỏi câu “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, thì đây không phải hỏi về một vấn đề tín điều (bởi vì đây là một tín điều được mọi người, trừ phái Sađốc, chấp nhận), nhưng là băn khoăn về Đức Giêsu: Các ông đang vấp phạm vì cái chết mà Đức Giêsu sẽ phải đi qua. Chẳng phải là Đấng Mêsia sẽ được cất lên trời như Êlia, như Môsê sao? Chẳng lẽ Người lại phải xuống cõi chết trước khi sống lại? Mc đã nêu bật sự tăm tối của các tông đồ dọc theo tác phẩm của Người (x. 4,13.40-41; 6,50-52; 8,17-21; 9,32; 10,24.26.32.38).

- Từ đám mây (7): Đám mây là tấm phông trên đó Đức Giêsu biến đổi hình dạng, từ đó Êlia và Môsê đi ra để nói chuyện với Đức Giêsu và từ đó tiếng Chúa Cha phát ra; Êlia và Môsê lại biến mất vào đó, và cùng với đám mây, cũng biến mất vinh quang của Đức Giêsu. Như trong cuộc Xuất hành, đám mây tượng trưng sự hiện diện gần kề của Thiên Chúa. Đám mây này là tấm màn ngăn cách một thời gian nữa những thực tại trần thế với những thực tại biên giới. Đám mây này đã xé ra khi Đức Giêsu đến thế gian và nhận phép rửa. Đám mây này là nơi Đấng Phục Sinh biến mất vào hôm sau ngày sống lại và theo lời sấm Đanien; trên đám mây này, Đức Giêsu sẽ tái hiện vào thời tận thế để quy tụ những kẻ được tuyển chọn.

- Đây là con Ta yêu dấu (7): Sự xuất hiện của đám mây và tiếng nói của Thiên Chúa vừa giải nghĩa cuộc Hiển Dung vừa trả lời cho phản ứng của Phêrô.

So với Lời nói tại Phép Rửa (1,11), lời công bố này không thêm gì mới về Đức Giêsu, Con Thiên Chúa và Đấng Mêsia, nhưng lời này đưa lại một điều chỉnh quan trọng cho lời tuyên xưng đức tin của Phêrô (8,29). Vị tông đồ chỉ tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Mêsia; Trời Cao chứng thực Người là Con yêu dấu của Thiên Chúa. Nếu thị kiến về Đức Giêsu hiển dung giới thiệu trước vinh quang của Đức Giêsu vào ngày Phục Sinh và ngày Quang Lâm, Tiếng Nói lại chứng thực Đức Giêsu là Con luôn sống thân thiết với Chúa Cha và gợi ý rằng Người đã có từ muôn đời (tiền hữu). Lời gửi gắm cuối cùng đã đẩy cuộc truyện trò của Êlia và Môsê vào hàng thứ yếu; kể từ nay chính Đức Giêsu là Đấng duy nhất mà các tín hữu phải lắng nghe; Người là Đấng trung gian duy nhất của Giao Ước Mới trong đó Êlia, Môsê và tất cả các ngôn sứ được tham dự vào.

- truyền cho các ông không được kể lại (9): Đây là lệnh im lặng cuối cùng trong Mc, lệnh này có một ý nghĩa căn bản cho cả các lệnh khác với cùng một giới hạn về thời gian. Bằng c. 9 này, tác giả hướng bài tường thuật Hiển Dung về Phục Sinh: bài tường thuật như thế nối kết số phận của Đức Kitô và lời loan báo về Triều Đại Thiên Chúa. Những gì ba môn đệ đã thấy trên núi làm cho các ông thành những người được nhận trước sự hoàn tất của lời hứa 9,1. Sau lệnh của Đức Giêsu, tác giả dừng lại với môn đệ. Các ông tuân giữ lệnh truyền (ton logon ekratêsan cũng có thể có nghĩa là là “ghi nhớ ký ức”, theo kiểu nói La-tinh [memoria] tenere), nhưng tranh luận xem “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì, chắc chắn theo nghĩa là “cuộc sống lại của Đức Giêsu”.

4.- Ý nghĩa của bản văn

* Đức Giêsu đưa ba môn đệ đi (2a-b)

Cuộc Hiển Dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng ba môn đệ chọn lọc là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Gia-ia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.

* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8)

Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quan thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về thế giới của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng Nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.

Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Người. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta không thể trực tiếp có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu Đấng giúp chúng ta có sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.

Cuộc Hiển Dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc Hiển Dung.

* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10)

Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc Thương Khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.

+ Kết luận

Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do-thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?

5.- Gợi ý suy niệm

1. Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.

2. Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào để thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Người. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai ngài.

3. Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thì giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại “Đức Giêsu là Con Thiên Chúa”, khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải “vâng nghe lời” Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.

4. Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu cấm các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.

 

51.Tin vào Đức Giêsu Kitô--Lm. Fx. Vũ Phan Long

Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu đem 3 người Phêrô, Giacôbê và Gioan lên một ngọn núi cao để tỏ mình ra cho các Ngài thấy. Trong cuộc tỏ mình này có Môsê và Êlia hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu. Có thể khẳng định đây là một sự kiện hùng vĩ và vượt xa sức tưởng tượng của con người.

Theo cách diễn tả của các Tin mừng Nhất lãm, sau khi loan báo cuộc Thương khó sắp đến, Đức Giêsu đưa ba môn đệ thân tín lên núi và biến đổi hình dạng trước mắt các ông.

Biến cố này có mục đích củng cố niềm tin cho các môn đệ, niềm tin mà mới đây Phêrô đã thay mặt anh em tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô” (8,29) và cung cấp trước cho các ông một điểm tựa để các ông khỏi chao đảo khi chứng kiến cuộc khổ nạn của Người.

Chúng ta cũng có thể theo truyền thống Đông phương coi đây là một mạc khải về thần tính của Đức Giêsu, khi liên kết ba cuộc “tỏ mình ra” của Đức Kitô trong các biến cố hiển linh, phép Rửa tại sông Giođan và cuộc hiển dung này.

I. KHÁM PHÁ SỨ ĐIỆP TIN MỪNG: Mc 9,2-10

* Đức Giêsu đưa ba môn đệ chọn lọc đi (2a-b).

Cuộc hiển dung lại là một truyện nữa trong đó Đức Giêsu đưa riêng Phêrô, Giacôbê và Gioan đi (x. chữa con gái Giaia, 5,35-43). Người chọn một quả núi cao, biểu tượng của tình trạng gần gũi với Thiên Chúa ; Người chọn sự cô quạnh và biệt lập. Đức Giêsu đưa các môn đệ đi xa cuộc sống hằng ngày xô bồ náo nhiệt. Điều mà các môn đệ phải hiểu là một điều hoàn toàn lạ thường, nhưng không có gì là ngoạn mục hoặc gây cảm giác mạnh. Hoàn cảnh mà Người chọn và bố trí cho thấy rằng Người không muốn tạo ra một ấn tượng tức thời và hời hợt trên một đám đông, nhưng Người muốn biến đổi một vài người cách sâu xa và bền vững. Chỉ bằng cách để cho mình được dẫn vào nơi cô tịch và đến gần Thiên Chúa, ba môn đệ mới ở trong môi trường thuận lợi mà bước một bước quyết liệt đến chỗ hiểu biết mầu nhiệm bản thân Đức Giêsu.

* Đức Giêsu biến đổi hình dạng (2c-8).

Đức Giêsu đã biến đổi hình dạng trước mặt các ông. Những gì xảy ra trên núi là nhắm cho các ông, chứ không phải cho Người. Bây giờ các ông hiểu rằng phương diện quen thuộc của con người trần thế nơi Đức Giêsu không diễn tả hết thực tại của Người ; họ cũng nhận thấy rằng Người không bị giam hãm trong các giới hạn của thực tại trần thế. Đàng sau phương diện nhân loại trần thế của Đức Giêsu, có ẩn giấu thực tại thần linh siêu phàm của Người. Ở đây không những các giới hạn của thực tại trần thế bị vượt qua, mà cả những ranh giới của thời gian cũng bị vượt qua. Bên cạnh Đức Giêsu, xuất hiện Êlia và Môsê, hai gương mặt nổi bật trong lịch sử dân Israel. Các ngài tượng trưng cho sự ân cần của Thiên Chúa đối với dân (Môsê) và cuộc tranh đấu của Ngài cho dân (Êlia). Sứ mạng và nhiệm vụ của Đức Giêsu được ví với sứ mạng và nhiệm vụ của hai ngài. Hai ngài là những vị báo trước Đức Giêsu. Sự kiện Đức Giêsu ở giữa hai ngài và hai ngài thưa chuyện với Đức Giêsu, cho ba môn đệ một bằng chứng nữa để có thể nhận biết Đức Giêsu là ai: Người thuộc về lãnh vực của Thiên Chúa. Nhưng Người cũng thuộc về lịch sử của dân Israel được Thiên Chúa hướng dẫn. Người sẽ phải đưa sứ mạng của Môsê và Êlia đến chỗ hoàn tất. Tiếng nói từ trời với các môn đệ xác nhận điều này. Ngoài lời tuyên xưng của Phêrô đã nhìn nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô (8,29), bây giờ các môn đệ còn hiểu Đức Giêsu có quan hệ thế nào với Thiên Chúa. Đồng thời, các ông cũng hiểu hậu quả của quan hệ này đối với các ông: vì Người là Con Thiên Chúa, các ông phải vâng nghe lời Người. Tương quan của Đức Giêsu với loài người tùy thuộc quan hệ của Người với Thiên Chúa.

Sau khi đã mạc khải rằng Đức Giêsu là Con yêu dấu, rằng Đức Giêsu không chỉ là tôi tớ, mà ở trong một tương quan về nguồn gốc và bình đẳng do bản chất, Thiên Chúa còn tuyên bố về tình yêu đối với Ngài. Đây là bí mật đích thực của Người mà bây giờ ba môn đệ được chính Thiên Chúa đưa vào. Đức Giêsu không chỉ biết Thiên Chúa xa xa là Chúa tể, như Môsê và Êlia biết, nhưng biết Thiên Chúa như là Cha, trong một tương quan gần gũi và thân tình nhất. Bởi vì chúng ta có thể có một tương quan gần gũi với Thiên Chúa hơn và cũng không thể có một sự hiểu biết cao sâu hơn về Thiên Chúa, Đức Giêsu chính là sự hiểu biết tối hậu và vĩnh viễn về Thiên Chúa (x. Ga 1,18 ; Mc 12,6). Cho tới nay, Israel đã nghe lời Môsê và Êlia, bây giờ họ phải nghe lời Đức Giêsu.

Cuộc hiển dung là một đỉnh cao trong mạc khải về Đức Giêsu. Ở đây, Người tỏ mình ra cho các môn đệ trong thực tại siêu phàm của Người, trong quan hệ của Người với lịch sử Israel, trong tương quan của Người với Thiên Chúa. Các môn đệ đã nhận được mạc khải sâu xa nhất và quan trọng nhất về Đức Giêsu. Người ta chỉ hiểu được sự vĩ đại và sâu thẳm của mạc khải này trong mức độ người ta hiểu Thiên Chúa là ai: chỉ từ điểm này chúng ta mới có thể hiểu nội dung của những điều sau đây: Thiên Chúa tự mạc khải ra như là Cha, đầy tình yêu, của Đức Giêsu ; Đức Giêsu là Con yêu dấu của Thiên Chúa ; trong lời nói và hành động của Đức Giêsu, tình yêu từ phụ của Thiên Chúa được tỏ bày ra. Các môn đệ đã biết tất cả những điều đó trong cuộc hiển dung.

* Đức Giêsu truyền lệnh giữ kín những điều đã biết (9-10).

Sau mạc khải ấy, Đức Giêsu truyền các môn đệ giữ im lặng. Họ còn cần có thời gian và phải tham dự vào cuộc thương khó, cái chết và sự sống lại của Đức Giêsu, trước khi có thể hiểu được bản chất đích thực và ý nghĩa của tư cách Con Thiên Chúa của Người. Khi đó, họ sẽ không được thinh lặng nữa, trái lại họ phải đi làm chứng công khai.

II. CHIÊM NGẮM CHÚA GIÊSU:

Một số nhà chú giải đã khám phá ra có một sự "đóng khung" vừa chính xác vừa tinh tế, ở các câu 2 và 8. Một đàng, Maccô viết rằng: "Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình. Người đưa các ông đi riêng ra một chỗ, chỉ mình các ông thôi, tới một ngọn núi cao". Đàng khác, ông nói rằng: "Các ông chợt nhìn chung quanh, thì không thấy ai nữa, chỉ còn Đức Giêsu với các ông mà thôi": kiểu đóng khung này đã bỏ ra bên ngoài các câu 9-10 là hai câu chứa đựng hai chủ đề riêng của Tin mừng Maccô, là bí mật Thiên sai và sự không hiểu của các môn đệ, để nói về một mạc khải riêng cho ba môn đệ thân tín: Tác giả Maccô cho hiểu rằng muốn khám phá ra chân tính của Đấng Messia, cần phải được dẫn nhập dần dần. Bài tường thuật hiển dung này như muốn là biểu tượng của cuộc dẫn nhập tiệm tiến vào mầu nhiệm Đấng Messia: thị kiến được dành riêng cho ba môn đệ được dẫn riêng lên một ngọn núi ; lệnh truyền từ trời là hãy chỉ lắng nghe Người Con ; cuối cùng, lệnh truyền giữ kín mạc khải này.

Nơi Đức Giêsu, các môn đệ được nghe lời của Con Thiên Chúa. Các ông sẽ ghi nhớ những lời Người nói về những đau khổ đưa đến vinh quang (8,31-9,1) và sẽ nghiền ngẫm những chặng đường mầu nhiệm của ơn cứu độ mà Đức Giêsu mạc khải cho các ông (9,9-13). Lời nói trong ánh sáng này lại không phải là dấu chỉ mà từ bao đời, dân tộc Do Thái và toàn thể nhân loại vẫn mong chờ, để đạt được cùng đích vận mệnh của mình sao?

III. GỢI Ý BÀI GIẢNG:

1. Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, Đấng hoàn tất chương trình của Thiên Chúa.

Những hoàn cảnh và điều kiện trong đó xảy ra mạc khải cho ba môn đệ cũng có một ý nghĩa cho việc chúng ta gặp gỡ riêng tư với Đức Giêsu và với Thiên Chúa: phải tách ra khỏi cuộc sống xô bồ, náo nhiệt, và phải để cho Đức Giêsu hướng dẫn. Khi đó, chúng ta lại được nghe Thiên Chúa giới thiệu Đức Giêsu: "Đây là Con Ta yêu dấu". Người không phải là Con Thiên Chúa theo bất cứ kiểu nào, nhưng là Người Con duy nhất có trọn vẹn tình yêu của Thiên Chúa là Cha Người.

Bên cạnh Đức Giêsu, có Môsê và Êlia. Xuyên qua sự hiện diện của hai nhân vật này, Đức Giêsu đi vào mà thuộc về lịch sử cuộc quan hệ giữa Thiên Chúa Israel với dân Ngài. Đức Giêsu không chỉ là một nhà trừ quỷ hoặc một thầy chuyên làm phép lạ. Sự hiện diện của hai nhân vật đã tạo những hướng đi quan trọng trong lịch sử dân Israel nêu bật rằng Đức Giêsu đã đến nhân danh Thiên Chúa để tiếp tục công trình của hai vị.

Cần phải suy nghĩ kỹ hơn về hậu quả giữa quan hệ của Đức Giêsu với Thiên Chúa và ý nghĩa của quan hệ này đối với chúng ta. Càng dành thời giờ thờ phượng, chúng ta càng hiểu sâu thêm về thực tại "Đức Giêsu là Con Thiên Chúa" ; khi đó, chúng ta cũng nhận ra những hậu quả của thực tại này đối với chúng ta. Chúng ta phải "vâng nghe lời" Người và không được phép im lặng nữa. Chúng ta sẽ phải ra đi mà làm chứng.

2. Vâng theo giáo huấn của Đức Giêsu:

Ma quỷ quả có hô to chân tính của Đức Giêsu, nhưng không rút ra được bất cứ hệ quả nào cho những người đang nghe chúng. Còn ở trên ngọn núi này, lời khẳng định và lệnh truyền của Chúa Cha đi đôi với nhau. Chỉ có ai vâng theo mệnh lệnh thì mới nhìn nhận thật sự lời khẳng định và mới bắt đầu ở trên đường đưa tới chỗ hiểu lời này trọn vẹn hơn. Lệnh Đức Giêsu các môn đệ nói về điều vừa thấy (9,9) cho hiểu là mọi điều đó vẫn còn nguyên giá trị, nhưng nói ra bây giờ thì còn quá sớm. Từ đó, ta hiểu rằng các tiếng la của ma quỷ hoàn toàn sai chỗ và quá sớm, và chỉ có thể gây khó khăn thêm cho việc hiểu biết Đức Giêsu cách đích thực.

Đức Giêsu luôn nói lời Thiên Chúa và kêu mời môn đệ đón nhận để thuộc về gia đình thiêng liêng của Người: "Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em Tôi, là mẹ Tôi" (Mc 3,35). Hoặc: "Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy... Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy" (Ga 14,23-24).

Đi vào đường lối của Đức Giêsu không chỉ có nghĩa là "làm ba lều" rồi ở lại đó với Người. Chúng ta có xử sự như thế khi đi vào các giờ cầu nguyện thờ phượng trong nguyện đường. Nhưng chúng ta còn được mời bước theo Đức Giêsu, có những tâm tình như Người: "Đấng vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người" (Pl 2,6-9).

IV. LỜI CẦU CHUNG:

Mở đầu: Anh chị em thân mến, hôm nay, do yêu thương các môn đệ, Đức Giêsu đưa ba đại diện môn đệ lên núi cao để chuẩn bị cho các ông đi vào cuộc thương khó với Người. Chính tại đây, Người đã được Chúa Cha giới thiẹu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Tin tưởng vào lòng yêu thương quan phòng của Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta cùng dâng lời cầu nguyện:

1. "Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người". Chúng ta cùng cầu nguyện cho toàn thể Họi thánh biết trân trọng lời Chúa Cha giới thiẹu Đức Giêsu hôm nay, mà luôn chăm chú lắng nghe giáo huấn của Người, tha thiết nghiền ngẫm để hiểu đúng đắn và trung thành thực hiện trong đời sống hằng ngày.

2. Ông Êlia và ông Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu, cho thấy Người chính là Đấng nối tiếp và làm trọn Cựu ước. Chúng ta cùng cầu nguyện để cho mọi dân tộc đang đi tìm Thiên Chúa, có thể tìm ra Đấng chân thật duy nhất, để tôn thờ cho phải đạo, và có thể đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu.

3. Đức Giêsu sẽ từ cõi chết sống lại. Người đã chết trên cây thập giá trên đồi Sọ xưa kia, nhưng cũng đã sống lại. Người tái diễn cuộc Tử nạn, Phục sinh hôm nay trên bàn thờ. Chúng ta cùng cầu nguyện cho các tín hữu đang gặp thử thách biết tin tưởng để cho Đức Giêsu dẫn dắt, hầu có thể làm chứng về quyền năng Phục sinh trong cuộc sống hằng ngày.

Lời kết: Lạy Chúa Cha cực thánh, xin giúp chúng con biết lắng nghe lời Con Cha dạy trong Kinh thánh và qua các giáo huấn của các mục tử, để chúng con bước đi vững vàng trên đường lối của Cha, làm chứng được trước mặt thế giới về nẻo đường cứu độ duy nhất và giúp nhau đạt tới hạnh phúc Nước Trời. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.

 

52.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật II Mùa Chay năm B nhấn mạnh một chủ đề duy nhất: “Con Một”.

St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18

Bài Đọc I kể cho chúng ta tổ phụ Áp-ra-ham đã sẵn sàng dâng hiến cho Thiên Chúa, I-xa-ác, “đứa con một” mà ông hết lòng yêu mến.

Rm 8: 31b-34

Bài Đọc II, trích thư của thánh Phao-lô gởi tín hữu Rô-ma, gợi lên tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại quá lớn “đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp  vì hết thảy chúng ta”.

Mc 9: 2-10

Tin Mừng Mác-cô kể cho chúng ta cuộc Biến Hình, trong đó Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Ấy vậy, cuộc Biến Hình xảy ra chỉ sau vài ngày trước lời loan báo đầu tiên của Đức Giê-su về cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài, nghĩa là “Con Một” chịu chết vì hết thảy chúng ta.

BÀI ĐỌC I (St 22: 1-2, 9a, 10-13, 15-18)

Trong khuôn khổ hạn định của Phụng Vụ, chuyện tích nổi tiếng nầy không được trích dẫn toàn bộ vì độ dài của nó. Dù chuyện tích nầy nổi tiếng mấy đi nữa, nó cũng để lại cho chúng ta một ấn tượng bất ổn vì cách hành xử của Thiên Chúa làm chúng ta khó chịu. Làm thế nào một vị Thiên Chúa tốt lành, đầy lòng yêu thương, lại có thể thử thách một người công chính đến tận mức như vậy. Cho dù ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện nói trước “đây chỉ là một cuộc thử thách”, nghĩa là sự việc không thực sự xảy ra, cũng không làm cho chúng ta khỏi hoang mang.

1. Lịch sử hình thành chuyện tích hiện nay:

Tuy nhiên, lịch sử hình thành câu chuyện soi sáng cho chúng ta ý nghĩa của câu chuyện và xua tan những xao xuyến của chúng ta. Các nhà chú giải mời gọi chúng ta phải phân biệt hai giai đoạn khác nhau trong việc hình thành chuyện tích nầy:

-Chuyện tích nguyên tác đã bị thất truyền, nhưng ý nghĩa của nó thì rõ ràng: ngay từ nguồn gốc, có một sự đối lập giữa tôn giáo của dân Do thái và tôn giáo của dân Ca-na-an về việc hiến tế con cái cho thần linh.

-Câu chuyện mà chúng ta đọc xuất hiện sau nầy, được soạn thảo mười một thế kỷ sau đó. Chuyện tích này được đưa vào trong tập truyện của vị tổ phụ Áp-ra-ham để bày tỏ một ý hướng khác với ý hướng của câu chuyện nguyên thủy: câu chuyện sau nầy là một thần học về sự thử thách, đồng thời loan báo một sứ điệp chan chứa hy vọng. Ở bên kia nhân vật I-xa-ác, ẩn hiện “dân Chúa chọn”, bị đe dọa diệt vong (nhất là vương quốc Ít-ra-en miền Bắc). Chính trong bối cảnh bi thảm đó, sứ điệp vang lên: phải đặt trọn vẹn niềm tin tưởng vào Thiên Chúa, Ngài không thể khoanh tay đứng nhìn dân mà Ngài gọi “con đầu lòng của Ngài” (Xh 4: 22-23) phải bị họa diệt vong.

2. Tôn giáo của dân Ca-na-an:

Tổ phụ Áp-ra-ham đến đất Ca-na-an có lẽ vào khoảng 1850 trước Công Nguyên. Ông đến từ miền Lưỡng Hà Địa thuộc nền văn hóa Su-me. Thành Ua của người Can-đê, quê hương của ông, đã là một thành phố rực rỡ nền văn minh Su-me. Nhưng Áp-ra-ham không là người Su-me, nhưng là người Sê-mít. Ông di dân đến sống với những người Sê-mít, được gọi chung là người Ca-na-an. Ông khám phá nhiều dị biệt không chỉ về văn hóa nhưng cũng về phụng tự nữa: như việc dân Ca-na-an thực hành việc hiến tế gia súc cũng như con cái cho các thần linh mà dân Su-me lại không hề biết đến.

Ngay cả Kinh Thánh cũng cung cấp vài chứng liệu về việc hiến tế con cái của mình trong hai trường hợp: vào những hoàn cảnh đặc biệt như thiên tai, nguy hiểm, nguy cơ thất trận để xin thần linh cho tai qua nạn khỏi, hay vào lúc cử hành lễ đặt móng để xin thần linh cho công việc xây cất được hoàn thành. Trong trường hợp thứ nhất, nạn nhân được chọn phải là con người đắt giá nhất, thân thiết nhất như vua Mô-áp, khi thấy cuộc chiến ác liệt, không cầm cự nổi, “liền bắt con đầu lòng, là người có quyền lên ngôi kế vị, mà tế trên tường thành làm lễ vật toàn thiêu” (2V 3: 27). Vua A-khát cai trị miền Giu-đa, mất niềm tin vào Đức Chúa, trước hoàn cảnh tuyệt vọng vì bị quân thù công hãm Giê-ru-sa-lem, “làm lễ thiêu con trai mình” (2V 16: 3). Một thế kỷ sau đó, vua Mơ-na-se cũng làm tương tự (2V 21: 6). Trong trường hợp thứ hai, sách Các Vua quyển thứ nhất tường thuật: “Ông Khi-ên, người Bết Ên, xây cất lại Giê-ri-khô, nhưng ông đã phải mất người con đầu lòng là A-vi-ram, khi đặt nền, và mất đứa con út là Xơ-gúp, khi dựng cửa” (1V 16: 34).

Phải chăng khi có ý định hiến tế I-sa-ác, ông Áp-ra-ham muốn bày tỏ tấm lòng thành của mình đối với Thiên Chúa của mình chẳng thua kém gì dân Ca-na-an đối với các thần linh của họ?

3. Tôn giáo của dân Ít-ra-en:

Tuy nhiên, dù việc hiến tế các con trai đầu lòng của mình mang phẩm chất cao quý đến mấy đi nữa, tôn giáo Ít-ra-en luôn luôn ghê tởm những hành vi man rợ như thế. Luật Mô-sê nói rất rõ: “Ngươi phải nhường lại cho Đức Chúa mọi con đầu lòng của loài người và mọi con đầu lòng của loài vật trong đàn vật của ngươi: các con đực thuộc về Thiên Chúa… Còn mọi con đầu lòng của loài người trong số con cái ngươi, thì ngươi sẽ chuộc lại” (Xh 13: 11-13).

Vào thế kỷ thứ mười và thứ tám trước Công Nguyên, những văn kiện và những truyền thống liên quan đến các tổ phụ được tập hợp lại và soạn thảo. Từ lâu, chuyện tích hiến tế I-xa-ác minh chứng quyết định của luật Mô-sê: I-xa-ác được chuộc lại bởi hy tế của “con cừu đực bị mắc sừng trong bụi cây” (St 22: 13). Trong câu chuyện nầy, chân dung của tổ phụ Áp-ra-ham được phát họa như một con người có tấm lòng quảng đại và một con người có niềm tin kiên vững.

A. Một con người có tấm lòng quảng đại:

Ông Áp-ra-ham thường hằng bày tỏ tấm lòng quảng đại. Ông Áp-ra-ham để ông Lót, cháu của mình, chọn những cánh đồng màu mở nhất. Ông Áp-ra-ham biếu ông Men-ki-xê-đê một phần mười tất cả chiến lợi phẩm của mình. Ông Áp-ra ham đã cứu giúp vua Sơ-đom, nhưng từ chối mọi quà tặng mà vua đề nghị ban cho ông: “Dù một sợi chỉ, dù một quai dép, bất cứ cái gì của ông, tôi cũng không lấy” (St 14: 23). Ông Áp-ra-ham cũng hành xử với Thiên Chúa cùng một cách như vậy. Khi chấp nhận hiến tế đứa con một của mình, ông Áp-ra-ham dâng hiến tất cả cho Thiên Chúa của mình.

B. Một con người có niềm tin kiên vững:

Việc hiến tế I-xa-ác được định vị ở cuối một loạt những thử thách trong đó vị tổ phụ đã bày tỏ niềm tin của mình vào Thiên Chúa của mình rồi, bất chấp những vẻ bên ngoài khó mà tin được. Thiên Chúa hứa ban cho ông một dòng dõi đông đúc như sao trên trời như cát dưới biển; ấy vậy thực tế, ông và vợ mình càng ngày càng già yếu đi mà không có một người con nối dõi tông đường. Thiên Chúa hứa ban cho ông tất cả đất đai mà ông thấy trước mắt; ấy vậy, ông chỉ là một khách kiều cư, lang thang phiêu bạt nay đây mai đó. Vị tổ phụ cũng giữ một thái độ tràn đầy niềm tin như vậy khi ông dẫn đứa con trai duy nhất của mình lên núi để hiến tế theo lệnh truyền của Thiên Chúa. Cho dù ông không lý giải được lệnh truyền này nhưng ông vẫn tin là Thiên Chúa có một giải pháp, vì Ngài không thể nào mâu thuẩn với chính mình. Như vậy ông Áp-ra-ham đưa ra một khuôn mẫu đức tin, một đức tin dựa trên “lời Thiên Chúa” chứ không trên lý lẽ của người đời. Vì thế, ông Áp-ra-ham được cả ba tôn giáo: Do thái giáo, Ki-tô giáo và Hồi giáo, gọi là “Cha của những kẻ tin”.

Khi nhấn mạnh đức vâng phục của vị tổ phụ, một cách nào đó người kể chuyện muốn đặt ông Áp-ra-ham đối nghịch với nguyên tổ A-đam. Ông A-đam vì bất phục tùng đã đem đến những lời nguyền của Thiên Chúa trên nhân loại. Trái lại, ông Áp-ra-ham vì vâng phục đã đem đến những lời chúc phúc của Thiên Chúa trên muôn thế hệ.

Đáp lại niềm tin và sự vâng phục đến mức anh hùng của vị tổ phụ, Thiên Chúa làm mới lại mọi lời hứa mà Ngài đã hứa với ông trước đó. Hơn nữa, Thiên Chúa còn cam kết: “Ta lấy chính danh Ta mà thề”. Một cách nào đó, ông Áp-ra-ham trở thành một người bạn nghĩa thiết của Thiên Chúa, chứng nhân về lời thề của Thiên Chúa, vì lời thề thì chắc chắn hơn một lời hứa.

4. Thần học về sự thử thách:

Tác giả sống vào khoảng năm 750 trước Công Nguyên trong vương quốc Ít-ra-en miền Bắc. Chẳng bao lâu sau vương quốc nầy bị tấn công và trở thành chư hầu của đế quốc Át-sua và cuối cùng bị tiêu diệt (721 trước Công Nguyên).

Để soi sáng cho những biến cố mà tác giả đã trải qua, ông đọc lại những chứng liệu lịch sử. Chẳng có gì quá đáng khi nói rằng ông đã thấy ở nơi cuộc hiến tế I-xa-ác một dấu chỉ cho thấy cách thức Thiên Chúa hướng dẫn lịch sử thánh: những ý định của Ngài bên ngoài xem ra thất bại. Ông Áp-ra-ham luôn luôn hy vọng cho dù bên ngoài chẳng le lói một tia hy vọng nào. Ít-ra-en phải thấy ở nơi hành vi tròn đầy tin tưởng nầy nền tảng của việc mình được tuyển chọn và họ cũng phải thấy ở nơi việc Đức Chúa can thiệp để cứu I-xa-ác một sự đảm bảo rằng Thiên Chúa sẽ không bao giờ bỏ rơi những người con của Lời Hứa.

Khi ghi lại chuyện tích hiến tế I-xa-ác, tác giả muốn trả lời cho những thử thách mà những người đương thời của ông đã trải qua trong suốt những khủng hoảng lớn của thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên.

5. Khía cạnh ngôn sứ:

Hình ảnh người cha hiến tế đứa con một của mình, đứa con rất mực dấu yêu của mình, và hình ảnh người con mang trên vai mình bó củi sẽ được dùng để hiến tế chính mình, thật sự gợi lên một tấm thảm kịch khác, trong đó chính Thiên Chúa đã ban Con Một của Ngài để cứu độ nhân loại.

Khi ám chỉ đến hy tế của I-xa-ác, thánh Gioan áp dụng tước hiệu “Con Một” vào Đức Giê-su: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3: 16), và thánh Phao-lô đã phải thốt lên: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32). Ẩn hiện phía sau chuyện tích nầy, chúng ta đọc thấy cái vẻ thất bại bên ngoài của Thứ Sáu Tuần Thánh, nhưng tình yêu Thiên Chúa đối với loài người được bày tỏ cách rực rỡ ở nơi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su, Con Một của Ngài.

BÀI ĐỌC II (Rm 8: 31b-34)

Thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma vào mùa đông những năm 56-57; lúc đó thánh nhân hiện ở Cô-rin-tô. Những ngày lưu lại ở đây giúp thánh nhân khây khỏa trước những căng thẳng (các bài đọc của những Chúa Nhật vừa qua đã cho chúng ta những vang âm của những căng thẳng nầy). Cũng chính ở nơi đây mà ngài viết thư gởi các Ki-tô hữu Rô-ma mà ngài dự định sẽ viếng thăm họ. Như vậy, bức thư nầy chuẩn bị cuộc hành trình đến Rô-ma của ngài.

1. Bối cảnh:

Bài Đọc II được trích từ chương 8 thư gởi tín hữu Rô-ma, chương dâng trào cảm xúc bao la đến độ chúng ta như cảm thấy tâm tình tôn giáo nồng nàn của vị Tông Đồ. Thánh nhân miêu tả hoàn cảnh ưu tiên của người Ki tô hữu: được Thần Khí ngự trong lòng, được gọi là con cái của Thiên Chúa, được dành cho vinh quang bất diệt, được công chính hóa nhờ đức tin. Thiên Chúa yêu thương chúng ta bằng một tình yêu lớn lao đến như thế, nên chúng ta không có gì phải sợ ngoài một niềm hy vọng chan chứa niềm vui.

2. Người Ki-tô hữu chẳng có gì phải sợ cả:

Chương 8 nầy kết thúc với một bài thánh thi ca ngợi Tình Yêu Thiên Chúa bằng một cung giọng đắc thắng. Bài Đọc II là phần khởi đầu của bài thánh thi nầy. Không một quyền lực nào có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu Thiên Chúa: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (8: 32). Còn sự đảm bảo nào có thể sánh ví với tình yêu mà Ngài dành cho chúng ta và những ân huệ mà Ngài ban tặng cho chúng ta!

Thánh Phao-lô hình dung một phiên tòa ở đó những người Thiên Chúa chọn được điệu đến. Ai dám buộc tội những người Thiên Chúa đã chọn? Chẳng lẽ Thiên Chúa vừa buộc tội họ vừa tuyên bố họ công chính? Hay chẳng lẽ Đức Ki-tô ngự bên hữu Chúa Cha lại buộc tội chúng ta? Ấy vậy, Đức Ki-tô là Đấng đã cứu chúng ta và cầu bầu cho chúng ta. Vì thế, người Ki tô hữu chẳng có gì phải lo sợ cả.

TIN MỪNG (Mc 9: 2-10)

Biến cố Biến Hình là một trong những biến cố chất nặng mầu nhiệm Tin Mừng nhất, nhưng cũng là một trong những biến cố phong phú nhất về giáo huấn.

Biến cố này được xác định vào thời điểm rất có ý nghĩa: “Sáu ngày sau”. Vài ngày trước đó, gần miền Xê-da-rê Phi-líp-phê, Đức Giê-su đã hỏi các môn đệ của Ngài: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Ông Phê-rô, đại diện các môn đệ, tuyên xưng: “Thầy là Đức Ki-tô” (Mc 8: 29). Đức Giê-su nghĩ rằng đây là dịp thuận tiện để mặc khải sứ mạng mà Ngài sẽ thực hiện, vì thế Ngài báo trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Phê-rô không đồng tình với lời loan báo nầy liền tìm cách ngăn cản Ngài. Ba sách Tin Mừng Nhất Lãm đều đặt vào trong bối cảnh nầy biến cố Biến Hình, biến cố đem đến một câu trả lời.

Biến cố nầy phải được khảo sát dưới hai khía cạnh: biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với Đức Giê-su? và biến cố nầy có ý nghĩa như thế nào đối với ba nhân chứng: thánh Phê-rô, thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan?

1. Biến cố Biến Hình đối với Đức Giê-su:

Biến cố Biến Hình đem lại một sự nâng đỡ tâm lý và tinh thần quan trọng nhất mà Đức Giê-su nhận được trong suốt sứ vụ của Ngài. Trong khi Đức Giê-su đang hướng đến cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của mình, thì Chúa Cha đem đến cho Ngài một niềm an ủi đặc biệt. Qua biến cố Biến Hình, Đức Giê-su được đảm bảo rằng con đường đau khổ mà Ngài sắp trải qua, sẽ dẫn Ngài đến vinh quang, vinh quang mà Ngài đã có trước khi nhập thể và lúc nầy đây Ngài được nhận lại trong chóc lát.

“Ông Ê-li-a và ông Mô-sê hiện ra đàm đạo với Đức Giê-su”. Trên núi cao rực rỡ ánh vinh quang gợi lên núi Xi-nai, việc ông Mô-sê và ông Ê-li-a hiện ra không có gì phải ngạc nhiên. Cả hai nhân vật Cựu Ước nổi tiếng nầy đã gặp gỡ Thiên Chúa trong những hoàn cảnh tương tự. Ở đây, sự hiện diện của hai ông nêu bật rõ nét nhất tước vị Mê-si-a: sự hiện diện của hai ông chứng thực rằng Kinh Thánh được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su. Chắc chắn, ông Mô-sê đại diện Lề Luật và ông Ê-li-a đại diện truyền thống Ngôn Sứ, nhưng ở bên kia hình tượng nầy, họ là “dấu chỉ”. Quả thật, họ là những người mà truyền thống liên kết thường nhất với triều đại Mê-si-a. Ông Mô-sê đã loan báo rằng một ngôn sứ vĩ đại sẽ đến, những lời của đấng ấy cũng sẽ là lời của Thiên Chúa (Đnl 18: 18), trong khi ông Ê-li-a được truyền tụng là sẽ trở lại chuẩn bị cho Đấng Mê-si-a ngự đến. Cuộc Biến Hình nhấn mạnh mối liên kết giữa Cựu Ước và Tân Ước.

Vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa bởi Gioan Tẩy giả, Chúa Cha đã công bố: “Con là Con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con” (Mc 1: 11). Nay vào lúc Đức Giê-su biến hình, Chúa Cha công bố: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”, lời tuyên bố nầy một lần nữa khẳng định tử hệ thần linh của Đức Giê-su và trọn tình yêu của Chúa Cha dành cho Con của Ngài. Vì thế, lời nầy đem lại cho Đức Giê-su một niềm an ủi lớn lao mà Ngài đã nhận được vào lúc bắt đầu sứ vụ của Ngài, và được làm mới lại vào thời điểm Ngài khởi sự phần thứ hai, phần khó khăn nhất của sứ vụ của Ngài. Tuy nhiên, lời tuyên bố vào lúc Đức Giê-su chịu phép rửa nhấn mạnh trên sự hài lòng của Chúa Cha với Con Ngài, trong khi lời tuyên bố vào lúc Biến Hình lại nhấn mạnh trên sứ điệp: “Hãy vâng nghe lời Người”, bởi vì Đức Giê-su là Ngôi Lời Thiên Chúa.

2. Biến cố Biến Hình đối với các môn đệ:

Chỉ có ba nhân chứng được diễm phúc chứng kiến cuộc Biến Hình nầy: Phê-rô, Gia-cô-bê và Gioan. Đây là ba nhân chứng mà Đức Giê-su đã cho họ được chứng kiến việc Đức Giê-su cho con gái ông Gia-ia được sống lại (Mc 5: 37-42); cũng chính ba Tông Đồ nầy Đức Giê-su sẽ đem theo với Ngài vào vườn Ghết-sê-ma-ni ở đó họ sẽ là nhân chứng về cơn hấp hối của Ngài (Mc 14: 33). Vì thế, chúng ta có thể nói rằng qua biến cố Biến Hình này Đức Giê-su an ủi họ trước.

Việc thánh Phê-rô có mặt ở biến cố Biến Hình thật quan trọng: biến cố nầy củng cố những gì ông đã tuyên xưng từ trực giác của mình ở Xê-da-rê Phi-líp-phê và làm chứng rằng Đức Giê-su thật sự là Con Thiên Chúa hằng sống. Mặt khác, lời loan báo của Thầy mình về Đấng Mê-si-a chịu đau khổ mà ông không thể nào chấp nhận được lại được thay thế một Đức Giê-su chói ngời vinh quang thần linh. Vị thủ lãnh của các Tông Đồ và người bạn đồng hành của Đức Giê-su sau nầy sẽ có nhiệm vụ rao giảng một Đức Ki-tô chịu đóng đinh giữa hai tên trộm cướp, vào giây phút nầy được chiêm ngưỡng chính Đức Giê-su vinh quang giữa hai nhân vật danh tiếng nhất của lịch sử Ít-ra-en. Cuộc Biến Hình là phản đề của đồi Can-vê.

Như vậy, đây là nền tảng niềm tin của Các Tông Đồ, mà trên đó tất cả niềm tin của Giáo Hội được thiết lập. Thánh Gioan, người môn đệ trung thành từ đầu cho đến cuối sẽ chiêm ngắm Thầy Mình chịu đóng đinh trên khổ giá cũng sẽ viết: “Chúng tôi đã thấy vinh quang của Ngài, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sựu thật” (Ga 1: 14). Còn thánh Gia-cô-bê, ông sẽ là vị Tông Đồ đầu tiên chịu chết vì niềm tin của mình.

Thánh Phê-rô là người duy nhất tuyên xưng đức tin ở Xê-da-rê-phi-líp-phê và cũng chính ông phản kháng trước lời loan báo về cuộc Tử Nạn của Ngài. Ở đây, ông là người duy nhất phản ứng. Thánh nhân đầy phấn chấn. Ông muốn thời gian dừng lại và giữ chân ba nhân vật chính của cuộc Biến Hình. Ông đề nghị dựng ba cái lều: một cho Thầy, một cho ông Mô-sê và một cho ông Ê-li-a. Trong tận cõi lòng mình, ông chứng thực rằng ông luôn luôn tin tưởng vào triều đại vinh quang của Đấng Mê-si-a.

“Thực ra, ông không biết mình nói gì, vì các ông sợ quá”. Đức Giê-su đột nhiên xuất hiện trước mặt các ông trong một mầu nhiệm cao cả đến nổi sự sợ hãi linh thánh xâm chiếm các ông.

“Bổng có một đám mây bay đến bao phủ các ông”. Trong Cựu Ước, “đám mây” tượng trưng cho sự hiện diện của Thiên Chúa. Như vậy, Chúa Cha hiệp nhất các ông với Đức Giê-su và liên kết các ông vào trong mầu nhiệm của Ngài, trong sự bí mật của mặc khải mà họ không được kể cho ai “cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại” như Đức Giê-su đòi hỏi họ.

Vào lúc nầy, các Tông Đồ không hiểu được “từ cõi chết sống lại” nghĩa là gì. Sau nầy, các ông sẽ nhớ lại và hiểu tại sao Đức Giê-su cho các ông chứng kiến việc phục sinh của con gái của ông Gia-ia và biến cố Biến Hình của Ngài.

Sau này, các ông sẽ công bố mối liên hệ giữa biến cố Phục Sinh và biến cố Biến Hình nầy. Thánh Gioan, một trong ba nhân chứng, diễn tả rõ ràng điều nầy: “Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là Con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện, chúng ta nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy” (1Ga 3: 2). Thánh Phao-lô cũng viết như vậy: “Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3: 21).

 

53.“Hãy nghe Lời Người”--Lm. Xuân Hy Vọng

Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ! Trong thời khắc dịch bệnh vẫn lan tràn, cướp đi tính mạng nhiều người trên toàn thế giới, Giáo hội vẫn tiếp tục sứ mạng trở nên chứng tá cho lòng nhân từ, xót thương và đầy yêu thương của Chúa qua mỗi ngày, đặc biệt Mẹ Giáo hội cùng với chúng ta nhận bụi tro trên đầu, ý thức thân phận yếu hèn, dễ sa ngã của bản thân. Hơn nữa, chúng ta được mời gọi bước vào thời kỳ ân sủng của Mùa Chay, hướng chúng ta trở về với Chúa, lắng nghe Lời Người và tái khám phá vị Thiên Chúa mà chúng ta hằng tin thờ, tôn kính.

Trước hết, Thiên Chúa - Đấng mãi giữ lời: Ab-ra-ham tin tưởng tuyệt đối vào Chúa, mặc dù chưa biết đích đến là đâu. Ông vâng nghe và thực hiện ngay những gì Người phán truyền, thậm chí chịu hy sinh sát tế đứa con được ân ban. Nhờ vào niềm tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa, mà Ab-ra-ham đã chẳng từ chối điều gì, và ông sẵn sàng làm theo thánh ý Chúa. “Ta thề rằng: vì ngươi đã làm điều đó, ngươi không từ chối dâng đứa con duy nhất của ngươi cho Ta, nên Ta chúc phúc cho ngươi, Ta cho ngươi sinh sản con cái đông đúc như sao trên trời, như cát bãi biển; miêu duệ ngươi sẽ chiếm cửa thành của quân địch, và mọi dân tộc trên mặt đất sẽ được chúc phúc nơi miêu duệ ngươi, vì ngươi đã vâng lời Ta” (St 22, 16-18). Xuyên suốt dòng lịch sử dân tộc Is-ra-el, chúng ta thấy rõ Thiên Chúa đã thực hiện tất cả những gì Người phán hứa. Thiên Chúa hằng trung thành, tín trung, giữ trọn lời của Người, không những dành cho dân Is-ra-el, mà còn trao ban dồi dào cho chúng ta qua Con Một yêu dấu của Người.

Thứ đến, Thiên Chúa - Đấng hằng bên đỡ: Thánh Phao-lô xác tín rằng: “Nếu Thiên Chúa ủng hộ chúng ta, thì ai có thể chống lại chúng ta?…Đức Giê-su Ki-tô, Đấng đã chết và hơn nữa đã sống lại, đang ngự bên hữu Thiên Chúa, cũng đang biện hộ cho chúng ta” (x. Rm 8, 31. 34). Thiên Chúa không chỉ giữ lời phán hứa, mà còn luôn nâng đỡ, chở che, bảo vệ chúng ta, dẫu ta chẳng xứng đáng với Người. Tuy nhiên, một thực tế đáng buồn là: chúng ta cho rằng Thiên Chúa đương nhiên phải chăm nom, coi sóc ta; trong khi đó chúng ta vẫn mãi mê với tư lợi, với dự định cá nhân, mà chẳng đoái hoài đến lời kêu mời, thúc giục của Người mỗi ngày, hầu hân hoan thực thi Lời Người, và sống chính trực, yêu thương, tha thứ như Người giáo huấn chúng ta qua Giáo hội, qua các thừa tác viên có chức Thánh, qua mọi biến cố cuộc đời.

Sau cùng, Thiên Chúa - Đấng luôn hiển dung: Trước khi lên Giê-rê-sa-lem chịu tử nạn, Đức Giê-su đã biến hình, tỏ cho ít nhất ba môn đệ thân tín biết vinh quang của Người. Mặc dù là Thiên Chúa, nhưng Người đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận thấp hèn con người, mà vâng phục thực thi chương trình cứu độ của Thiên Chúa Cha qua cuộc khổ nạn, chịu chết nhục nhã trên Thập giá, nhưng từ cõi chết, Người phục sinh. Mầu nhiệm khổ nạn-chịu chết-phục sinh (thường được gọi là biến cố cuộc đời Đức Ki-tô - Christ-event) được tái diễn hằng ngày trong đời sống đức tin của chúng ta, nhất là: trong Thánh lễ, khi tham dự các Bí tích, khi sống Lời Chúa, khi chúng ta sống bác ái, tha thứ. Nhờ đó, Chúa hiển dung nơi cung lòng chúng ta, trong cộng đoàn, hội nhóm chúng ta, trong gia đình và mọi mối tương quan của chúng ta, giúp chúng ta biến đổi cung cách sống, lối sống, tất cả các phương diện con người chúng ta. Tuy nhiên, để cảm nghiệm trọn vẹn nó, tiên vàn, chúng ta phải ghi nhớ lời của Chúa Cha phán: “Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người” (x. Mc 9, 7). Chúng ta phải tháp nhập vào Đức Giê-su, phải nương náu, sống với Người, ở lại trong Người, ngõ hầu mọi lời nói, hành vi, tư tưởng,…của Đức Giê-su tỏ lộ rõ rệt nơi chúng ta.

Lạy Thiên Chúa - Đấng trung tín

Xin cho con luôn nhủ mình tín trung

Giữ trọn lời Chúa đến cùng

Sống trong hoan lạc thuỷ chung tinh tuyền.

Lạy Thiên Chúa - Đấng mãi liên

Hằng bên đỡ dù triền miên ngày tháng

Che chở con, tình chứa chan

Luôn chính trực, đời bình an thiết tha.

Lạy Thiên Chúa - Đấng ngợi ca

Mặc lấy xác phàm, bao la tin yêu

Chịu khổ hình Thập tự treo

Phục sinh vinh thắng, sống theo Cha hiền.

“Đây là Con Ta tinh tuyền,

Vâng nghe Người dạy, hằng luôn thi hành”. Amen!

 

54.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Gioan Phan Tiến Dũng

Thưa ACE, trong hành trình Mùa Chay năm nay, không biết chúng ta đã có những quyết tâm và đã lựa chọn ra được những hướng đi, hành động như thế nào cho riêng mình? Liệu rằng những quyết tâm và hành động đó có làm cho Chúa yêu thích? Hay nói khác hơn, thái độ và cách sống của chúng ta trong Mùa Chay này có thực sự làm cho Chúa hài lòng, để rồi chính Chúa Cha Ngài sẽ vinh danh chúng ta là những người con mà Ngài yêu quý? Các bài đọc Lời Chúa hướng dẫn, đồng hành và soi sáng cho chúng ta, hầu giúp chúng ta đi đúng hướng để đạt đến mục đích tối hậu là được trở nên những người con sống đẹp lòng Chúa.

Chúa muốn chúng ta phải làm gì? Không biết đây có phải là mối quan tâm chính của chúng ta trong thời gian Mùa Chay này? Đối với Apraham, trên mỗi chặng đường của hành trình theo Chúa, ông luôn cố gắng để nhận ra thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Để sống đẹp lòng Chúa, ông đã từ bỏ quê hương để đến nơi mà Chúa hứa. Sau không biết bao nhiêu gian nan thử thách trên hành trình theo Chúa, cho đến khi về già thì Chúa mới cho ông sinh hạ được một “người con thừa tự Isaac”. Thế nhưng, để sống đẹp lòng Chúa, ông phải làm gì với “của lễ đầu lòng Isaac” mà Chúa ban tặng đây? Đứng trước những suy tính phải hành động thế nào, ông đã nghe được tiếng Chúa phán: “Ngươi hãy đem Isaac, đứa con một yêu dấu của ngươi và đi đến đất Moria, ở đó ngươi sẽ dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên núi Ta sẽ chỉ cho ngươi”. Nếu là chúng ta, chắc hẳn không ai trong chúng ta lại dám mạo hiểm để làm theo tiếng Chúa dạy. Nhưng với Apraham, trong mọi hoàn cảnh ông đều thưa với Chúa: “Dạ, con đây”. Đó chính là thái độ, cách sống hoàn toàn tín thác trong khiêm tốn. “Abraham làm một bàn thờ và chất củi lên, rồi trói Isaac lại, đặt lên bàn thờ trên đống củi. Abraham giơ tay lấy dao để sát tế con mình”. Một hành động mà không một người Cha nào lại nỡ lòng để làm cho một người con mà mình yêu quý. Thật vậy, Thiên Chúa đã thấy hành động của Apraham, hành động của một con người luôn kính sợ Thiên Chúa, hành động của một người con luôn hiếu thảo với Thiên Chúa đến nỗi không ngại để hy sinh bất cứ điều gì, ngay cả chính người con duy nhất là Isaac cho Chúa. Chúa đã hài lòng, Chúa đã chúc phúc cho Apraham và cho dòng dõi của Isaac. Thưa ACE, với mẫu gương tuyệt vời của Apraham, mỗi người chúng ta phải nên làm gì?

Chúa biết rõ những giới hạn và sức của chúng ta, Chúa biết chúng ta còn chần chừ, còn tính toán hơn thiệt, nên Chúa đã ban cho chúng ta một quà tặng cao quý gấp bội còn hơn “của lễ Isaac” mà Apraham đã dâng cho Chúa. Thánh Phaolo trong bài đọc hai đã chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm về ơn thánh Chúa. Vì yêu thương chúng ta, vì muốn ban ơn cho chúng ta, vì muốn nên mẫu gương cho chúng ta noi theo, Thiên Chúa “Người không dung tha chính Con mình, nhưng lại phó thác Con vì tất cả chúng ta”. Người Con Chí Ái duy nhất là Chúa Giêsu, Thiên Chúa cũng không nỡ, nhưng đã hiến ban cho chúng ta, để qua đó, thấy lòng Chúa yêu thương chúng ta biết là dường nào.

Thật vậy, Tin mừng hôm nay minh chứng cho chúng ta thấy thái độ và cách sống tuyệt hảo của Chúa Giêsu, đó chính là vâng theo, thực thi thánh ý của Thiên Chúa Cha. Thánh ý của Thiên Chúa chính là để tỏ cho con người thấy chúng ta rất đặc biệt trước mặt Thiên Chúa, vì thế, Ngài muốn trao ban những ơn phúc tốt lành nhất cho chúng ta. Thật vậy, khi bước vào con đường khổ nạn thập giá, chấp nhận cái chết, Chúa Giêsu vừa làm đẹp lòng Chúa Cha, vừa trở nên mẫu gương tuyệt hảo mà Ngài muốn dành tặng riêng cho chúng ta noi theo: “Ðây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Người”. Thái độ, hành động và cách sống của mỗi người chúng ta có đẹp lòng Thiên Chúa Cha hay không tùy thuộc vào việc chúng ta có nghe theo lời và làm theo mẫu gương mà Chúa Giêsu để lại cho chúng ta. Trong cuộc biến hình trước khi bước vào cuộc tử nạn, Chúa Giêsu biết được những giới hạn, yếu đuối của các môn đệ nên Ngài đã nâng đỡ, củng cố và đã tỏ vinh quang cùng ơn thánh, sức mạnh của Chúa cho các ông. Chính qua ơn thánh này, ai chấp nhận, tin và sống thì sẽ được ơn cứu rỗi và thánh hóa.

Ước mong rằng, trên hành trình Mùa Chay, dẫu có gặp phải những khó khăn, thử thách, nhưng đời sống đức tin của chúng ta luôn được Chúa củng cố, gia tăng và trao ban những ơn thánh qua Giáo hội, qua các bí tích ban ơn sủng. Lạy Chúa, được đồng hành với Chúa trên hành trình tử nạn là ơn phúc cho chúng con, xin cho chúng con được ở mãi và sống kết hiệp mật thiết với Ngài. Amen.

 

55.Từ Tabor đến Golgotha--Thiên Phúc

Một linh mục qua nhiều năm coi xứ đã kể một câu chuyện khá dí dỏm và cũng sâu sắc như sau:

Có một đôi vợ chồng trẻ rất xinh đẹp và sống với nhau cũng rất khéo. Đúng là một cặp “trai tài gái sắc”.Có lẽ chính nét trẻ trung xinh xắn của vợ chồng đã cho họ một mùa xuân cuộc đời thật nồng cháy tình yêu và hạnh phúc.

Một ngày nọ, người vợ ăn một nửa trái táo, rồi tặng chồng phần kia. Người chồng vui vẻ đón nhận:

- Ôi nửa trái táo ân tình, công chúa của lòng anh!

Hai mươi năm sau. Cũng đôi vợ chồng ấy, cộng thêm những nét tàn tạ của thời gian. Cũng một trái táo, vợ ăn một nửa, mời chồng phần còn lại. Nhưng người chồng nhăn mặt:

- Sao lại cho nửa trái táo ăn thừa?

Tất cả nguyện trạng chỉ khác có nhan sắc. Cũng nửa trái táo dâng tặng nhưng hai mươi năm trước nhận từ tay “người đẹp” là trái táo ân tình. Hai mươi năm sau từ tay “nàng già” là trái táo ăn thừa. Nếu chỉ dựa vào nhan sắc người ta sẽ mất hết tất cả với thời gian.

Cuộc biến hình trên núi Tabor được xếp đặt trước việc tiên báo khổ nạn. Nếu người ta làm cho an toàn những viên thuốc đắng bằng một lớp vỏ bọc đường, thì Đức Giêsu cũng hóa giải tin khổ nạn bằng cuộc biến hình rực rỡ. Bọc đường chứ không bọc thuốc ngủ. Hóa giải chứ không gây mê.

Nhưng có lẽ cuộc biến hình đã phản tác dụng: “Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin dựng ba lều, một cho Thầy, một cho Moi sê và một cho Elia” (Mc 9,5). Vậy là Phêrô, Giacôbê và Gioan muốn đăng ký thường trú trên đỉnh núi Tabor. Họ đòi ngủ yên trong hào quang rực rỡ. Họ bỏ lại dưới chân núi các bạn đồng môn, các cuộc truyền giáo. Họ muốn xa rời dân chúng đang khao khát Lời Chúa.

Các ông đâu biết rằng Thầy Giêsu chỉ lên đỉnh Tabor trong chốc lát, rồi xuống núi chuẩn bị vác thập giá lên đồi Canvê. Theo Thầy không phải là lên cao hưởng thụ, nhưng là xuống thấp và leo lên thập giá với Thầy.

Cũng như ba môn đệ, đôi vợ chồng trong câu chuyện kể trên chỉ muốn dừng lại ở vẻ đẹp. Nhưng vẻ đẹp đâu tồn tại mãi, Chúa chỉ mặc “tấm áo trắng như tuyết” trong chốc lát vì niềm hy vọng Phục Sinh. Cuộc đời cần hạnh phúc chứ không phải vẻ đẹp.Vẻ đẹp là một ân huệ của trời, nhưng cũng có thể là cạm bẫy cướp đi hạnh phúc.

Giá trị đích thực chính là tình yêu, chính do tình yêu mà đôi vợ chồng mới giữ được lòng chung thủy, chính do tình yêu mà các Kitô hữu mới trở nên bóng hình xinh đẹp rực rỡ của Chúa. Chính do tình yêu mà chúng ta phải biến hình đổi dạng mỗi ngày để phản ánh vinh quang ngời sáng của Người.

Đức Kitô vinh quang của Tabor cũng chính là Đức Kitô rong ruổi trên các đường phố Palestine rao giảng, chữa bệnh và làm phép lạ.

Đức Kitô sáng láng của Tabor cũng chính là Đức Kitô thắm đẫm mồ hôi trong vườn Giếtsimani.

Đức Kitô rực rỡ của Tabor cũng chính là Đức Kitô treo trên thập giá đỉnh Golgotha.

Hai đỉnh núi Tabor và Golgotha cách nhau không xa, nhưng lại là con đường vạn lý, con đường đau khổ, con đường vượt qua: Đường tình yêu. Theo Thánh Teresa thành Lisieux: “Sống tình yêu không phải là căng lều trên đỉnh Tabor, mà là cùng với Giêsu ta trèo lên đồi Canvê”. Thánh Bernadette cầu nguyện:“Con không xin cho mình khỏi phải đau khổ, nhưng chỉ xin Người đừng bỏ con trong khổ đau”.

Lạy Chúa, xin cho chúng con luôn can đảm tiến bước trên đường đời chông gai vạn nẻo, với niềm hy vọng biến cố Phục Sinh sẽ bừng sáng. Amen.

 

56.Biến hình--tinmung.net

Trong Mùa Chay, Giáo Hội đặt trước mắt chúng ta những mầu nhiệm có vẻ rất tương phản nhau: một bên là Chúa Kitô đau khổ và chịu đóng đinh, một bên là Chúa Kitô vinh quang và Phục sinh, để chúng ta suy niệm và khám phá ra hai chân lý hay hai thực tại khác không kém phần tương phản, đó là tội lỗi trầm trọng của nhân loại và lòng yêu thương vô bờ bến của Thiên Chúa, hiểu được hai thực tại này thì chúng ta sẽ hiểu được phần nào hai mầu nhiệm đau khổ và vinh quang. Cũng chính trong ý hướng đó Chúa Giêsu đã chuẩn bị tinh thần và củng cố niềm tin cho các môn đệ bằng việc Ngài tỏ lộ cho các ông thấy phần nào vinh quang của Ngài mà chúng ta gọi là Chúa biến hình.

Biến hình là thế nào? Có phải là một chuyện thần thoại không? Cách đây khá lâu, trên nhiều đài truyền hình, chúng ta rất thích thú được xem các trò biến hình của Tôn Ngộ Không, một kẻ có 72 phép thần thông biến hóa, chỉ cần một cái lắc mình, họ Tôn có thể biến thành một con vật, một cô thiếu nữ hay một trái bí… đó là những chuyện thần thoại, không có thực, còn việc Chúa Giêsu biến hình, không phải là một chuyện thần thoại mà là một chuyện có thực.

Biến hình, theo nghĩa thông thường người ta thường hiểu là thay đổi một hình dạng khác với hình dạng bình thường. Các môn đệ đã sống với Chúa Giêsu ba năm rồi, các ông thấy Chúa chỉ là một người có xương có thịt, có hình dạng như mọi người, dù các ông đã được nghe những lời giảng dạy hay ho, cao siêu của Chúa, dù các ông đã được chứng kiến những phép lạ Chúa làm, nhưng các ông chưa thấy chân tướng đích thực của Ngài, bây giờ Chúa biến hình cho các ông thấy, Ngài thay đổi hình dạng “con người” cho các ông thấy hình dạng “Thiên Chúa” của Ngài.

Nói rõ hơn, Chúa Giêsu biến hình là Chúa bày tỏ cho các môn đệ biết thân thế đích thực của Ngài: Ngài chính là Con yêu dấu của Chúa Cha, Ngài là Đấng làm đẹp lòng Chúa Cha và là Đấng mà người ta phải nghe lời. Nhưng làm sao có thể nhận ra thần tính trên khuôn mặt nhân tính của Chúa? Đó là thắc mắc lớn của các môn đệ trên đường theo Chúa, và cũng là mối bận tâm của Chúa trong công cuộc giáo huấn của Ngài, thế nên mới có biến hình, đó cũng là mục đích của việc Chúa biến hình.

Ngoài mục đích bày tỏ, bộc lộ chân tướng đích thực là Con Thiên Chúa của mình, Chúa Giêsu còn nhằm một mục đích khác nữa, Ngài muốn khích lệ, động viên các môn đệ để các ông vững lòng trước mầu nhiệm thập giá, nghĩa là sau khi loan báo về cuộc khổ nạn Ngài sẽ phải trải qua, làm các ông khiếp sợ, Chúa lật cho các ông thấy đàng sau cây thập giá có gì, đó là sự phục sinh vinh quang, giống như Ngài biến hình trước mắt các ông lúc này. Qua đó, Chúa cũng muốn nhắn nhủ các ông: cuộc đời của các ông cũng thế, sẽ phải trải qua đau khổ rồi mới bước vào chốn vinh quang, vì vậy, hãy tin tưởng, can đảm và kiên nhẫn chịu đựng, Chúa luôn ở bên để hỗ trợ các ông.

Có một câu chuyện kể rằng: một người đàn bà giàu có đang hấp hối trên giường bệnh, trong tờ chúc thư để lại, bà kể tên của tất cả mọi người thân thuộc và xa gần sẽ hưởng gia tài của bà, tuyệt nhiên bà không hề đá động đến cô gái nghèo và trung thành hầu hạ bà bấy lâu nay, quà tặng duy nhất mà bà để lại cho cô là một thánh giá làm bằng thạch cao. Cô gái nhận lấy món quà nhưng lòng đầy cay đắng buồn phiền, cô tự nghĩ: mình đã trung thành phục vụ, hầu hạ sớm hôm để rồi chỉ được một món quà không ra gì, không còn đủ bình tĩnh để nuốt lấy từng giọt đắng cay, cô đã kéo thập giá xuống khỏi tường và ném mạnh trên nền nhà, cây thập giá vỡ tung, và kìa, trước sự ngạc nhiên của cô, tất cả những mảnh vụn thoát ra khỏi lớp vỏ thạch cao đều là những viên kim cương óng ánh. Cô gái chỉ có thể hiểu được lòng tốt của người chủ khi cô nhận ra giá trị của món quà. Lắm khi Thiên Chúa cũng gửi đến cho chúng ta những món quà được bao bọc bằng hình thù của thập giá, sự sần sùi và dáng vẻ thê thảm của thập giá làm chúng ta không thể hiểu được lòng tốt của Thiên Chúa, Ngài yêu thương chúng ta, Ngài không bao giờ muốn điều dữ cho chúng ta, bởi vì tất cả mọi sự xảy đến cho chúng ta đều nhằm dẫn đưa chúng ta đến hạnh phúc cao cả hơn.

Quả thực, ở đâu và bất cứ lúc nào cũng có thập giá, đã mang tiếng khóc vào đời, con người tiến bước trong cuộc sống với tất cả gánh nặng của thập giá. Tại sao Thiên Chúa đã để cho con người phải đau khổ? Mãi mãi dường như con người sẽ không bao giờ tìm được câu giải đáp cho vấn đề đau khổ, Chúa Giêsu không bao giờ đặt vấn đề và cũng không bao giờ đem lại một giải đáp cho vấn đề, trong thinh lặng, Ngài đã vác lấy thập giá, và khi sống lại, Ngài cho chúng ta thấy rằng thập giá là con đường dẫn đến sự sống. “Hãy vác lấy thập giá và theo Ta”, đó là lệnh truyền của Ngài. Mang lấy thập giá với tinh thần chấp nhận và mến yêu, chúng ta sẽ thấy ánh sáng bừng lên trong cuộc sống, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ thấy tình yêu mạnh hơn sự chết, mang lấy thập giá, chúng ta sẽ chiến thắng được hận thù và thất vọng. Tóm lại, không chối bỏ thực tại của đau khổ, chết chóc, nhưng chúng ta luôn được mời gọi để không nhìn vào đó như tiếng nói cuối cùng, như ngõ cụt, bởi vì vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống, cho nên hướng đi của lịch sử loài người không phải là ngõ cụt của sự chết mà là sự sống, bên kia khổ đau, chết chóc, cuộc sống vẫn còn tiếp tục có ý nghĩa và đáng sống.

Đây cũng là điều nhắc nhở chúng ta: đàng sau mọi gian nan thử thách, đàng sau mọi đau khổ của cuộc đời, luôn có Thiên Chúa hiện diện để bảo vệ và nâng đỡ, để an ủi và khích lệ, và nếu chúng ta chẳng nhận được gì ở đời này, chúng ta vẫn tin rằng: Thiên Chúa sẽ thưởng công cho chúng ta ở đời sau.

 

57.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Alfonso

Tin mừng Mc 9: 2-10: Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy.

SUY NIỆM

Khi xem các kênh truyền hình, có lúc chúng ta bắt gặp mục quảng cáo về một loại xà bông, một chất tẩy rửa, đánh bay mọi vết bẩn tới 99,9%, đem lại sự sáng bóng như mới v.v.. Thế nhưng để làm sáng tâm hồn một con người thì chất tẩy nào đây?

Bài đọc thứ I trích sách Sáng Thế kể cho chúng ta một thử thách mà Thiên Chúa đem đến cho Apraham thật chằng dễ chịu chút nào, và độc giả thính giả khó mà chấp nhận được lòng tin của vị tổ phụ như thế. Thiên Chúa hứa ban cho ông Apraham một dòng dõi đông đúc, trong khi thực tế, vợ chồng ông già yếu mà không có con cái nối dòng. Đã vậy, khi có được mụn con trai duy nhất, đứa con cầu con khẩn là Isaác mà ông hết lòng yêu mến, thì Ngài lại biểu đem lên núi để hiến tế. Apraham buồn lắm nhưng ông vẫn tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa sẽ có cách của Ngài, nên đã làm theo mà không do dự. Tâm hồn được khai sáng nhờ lòng tin không do dự của Ápraham vào Thiên Chúa giúp ông trở nên tổ phụ của mọi dân tộc, là Cha của những kẻ tin.

Đó cũng chính là hình ảnh tiên trưng cho Người Con Một mà Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng Ngài đã trao ban để làm của lễ đền tội cho hết thảy mọi người. Người Con yêu dấu của Thiên Chúa đã tin tưởng hoàn toàn vào chương trình cứu chuộc của Cha mình. Chương trình ấy được chứng thực bởi hai nhân vật vĩ đại trong Cựu ước là Môisen tượng trưng cho “Lề luật”, vàÊlia tượng trưng cho “các tiên tri” loan báo Lời Chúa mà dân Israel coi là hai cột trụ vững chắc, qua đó Thiên Chúa không thất tín bao giờ. Trên núi Tabor này, những môn đệ thân tín được chứng kiến cảnh tượng hai vị hiện ra đàm đạo với Chúa Giêsu, để minh chứng Người là Đấng phải đến.

Ba môn đệ Phêrô, Giacôbê, và Gioan được chứng kiến cuộc hiển dung của Chúa Giêsu trên núi Tabor để đức tin của các ông được củng cố, trở nên như kiềng ba chân, mà sau này, chính các ông sẽ giúp cho các đồng môn thực thi lệnh truyền của Thầy mình, vác thập giá mình để theo Thầy, có bước vào khổ nạn mới có thể tiến tới phục sinh. Có thể nói, ba môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu được coi là những người vào sanh ra tử với  Người, là những người được khai sáng tâm hồn trước tiên để trong những giây phút quan trọng và quyết định, các ông vững tin và giúp cho các anh em khác cũng tin.

Câu chuyện về một vị vua triệu tập các cận thần. Vua đưa cho quan Tể Tướng một viên ngọc trai lóng lánh và hỏi:

– Ông hãy nói viên ngọc này đáng giá bao nhiêu?

– Muôn tâu, nó đáng giá còn hơn số lượng vàng khối mà 100 con lừa có thể chở.

– Ông hãy đẫp vỡ nó ra !

– Muôn tâu Bệ Hạ, làm sao hạ thần có thể phung phá một báu vật như thế ạ !

Nhà vua thưởng cho quan Tể Tướng một chiếc áo danh dự và lấy lại viên ngọc.

Kế đó vua đưa viên ngọc cho quan Thị Vệ, cũng hỏi:

– Theo ông, nó đáng giá bao nhiêu?

– Bằng nửa vương quốc.

– Hãy đập vỡ nó ra !

– Đập vỡ viên ngọc này ư? Muôn tâu Bệ Hạ, tay thần không thể nào làm được việc đó.

Nhà vua cũng thưởng cho ông này một chiếc áo danh dự, lại còn tăng lương cho ông.

Sau cùng nhà vua đưa viên ngọc cho một chàng lính:

– Ngươi có biết viên ngọc này đẹp đến mức nào không?

– Muôn tâu, đẹp không thể nói được.

– Hãy đập nát nó đi.

Lập tức chàng lính ấy hai viên đá đập vỡ viên ngọc ra và nghiền nó thành bụi. Quần thần thét lên sợ hãi vì sự táo bạo của chàng lính. Họ hỏi:

– Tại sao nhà ngươi dám làm thế chứ?

Chàng lính bình tỉnh đáp:

– Lệnh của Hoàng Thượng đáng giá hơn bất kỳ viên ngọc quý nào. Tôi tôn kính Hoàng Thượng chứ không tôn kính viên ngọc.

Nhà vua khen ngợi thái độ của chàng lính và thưởng chàng trọng hậu hơn cả hai vị quan kia.

Câu chuyện giúp chúng ta hiểu tại sao khi Đức Giêsu biến hình, tiếng Chúa Cha từ trời đã phán: “Đây là Con Ta yêu dấu. Hãy vâng lời Ngài”.

Lạy Chúa, trên đỉnh Tabor, các môn đệ được chứng kiến Thầy mình biến hình, để các ông vững tin mà vác thập giá theo Con Chúa lên đồi Golgotha. Xin cho mỗi người chúng con cũng được khai sáng tâm hồn, biết vâng nghe Lời Con của Chúa để trong mọi phút giây của cuộc đời, chúng con luôn vững tin đón nhận thập giá Chúa trao, nhờ đó Chúa biến thập giá ấy thành thánh giá cứu độ cho đời chúng con. Amen.

 

58.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Jaime L. Waters--Chuyển ngữ: ĐCV Sao Biển

MÙA CHAY NHẮC TA NHỚ RẰNG CHÚNG TA KHÔNG ĐƠN ĐỘC TRONG HÀNH TRÌNH TÌM KIẾM SỰ HIỂU BIẾT

Bài đọc thứ nhất và bài Tin mừng Chúa Nhật II Mùa Chay hôm nay gây tác động mạnh mẽ và khó hiểu. Cả hai bài đọc đều là những trình thuật quan trọng nhưng chúng thường đưa đến nhiều câu hỏi hơn là câu trả lời. Các bài đọc này nhắc nhở chúng ta phải đọc và suy niệm dựa trên Kinh Thánh, cầu xin sự sáng tỏ và bằng lòng với sự vô tri về một số vấn đề.

Trong bài đọc thứ nhất, chúng ta nghe câu chuyện ông Abraham sẵn sàng hiến tế người con trai của mình là Isaac, một hành động thường được hiểu là dấu chỉ của đức tin. Sau khi ban cho Abraham và Sara một người con trai là Isaac khi ông bà đã già, Thiên Chúa lại ra lệnh cho ông hiến tế người con của mình. Yêu cầu này có vẻ đi ngược lại với trình thuật Kinh Thánh vì Isaac là người con của giao ước.

Hơn nữa và thậm chí đáng báo động hơn, điều này ngược lại với trách nhiệm bảo vệ con cái của cha mẹ và cho thấy Thiên Chúa mong muốn sự hy sinh của con người. Thế nhưng, Abraham lại ưng thuận mà không hề chất vấn chương trình của Thiên Chúa. Điều này cho thấy sự cam kết của Abraham với Thiên Chúa và sự hiểu biết của ông rằng Isaac là ân huệ của Thiên Chúa, hoặc nó cũng có thể cho thấy sự thiếu quan tâm của ông về mạng sống của Isaac. Tương tự như vậy, điều này có vẻ giống như một thử thách đức tin vô lý mà Thiên Chúa dành cho Abraham. Khi Abraham chuẩn bị hiến tế Isaac, Thiên Chúa liền can thiệp và thay thế bằng một con cừu đực, một hành động thường được hiểu như là dấu chỉ của việc Thiên Chúa không chấp nhận hy lễ của con người. Nhiều cuộc tranh luận về tính chất phức tạp về mặt thần học và triết học đã kéo dài qua hàng thế kỷ và tiếp tục đặt ra nhiều thách thức. Mặc dù Abraham  thể hiện một đức tin mạnh mẽ và sự tin cậy vững vàng nơi Thiên Chúa thế nhưng những hành động của ông chắc chắn không nên bắt chước. Trình thuật có thể cho thấy một yêu cầu đầy thử thách như thế  để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự dâng hiến và vâng phục. Thiên sứ khẳng định điều này khi tuyên bố: “Giờ đây ta biết ngươi hết lòng với Thiên Chúa vì ngươi đã không tiếc dâng hiến đứa con yêu dấu của ngươi cho Ta.”

Trình thuật cũng là một lời nhắc nhở hãy luôn rộng mở và chú ý đến Thiên Chúa. Trong ba lần, Abraham đều thưa “Hineni” (này con đây) khi trả lời Thiên Chúa, Isaac và thiên sứ. Điều này gợi nhớ lại câu chuyện về lời kêu gọi tiên tri với Samuel (được đọc vào Chúa nhật thứ hai Thường niên năm nay) và những lần cậu đáp trả “này con đây”. Có thể Abraham không phải là một hình mẫu về trách nhiệm làm cha mẹ nhưng ông là hình mẫu cho sự sẵn sàng và chấp nhận quyền năng Thiên Chúa. Câu chuyện đồng thời đưa ra những song đối đáng chú ý về việc Thiên Chúa hiến tế Chúa Giêsu, Người Con duy nhất của Ngài, hai biến cố đặt liền nhau đáng để cầu nguyện và suy niệm nhất là trong mùa Chay thánh.

Trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta lắng nghe câu chuyện về cuộc biến hình, trong đó thân hình Chúa Giêsu được biến đổi cũng như mối liên hệ của Ngài với tiên tri Môsê và Êlia được xác nhận qua một thị kiến. Sự hiện ra của Êlia là đặt biệt quan trọng vì sự trở lại của ông được mong đợi để báo trước về Đấng Messia. Cũng vậy, theo truyền thống, Êlia đã không chết nhưng được đưa lên trời bằng một cơn lốc lửa (2V 2,1-12), một tham chiếu để giúp các môn đệ của Chúa Giêsu hiểu về sự phục sinh.

Phêrô, Giacôbê và Gioan chứng kiến cuộc hiển dung và đã sửng sốt, kinh hãi. Phêrô đề nghị xây ba cái lều, điều này cho thấy ông muốn ghi nhớ vị trí này với những đền thờ di chuyển được. Các môn đệ cũng nghe thấy lời tuyên bố từ trời rằng Chúa Giêsu chính là Người Con yêu dấu của Thiên Chúa, Đấng mà họ phải lắng nghe, một lời vang vọng từ biến cố Chúa Giêsu chịu phép rửa. Cuối cuộc hiển dung, Chúa Giêsu yêu cầu các ông không được tiết lộ sự kiện này cho đến sau cuộc phục sinh nhưng các môn đệ bối rối “tự hỏi việc sống lại từ cõi chết có nghĩa là gì.” Việc các môn đệ không biết chắc là điều thú vị vì những sự kiện mà các ông chứng kiến thì rất khó nà hiểu trọn vẹn được. Khi tiếp tục hành trình mùa Chay, các bài đọc có thể gợi hứng cho chúng ta, nhắc nhớ rằng chúng ta không đơn độc trong hành trình tìm kiếm hiểu biết và làm sáng tỏ, cũng như chúng ta nên dành thời gian nghiêm túc học hỏi và cầu nguyện.

Nguồn: https://www.americamagazine.org/faith/2021/01/21/second-sunday-lent-gospel-reflection-catholic-scripture-239721

 

59.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Có hai thuyết về ngọn núi nơi Chúa Giêsu biến đổi hình dạng: có thể là núi Các-men ở miền bắc Ga-li-lê và gần Xê-da-rê Phi-líp-phê, nơi ông Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô; còn truyền thống quen thuộc thì cho đó là núi Ta-bô-rê ở phía nam Ga-li-lê giáp ranh với Sa-ma-ri và nằm trên đường xuống Giu-đê-a. Nếu ta coi hành trình của Chúa Giêsu lên Giê-ru-sa-lem như tột đỉnh sứ mệnh cứu thế của Đấng Kitô, thì Ta-bô-rê quả thực là bước quyết định để Chúa xác tín sứ mệnh ấy và nhất quyết đi Giê-ru-sa-lem để chịu đau khổ và chịu chết. Tuy nhiên, biến cố biến đổi hình dạng không chỉ có ý nghĩa đối với Chúa Giêsu, mà còn có ý nghĩa đối với các môn đệ, những kẻ muốn theo Chúa cũng phải “từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo”.

a) Để Chúa Giêsu xác tín sứ mệnh và quyết định đi Giê-ru-sa-lem

Sứ mệnh cứu thế của Chúa Giêsu mỗi ngày cần phải được củng cố thêm, sao cho đúng với kế hoạch Chúa Cha đã phác họa. Sau những ngày tháng thành công và nổi danh tại Ga-li-lê, Chúa Giêsu chắc chắn bị cám dỗ không muốn rời Ga-li-lê. Tại sao lại rời bỏ môi trường mình đang gặt hái được những kết quả tốt đẹp? Nhưng Chúa Giêsu đặt thánh ý Chúa Cha lên trên hết. Người cần phải quyết định rõ ràng, theo “tư tưởng của Thiên Chúa” hay theo “tư tưởng của loài người”, lên Giê-ru-sa-lem hay ở lại Ga-li-lê. Việc biến đổi hình dạng trên núi có thể coi như một tiến trình quyết định lên đường đi Giê-ru-sa-lem. Vậy quyết định đi Giê-ru-sa-lem được củng cố như thế nào qua những gì xảy ra trên núi Ta-bô-rê?

Trước hết là qua sự xuất hiện của ông Mô-sê và ngôn sứ Ê-li-a bên cạnh Chúa Giêsu. Ông Mô-sê là người đem Lề Luật của Thiên Chúa cho Ít-ra-en. Còn Ê-li-a là vị ngôn sứ vĩ đại nhất. Chúa Giêsu đến để thực hiện tất cả những gì Lề Luật và các ngôn sứ nói. Do đó, sự hiện diện của hai vị bên cạnh Chúa Giêsu đã nói lên đầy đủ ý nghĩa sứ mệnh của Người, đồng thời là một khích lệ to lớn. Ta có cảm tưởng câu chuyện giữa Chúa Giêsu với Mô-sê và Ê-li-a xoay quanh đề tài về sứ mệnh của Chúa Giêsu mà thôi. Các ông nói với Chúa: “Ngài đã thi hành sứ mệnh cứu thế một cách tốt đẹp, xin Ngài cứ tiếp tục sứ mệnh ấy!” Các ông nhìn thấy nơi Chúa Giêsu thể hiện tất cả những gì Thiên Chúa đã dạy các ông nói trước đây.

Tiếp đến là qua lời xác nhận của chính Chúa Cha: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Khi nói những lời này, Chúa Cha xác nhận tất cả những gì Chúa Giêsu đã làm trong quá khứ đều làm đẹp lòng Người. Đồng thời những lời đó cũng ngầm hiểu: Con đã quyết định đi Giê-ru-sa-lem là đúng, vậy Con cứ tiếp tục làm như đã quyết định. Chúa Giêsu không chỉ thấy việc chấp nhận thập giá như một điều không thể tránh né, nhưng tích cực hơn như một lẽ sống của Người và của toàn thể nhân loại. Người mong Chúa Cha sẽ nói qua Người với nhân loại những lời “đây là con Ta yêu dấu”.

b) Biến cố Chúa Giêsu biến đổi hình dạng mang ý nghĩa đối với môn đệ Người

Các môn đệ nản lòng sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Thương Khó và Phục Sinh. Ông Phêrô thì phổi bò nên “bắt đầu trách Người”. Ông đóng vai trò của Xa-tan cám dỗ Chúa Giêsu đừng làm theo những gì Người đã loan báo. Ông đã rời chỗ đứng của ông, thay vì bước đi theo sau Chúa thì ông lại bước lên trước làm chướng ngại con đường thập giá của Người. Mới đây ông đã thay mặt anh em môn đệ để tuyên xưng đức tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô thì bây giờ ông cũng thay mặt anh em để cản đường Chúa lên Giê-ru-sa-lem. Do đó, việc Chúa biến đổi hình dạng trên núi thật là cần thiết để ông và các bạn trở về chỗ đứng môn đệ của họ và lấy lại đức tin đã bị lung lạc do hình ảnh Thương Khó và cái chết của Chúa tại Giê-ru-sa-lem. Dù hiểu hay không hiểu sứ mệnh của Chúa Giêsu, thì ít ra lúc này các ông cũng được phục hồi niềm tin vào Người sau khi nghe những lời Chúa Cha nói với Người: “Đây là Con Ta yêu dấu”. Ngoài ra biến cố trên núi hiển dung cũng chuẩn bị các ông trong sứ mệnh làm chứng cho Chúa Giêsu. Vinh hiển các ông được chứng kiến trên núi là những gì tiên báo cho vinh hiển của Chúa Kitô Phục Sinh mà các ông sẽ rao giảng cho muôn dân.

c) Chúa Giêsu biến đổi hình dạng trong cuộc sống Kitô hữu

Có khi nào ta nghĩ rằng cả cuộc đời Kitô hữu của ta là tiếp diễn cuộc biến đổi hình dạng của Chúa Giêsu theo một nghĩa nào đó không? Dĩ nhiên ta không dám hiểu đó là một cuộc biến đổi chiếu tỏa vinh quang, nhưng là một sự thay đổi con người của ta trở nên giống Chúa Kitô mỗi ngày một hơn. Thánh Lê-ô Cả Giáo hoàng đã nói trong bài giảng của ngài: “Thiên Chúa đã khôn ngoan dự liệu cho niềm hy vọng của Hội Thánh có nền tảng vững vàng: Người cho Hội Thánh biết toàn thân thể mầu nhiệm của Đức Kitô sẽ được biến đổi ra sao. Người cũng dự liệu cho các chi thể tin chắc mình sẽ được thông phần vinh quang rực rỡ của Đầu là Đức Kitô” (Bài đọc 2, giờ Kinh Sách CN 2 mùa Chay).

Có lẽ thánh Phao-lô đã diễn tả cuộc biến đổi hình dạng của đời sống Kitô hữu một cách cụ thể nhất qua những lời ngài gửi cho các tín hữu Phi-líp-phê: “Vấn đề là được biết chính Đức Kitô, nhất là biết Người quyền năng thế nào nhờ đã phục sinh, cùng được thông phần những đau khổ của Người, nhờ nên đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hy vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết” (Pl 3:10-11). Việc ta biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Chúa Kitô quả thực tiếp tục cuộc hiển dung của Người trên núi Ta-bô-rê.

d) Suy nghĩ và cầu nguyện

Thập giá nào trong cuộc sống có thể làm cho tôi mất đi đức tin vào Chúa Kitô? Tôi có nhận ra được ý nghĩa đích thực của thập giá đó không?

Phụng vụ Lời Chúa lấy câu truyện Chúa Giêsu biến đổi hình dạng làm chủ đề cho Chúa Nhật 2 mùa Chay có ý nghĩa gì đối với tôi? Tôi có nhận ra sứ điệp nào đặc biệt không? Và tôi đã đáp lại thế nào?

Ông Phêrô xin dựng cho Chúa một cái lều trên núi để ông được tiếp tục cảm nghiệm những giây phút đầy an ủi khích lệ. Tôi có muốn dựng một cái lều ngay trong đời sống của tôi để Chúa cư ngụ và biến đổi con người tôi không? Dựng lều như thế nào?

Cầu nguyện

“Xin ở lại với con, lạy Chúa,

vì con cần có Chúa hiện diện

để con khỏi quên Chúa.

Chúa thấy con dễ bỏ Chúa biết chừng nào.

Xin ở lại với con, lạy Chúa,

vì con yếu đuối,

con cần Chúa đỡ nâng để con khỏi ngã quỵ.

Không có Chúa,

con đâu còn nồng nhiệt hăng say.

Xin ở lại với con, lạy Chúa,

vì trời đã xế chiều và ngày sắp tan,

cuộc đời qua đi, vĩnh cửu gần đến.

Con cần được thêm sức mạnh

để khỏi ngừng lại dọc đường.

Xin ở lại với con, lạy Chúa,

vì con cần Chúa trong đêm tối cuộc đời.

Con không dám xin những ơn siêu phàm,

chỉ xin ơn được Ngài hiện diện.

Xin ở lại với con

vì con chỉ tìm Chúa, yêu Chúa

và không đòi phần thưởng nào khác

ngoài việc được yêu Chúa hơn”.

- Cha Pi-ô

(Trích RABBOUNI, lời nguyện 16)

 

60.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--AM Trần Bình An

Cùng đăng sơn, cùng hạ sơn

Chúa Nhật 14.04.1985, Lễ Lòng Chúa Xót Thương, Lm. Jose Maniyangat đi dâng Thánh Lễ tại một nhà thờ thuộc điểm truyền giáo ở phía Bắc Kerala và bị một tai nạn chí tử. Ngài thuật lại sau này: Tôi đang lái xe gắn máy, thì bị đâm đầu vào một chiếc xe jeep do một người đàn ông say khướt sau một lễ hội Ấn giáo, điều khiển. Tôi được đưa gấp vào bệnh viện cách đó khoảng 35 dặm. Trên đường đi, linh hồn tôi lìa khỏi xác và tôi đã cảm nghiệm cái chết. Tức khắc, tôi gặp Thiên Thần Hộ Thủ của tôi. Tôi nhìn thấy thân thể mình và những người đến mang tôi vào bệnh viện. Tôi nghe họ khóc và cầu nguyện cho tôi. Vào lúc ấy thiên thần của tôi nói với tôi: ”Ta đến đem người vào thiên đàng, Chúa Giêsu muốn gặp người và nói chuyện với người”. Thiên thần cũng cho biết rằng dọc đường Ngài muốn chỉ cho tôi thấy Hoả Ngục và Luyện Ngục...

Kế đó, thiên thần của tôi hộ tống tôi tới Thiên Đàng đi qua một hầm màu trắng lớn sáng chói loà. Tôi chưa bao giờ cảm nghiệm được sự an bình và niềm vui như thế nầy trong đời. Thiên Đàng lập tức mở ra và tôi nghe tiếng nhạc mê ly nhất mà tôi chưa từng được nghe trước đây. Các thiên thần ca hát và ngợi khen Thiên Chúa. Tôi nhìn thấy tất cả các thánh, đặc biệt là Mẹ Maria và Thánh Giuse,và rất nhiều giám mục và linh mục thánh thiện đang lấp lánh sáng như những vì sao. Và khi tôi xuất hiện trước Người, thì Chúa Giêsu nói với tôi: ”Ta muốn con về lại thế gian. Trong cuộc sống lần thứ hai của con, con sẽ nói bằng một ngôn ngữ nước ngoài. Mọi thứ đều có thể xảy đến cho con với ân sủng Ta ban..”. Sau những lời nầy, Đức Maria nói với tôi: ”Hãy làm bất cứ điều gì Người nói với con. Mẹ sẽ giúp con trong các thừa tác vụ của con.” Lời nói không thể diễn tả hết vẻ đẹp của Thiên Đàng. Ở đó chúng ta tìm thấy được an bình và hạnh phúc nhiều dường nào, vượt qúa một triệu lần trí tưởng tượng của chúng ta. Chúa Giêsu đẹp đẽ vượt xa hơn bất cứ hình ảnh nào có thể mô tả. Dung nhan Người rạng ngời và toả sáng và rực rỡ hơn ngàn vạn mặt trời đang mọc. Những bức hoạ chúng ta nhìn thấy trên thế giới chỉ là cái bóng vẻ lộng lẫy uy phong của Người. Đức Mẹ ở bên Chúa Giêsu, Mẹ rất tươi đẹp và rạng rỡ. Không một hình ảnh nào chúng ta gặp trên thế gian có thể sánh với vẻ đẹp thực sự của Mẹ. Thiên Đàng là nhà thực sự của chúng ta; tất cả chúng ta được kêu gọi phải đạt tới Thiên Đàng và được vui hưởng Thiên Chúa muôn đời. Sau đó, tôi cùng với Thiên Thần trở về thế gian... (Jn. M. Vũ Sơn Bảo dịch theo Ingodscompany)

Cảm nhận ngây ngất về Thiên Đàng của Lm Jose Maniyangat có lẽ tương đồng với niềm hân hoan, hạnh phúc của các Thánh Phêrô, Giacôbê và Gioan, khi được chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình trên núi Tabor. Các ngài đã được Người mời gọi cùng lên núi, để được mặc khải về Ngôi Lời, Con Thiên Chúa. Rồi, lại cùng theo Người xuống núi, tiếp tục sứ mạng Đi Gieo và làm chứng nhân.

Đăng sơn

Xưa, ông Môsê lên núi Sinai để cầu nguyện và nhận lãnh 10 Điều Răn trên núi Sinai. Còn ngôn sứ Êlia trong tâm trạng chán nản, mệt mỏi vì bị binh lính của hòang hậu Idaven truy sát, đã nỗ lực vượt sa mạc trong 40 đêm ngày, leo lên núi Khôrép để được Thiên Chúa an ủi, ban sức mạnh lấy lại niềm tin, tiếp tục hăng say thi hành sứ vụ. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ba môn đệ lên núi. Các ngài được vinh dự diện kiến Người, hội ngộ cùng ông Môsê và ngôn sứ Êlia, đại diện cho Lề luật và Ngôn sứ. Các ông ngây ngất trước ánh sáng Ngôi Lời chan hòa vinh hiển, cùng ao ước và khao khát được mãi mãi hạnh phúc sống bên Thiên Chúa Tình Yêu.

Đăng sơn là lên núi là từ bỏ mọi sự, xác thịt, của cải, ham muốn, chỉ duy nhất chọn Chúa mà thôi. Bỏ mọi sự, kể cả những vấn vương tình cảm thân bằng quyến thuộc, cũng như từ bỏ chính bản ngã tham sân si. Dấn thân leo lên núi Chúa có nghĩa chấp nhận gian lao thử thách, nguy hiểm, chịu khinh khi, thù ghét, bắt bớ, hành hạ, tù đầy và tử vong.

“Ai trong anh em, không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ Tôi được.” (Lc 14, 33) Đức Giêsu còn đòi hỏi từ bỏ quyết liệt, từ người thân đến chính bản thân mình. “Ai đến với Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được.”(Lc 14, 26). Hơn thế, Đức Giêsu còn thêm điều kiện chấp nhận những khó khăn cơ cực khi theo Người.“Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được.” (Lc 14, 27)

Khi xa lánh, dứt bỏ bụi trần, nâng hồn lên với Chúa, thì tâm hồn người Kitô hữu được hưởng niềm hoan lạc vô song, tuyệt vời. Vì thế, các tâm hồn các thánh luôn được nếm trải những giờ phút xuất thần, tràn ngập niềm vui, hạnh phúc bên Chúa.

Chẳng phải lúc nào ai cũng có thể leo 1 000 bậc thang lên đỉnh núi Tao Phùng ở Vũng Tàu, để chiêm ngưỡng tượng Chúa Kitô Vua, hoặc hiếm khi được leo 220 bậc thang lên tượng Chúa Cứu Thế ở Rio De Janeiro, Brasil, để được hạnh ngộ với Người. Nhưng hằng ngày, ai cũng có thể lên núi với Người qua sám hối, ăn chay và cầu nguyện, qua tĩnh tâm, kinh hạt, suy gẫm và nhất là qua Lời Chúa và Thánh Thể.

“Hãy sống bên Chúa, và con sẽ nên thánh. Thiên Đàng không gì khác là Thiên Chúa hiện diện.” (Đường Hy Vọng, số 242)

Hạ sơn

“Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.” (Mc 9, 7) Thiên Chúa mặc khải cho các môn đệ, cho mọi tín hữu Đức Giêsu chính là Đấng Cứu Thế, phải tin cậy và vâng phục Người để được cứu rỗi.

Đức Giêsu dẫn ba môn đệ tâm huyết lên núi, Người biến hình rồi lại dẫn xuống núi nhập thế. Tin Mừng thánh Luca thuật lại: “Hôm sau, khi Đức Giêsu và ba môn để ở trên núi xuống, có đám người đông đảo tới đón Người.” (Lc 9, 37) Đăng sơn là chiều kích đầu tiên hướng lên trời với Thiên Chúa, hạ sơn chiều kích thứ hai hướng đến, thương yệu, phục vụ tha nhân, kể cả kẻ thù.

Hạ sơn là hạ mình xuống trước mặt tha nhân. Trở nên người phục vụ tình nguyện, noi gương Người. “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người." (Mc 10, 45) Điều đầu tiên, Đức Giêsu mong đợi nơi những ai theo Người, là một tấm lòng đơn sơ, khiêm nhường, vâng phục và yêu thương.

Hạ sơn cũng là từ bỏ con người cũ, nặng tính xác thịt, vị kỷ, kiêu căng, tham lam, háo danh háo của, để mặc lấy con người mới, xả kỷ vị tha, canh tân, sống theo Tin Mừng.

“Phải canh tân bao lâu? Phải luôn luôn khởi sự lại. Phải luôn luôn tu chỉnh thêm. Con đừng an nghỉ, bao lâu hôm nay con chưa tiến hơn hôm qua một bước trong sự hiệp nhất với Chúa. Con phải đinh ninh rằng: dừng lại là khởi sự thụt lùi xuống dốc, khởi sự thoái hóa.” (Đường Hy Vọng, 640 & 641)

Lạy Chúa Giêsu, kính xin Chúa biến đổi cuộc đời chúng con, từ tình trạng hư thân mất nết, chiều theo tính xác thịt và thế gian, mà hướng lòng lên cùng Chúa, biết sám hối, canh tân theo Tin Mừng, để được Chúa thương xót, cứu rỗi.

Lạy Mẹ Maria, xin mẹ giúp chúng con hướng lòng về tha nhân, trở nên kẻ phục vụ trong tin yêu, cũng như nhìn thấy Chúa Giêsu trong mọi người, để mến yêu và phục vụ tha nhân. Amen.

 

61.Một thoáng Thiên Đàng--AM Trần Bình An

Ngày xưa ông Mô sê đã hai lần lên núi Sinai mây phủ trắng xóa, suốt 40 đêm ngày mỗi lần, để được Đức Chúa ban Giao ước (Xh 24, 15-18 & Xh34, 1-28).

Sau này, khi ngôn sứ Elia tế lễ Đức Chúa thành công, đánh bại 450 tư tế thần Baal, liền bị hoàng hậu Jezabel cho người truy sát. Trên đường chạy trốn, vì quá mệt mỏi, ông than thở với Chúa: “Lạy Đức Chúa, đủ rồi! Bây giờ xin Chúa lấy mạng sống con đi vì con chẳng hơn gì cha ông của con” (1V 19, 4). Ông nằm vật ra, chờ chết. Nhưng thiên sứ của Đức Chúa đã nuôi dưỡng ông, rồi chỉ ông đi 40 đêm ngày, đến núi Khô rép để gặp Đức Chúa.

Đến thời Tân Ước, trên núi Tabor, Chúa Giêsu hiển dung trước mặt ba môn đệ, Phêrô, Gioan và Giacôbê. Dung nhan Người chói lọi như mặt trời, và y phục Người trở nên trắng tinh như ánh sáng. (Mt 17,2) Và kìa, có hai nhận vật đàm đạo với Người, đó là ông Elia và ông Mô sê. Hai vị hiện ra, rạng ngời vinh hiển, và nói về cuộc xuất hành Người sắp hoàn thành tại Giêrusalem. (Lc 9, 30-31). Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giê su rằng” Thưa Thầy chúng con ở đây thật là hay! Chúng con xin dựng ba cái lều, một cho Thầy, một cho ông Môsê, và một cho ông Elia.” Thật ra ông không biết phải nói gì, vì các ông kinh hoàng.(Mc 9, 5-6)

Như thế, các ông Mô sê, Elia, và ba môn đệ đã được diễm phúc cảm nhận Thiên Chúa vinh hiển, tựa gần như được chạm đến cõi Thiên Đàng. Nơi mà ông Mô sê phải lấy khăn che mặt, không dám nhìn trực diện Đức Chúa, nơi mà ngôn sứ Elia phải lấy áo choàng che mặt trước Đức Chúa, và nơi các môn đệ kinh hoàng, không biết phải nói gì trước nhan thánh Chúa Giêsu vô cùng sáng lạn.

Các Thánh nhân sau này cũng có vị được chạm đến ngưỡng cửa Thiên Đàng, qua những lúc xuất thần. Như Thánh nữ Faustina tiết lộ thị kiến: “Hôm nay trong thần trí tôi được ở trên Thiên Đàng và nhìn thấy những điều mỹ diệu, cũng như hạnh phúc tuyết vời đang chờ đợi chúng ta sau khi qua đời…Giờ đây, tôi hiểu được câu nói của Thánh Phaolô tông đồ: “Mắt chưa từng thấy, tai chưa từng nghe và lòng chưa từng nghiệm được những gì Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những kẻ yêu mến Ngài.” (NK 777 -80)

Như thế, Thiên Chúa đã phần nào tiết lộ nguồn hạnh phúc vô biên trên cõi Thiên Đàng, dành cho những linh hồn nào được Ngài đón nhận mai sau. Những linh hồn đã chiến thắng ngoạn mục cả ba kẻ thù: thế gian, thân xác và ma quỷ, để sống mật thiết trong tình yêu cứu độ của Chúa Cứu Thế.

Lạy Chúa Giêsu xin giúp con biết hối cải, hy sinh, dốc lòng theo Chúa, để được hưởng phúc trường sinh trên Thiên Đàng.

Lạy Mẹ từ bi nhân hậu, xin dẫn dắt con về đường ngay nẻo chính, xin giúp con tu thân, tích đức, xứng đáng hưởng Thánh Nhan Chúa muôn đời. Amen.

 

62.Hạnh phúc thiên đàng--Lm. Minh Vận, CRM

Một nhà đại phú hộ người Pháp, suốt đời chỉ lo hưởng thụ mọi vinh hoa phú quí, dinh thự nguy nga đồ sộ, đầy tớ tấp nập, ra vào hầu hạ, yến tiệc xa hoa với mọi lạc thú trần gian... Rồi bỗng nhiên, một hôm ông ngã bệnh nặng, hết bác sĩ này đến danh y khác được mời đến điều trị bệnh tật cho ông với lời hứa, nếu cứu ông khỏi chết sẽ được hậu tạ, dầu phải chấp nhận bất cứ điều kiện nào... Nhưng sau khi chẩn mạch, khám nghiệm và gắng sức chữa chạy, tất cả các bác sĩ, danh y đều bó tay vì bệnh trạng của ông đã đến hồi vô phương cứu chữa.

Khi biết mình không thể sống nổi, nhà đại phú hộ rất buồn bã thất vọng, gọi vợ con đến trăng trối: "Khi ta chết rồi, hãy khắc vào một bia đá đặt trên mộ ta lời rất bỡ ngỡ nhưng chân thật này: "Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!"

I. NÚI TABORÊ HUY HOÀNG

Bài Tin Mừng hôm nay tường thuật sự kiện Chúa Kitô biến hình, tỏ vinh quang Người cho ba Tông Đồ Pherô, Gioan và Giacobê, cho ba ông thưởng nếm một chút hạnh phúc Thiên Đàng, khiến các ông cảm nghiệm được niềm vui sướng và khoái lạc tràn đầy, đến nỗi Thánh Pherô đã phải sửng sốt kêu lên: "Lạy Thầy, chúng con được ở đây thì tốt lắm, chúng con xin làm ba lều, một cho Thầy, một cho Maisen và một cho Elia".

Thế rồi, lúc còn đang ngây ngất bỡ ngỡ trước cảnh thiên thai, huy hoàng thần tiên đó, bỗng có một đám mây bao phủ các ngài, và có tiếng từ trong đám mây phán ra: "Đây là Con Ta rất yêu dấu, các ngươi hãy nghe lời Ngài". Giây phút vui sướng thần tiên qua đi, các ông bừng tỉnh nhìn chung quanh, không còn thấy ai nữa, duy có một mình Chúa Giêsu và các ông.

Mục đích cho ba môn đệ thân tín nhất của Chúa, được hưởng sự vinh quang và hạnh phúc trong cuộc Chúa biến hình hôm nay, là để củng cố niềm tin tưởng của các ông và các môn đệ khác; khiến các ông thêm can đảm và kiên trì trong gian lao thử thách sẽ gặp, nhất là khỏi thất vọng trước cuộc khổ hình đau thương và cái chết tất tưởi đẫm máu của Thầy mình.

II. TIÊN BÁO VINH QUANG BẤT DIỆT

Niềm vui sướng hạnh phúc ba vị được nếm hưởng hôm nay, chỉ là hình bóng một chút vinh quang bất diệt, Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo của Chúa trên Quê Trời. Sau đời gian truân thử thách trần gian qua đi, những tôi trung con thảo của Chúa sẽ được vào nơi đầy ánh sáng huy hoàng tráng lệ, tận hưởng niềm vui sướng khoái lạc triền miên, hạnh phúc vô cùng vô tận. Thân xác sẽ được phục sinh vinh quang và trường tồn, y phục sẽ trở nên trắng hơn tuyết và sáng ngời như mặt trời... Chính Thánh Phaolô, sau khi được thưởng nếm những giây phút hạnh phúc Thiên Đàng này, trong cuộc thị kiến nơi tầng trời thứ ba, đã chỉ có thể thuật lại bằng một câu nói rất vắn gọn này: "Mắt chưa hề xem, tai chưa hề nghe, lòng chưa hề cảm nghiệm được hạnh phúc mà Chúa đã sắm sẵn cho các tôi trung con thảo được Chúa yêu thương".

Ngay khi còn sống nơi trần gian này, Chúa cũng đã cho một vài vị Thánh được tiên hưởng những khoái lạc phúc đức đó trong giây lát. Cũng có khi cho thân xác các ngài được tiên hưởng hình bóng sự không hư nát của thân xác vinh quang sau này trên Nơi Vĩnh Phúc.

Trong cuốn sách nhan đề "The Incorruptibles", tác giả Jean Carrol Cruz đã đề cập đến 102 vị Thánh, được chôn cất đã nhiều năm trong hầm mộ, mà thân xác các ngài vẫn còn tươi tốt như lúc còn sinh thời, chẳng hạn như các vị sau đây:

Thánh Gioan Maria Vianney, Cha Sở họ Ars nước Pháp, sau 45 năm chôn cất, lúc cải táng trong dịp điều tra tôn phong Hiển Thánh, người ta thấy xác ngài vẫn còn tươi tốt y nguyên.

Thánh Albertô Cả, từ trần năm 1280, sau hơn 200 năm được cải táng, xác ngài vẫn còn nguyên vẹn.

Thánh Nữ Agatha, từ giã trần gian năm 251, thế mà sau 11 thế kỷ, vẫn không hề tan rữa.

III. ĐỂ ĐƯỢC ĐỒNG HƯỞNG VINH QUANG

Để được đồng hưởng vinh quang hạnh phúc vĩnh cửu với Chúa trên Quê Trời, chúng ta cũng cần phải chết với Chúa: Chết cho tội lỗi, chết cho tính mê nết xấu, chết cho những đam mê thú tính, chết cho tính tự ái kiêu căng... và vâng giữ các giáo huấn Chúa Kitô dạy, như lời Chúa Cha đã tuyên phán: "Các ngươi hãy vâng nghe và tuân giữ lời Ngài".

Trần gian không phải là nơi hưởng thụ như nhà đại phú hộ trên kia. Ông chỉ lo tận hưởng những khoái lạc trần gian, mà không màng chi tới hạnh phúc trường tồn trong đời sống mai hậu, nên cuối đời ông đã phải thất vọng trăng trối, đặt trên mồ ông tấm bia khắc ghi lời quả quyết thú nhận sự lầm lỡ của mình: "Đây là mồ chôn một kẻ khờ dại!"

Trái lại, trần gian chính là đường dẫn chúng ta, là những người lữ hành đang tiến về Quê Hương Vĩnh Cửu. Vì trần gian là chốn đền tội, là nơi lập công, là trường tập đức, đào tạo chúng ta nên những kẻ anh hùng chiến thắng, những công dân Nước Trời, những vị Thánh, những con ngoan thảo của Thiên Chúa, sẽ được khải hoàn vinh quang tiến về Quê Hương Chân Thật giữa muôn ngàn Thần Thánh.

Kết Luận

Thánh Phaolô Tông Đồ đã căn dặn chúng ta phải ghi tâm khắc cốt lời này: "Đây là thời thuận tiện, đây là ngày cứu độ". Bao lâu còn sống trên trần gian, chúng ta còn thời giờ để lập công đức, để khi giờ Chúa gọi ra đi, chúng ta khỏi hối tiếc thất vọng.

Nếu chúng ta biết: "Vâng nghe lời Con Chúa" truyền dạy, chắc chắn chúng ta sẽ đạt tới hạnh phúc vĩnh cửu Chúa hứa ban.

 

63.Sống trọn ơn gọi của mình--Lm. Tuấn Bình, CRM

Theo tường trình của các nhà tâm lý ở Hoa kỳ thì số người tìm đến để giúp trị liệu ngày càng gia tăng, đặc biệt là giới trẻ, vì một lý do rất đơn giản là họ không tìm được mục đích và ý nghĩa của cuộc sống. Điều khiến tôi ngạc nhiên hơn cả là trong số này cũng có rất nhiều người Công giáo. Nếu là người Công giáo tại sao không chịu mở sách Giáo lý ra mà tìm hiểu để khỏi phải mất công tốn của đi nhờ các nhà tâm lý. Vì chưng, sách Giáo lý Công giáo ngay từ những hàng đầu tiên đã khẳng định rằng: mục đích chúng ta sống ở đời này là để nhận biết và mến yêu Thiên Chúa, rồi từ đó phát sinh hiệu quả thương yêu mọi người như anh chị em và cùng nhau xây dựng một xã hội tốt đẹp... để sau cùng trở về với Thiên Chúa là Đấng đã gọi chúng ta ra đi cũng là Đấng mong ngóng chúng ta trở về. Đây chính là ơn gọi phổ quát mà mọi người sinh vào trần gian được kêu mời để đạt tới, vì nó bao trùm hết những ơn gọi khác mà chúng ta vẫn hằng đáp trả qua những tiếng xin vâng nối tiếp nhau trong cuộc sống.

Để đạt được mục đích tối hậu của cuộc sống con người, Thiên Chúa mời gọi chúng ta vào những bậc sống khác nhau với quyền tự do chọn lựa: kẻ sống độc thân, người lập gia đình, và có một số rất ít chọn cuộc sống tu trì. Trong mỗi bậc sống đó, Thiên Chúa liên tục mời gọi chúng ta dưới nhiều hình thức để thăng tiến bậc sống mình đã chọn. Nói chung, dù ở bậc sống nào chăng nữa thì tất cả cũng chỉ là phương tiện để chúng ta tìm gặp Chúa mà thôi. Do đó, điều quan trọng không hệ tại bậc sống nhưng hệ tại việc chúng ta lợi dụng các phương tiện Chúa ban để sống trọn ơn gọi của mình.

Để gầy dựng một dân riêng, Giavê đã mời gọi Abram từ bỏ quê cha đất tổ, đi đến miền đất xa lạ mà ông chưa từng biết đến. Sau đó, lại truyền cho ông sát tế Isaac là người con duy nhất để làm của lễ toàn thiêu... Tuy ngập ngừng và khó hiểu nhưng ông vẫn vâng nghe và nhờ đó đã trở thành tổ phụ của một dân tộc hùng vĩ. Đang khi hăng say bắt bớ các Kitô hữu, thánh Phaolô được Chúa mời gọi để đem Tin Mừng cho dân ngoại. Dẫu sợ sệt và cảm thấy mâu thuẫn nhưng ông cũng can đảm vâng nghe và đã trở thành rường cột của Giáo hội. Ba thánh tông đồ Phêrô, Giacôbê và Gioan trong bài Phúc âm hôm nay cũng được Chúa mời gọi lên núi để chiêm ngưỡng dung nhan vinh hiển của Ngài. Mặc dù các ông rất thích đến nỗi muốn dựng lều để được ở luôn trên đó, nhưng vì Chúa muốn cách khác nên các ngài lại xuống núi. Chính vì sự mau mắn vâng nghe đó mà sau này chẳng những các ông được chiêm ngưỡng, nhưng còn được dự phần vào vinh quang phục sinh của Chúa Giêsu nữa.

Điều này tỏ cho chúng ta thấy rằng cuộc sống của mỗi người, dù có đi lên hay bước xuống, rẽ trái hay quẹo phải, tất cả đều có thể đạt được mục đích tối hậu là chiếm hữu được Chúa, nếu chúng ta bước theo tiếng gọi của Ngài. Nói theo kiểu bình dân thì cuộc đời dẫu lên voi hay xuống chó đều có thể gọi là một cuộc đời thành tựu nếu chúng ta biết chấp nhận giới hạn của mình và làm cho nó thăng tiến theo chiều hướng thích hợp với những giới hạn đó. Không ai hạnh phúc cho bằng người biết chấp nhận và vui với những gì có được trong tầm tay. Chúa không dựng nên bất cứ ai trong chúng ta chỉ để ăn hại, nhưng Ngài dựng nên mỗi người với một dụng ý riêng. Cũng mười ngón tay thon dài như nhau nhưng của người này thì Chúa muốn họ dùng để đánh đàn, viết sách, còn của kẻ khác thì Ngài mời gọi họ dùng để trồng cây hoặc đào mương, vét giếng... Chính vì vậy mà không ai có quyền tự hào cho rằng ơn gọi hay công việc của mình cao trọng hơn của người khác. Bởi lẽ, nếu để hoàn thành ơn gọi của mình theo ý Chúa mà làm công việc hèn mọn như làm đầy tớ cả đời thì cũng cao đẹp và công phúc như người có bổn phận xây nhà thờ cho Chúa vậy. Điều can hệ là chúng ta đã tận dụng các khả năng Chúa ban để nhận ra và đáp trả lời mời gọi của Ngài trong cuộc sống hay không mà thôi.

Xin Mẹ là Đấng đã mau mắn và tự tình thưa lời "Xin Vâng" với Chúa giúp chúng con biết lắng nghe và mau mắn thưa lời "Fiat" với ơn Chúa soi động trong cuộc sống thường ngày, để ngày sau được cùng Mẹ thông phần vào vinh quang rực rỡ của Chúa Kitô Phục Sinh. Amen.

 

64.Đệ tam nhãn--Lm. Vincent Travers

Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi Tabôrê. Phêrô la lên: "Lạy Chúa, chúng ta ở đây thú vị biết bao!". Thật thế, các ông thấy được một khía cạnh nơi Chúa Giêsu mà các ông chưa bao giờ nhìn thấy trước đó. Điều nầy lưu lại một ấn tượng sâu xa giúp các ông đứng vững trong những ngày đen tối đầy thử thách đang trải dài trước mắt các ông. Từ đây trở đi, Chúa Giêsu không chỉ đơn thuần là một rabbi, con ông thợ mộc ở Nagiarét. Giờ đây Ngài là Đức Kitô, con yêu dấu của Thiên Chúa.

Đã thấy vinh quang

Dòng chữ đầy ý nghĩa nhất ở trong phần mở đầu của đoạn Phúc Âm nầy là: "Chúa Giêsu đã đem ông Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cầu nguyện." Chúng ta cũng có thể nhớ lại một dịp về sau khi Ngài đem riêng bộ ba đó theo Ngài. Đó là khi ở trong vườn Giếtsêmani. Ở trên núi Tabôrê họ đã thấy vinh quang của Chúa. Ở trong vườn cây dầu, họ đã chứng kiến cảnh hấp hối của Chúa. Đó là lúc trèo lên núi cao. Đó là lúc tụt xuống đất thấp. Ở trên cao họ đã được hỗ trợ cho khi phải xuống đất thấp. Kinh Tiền Tụng trong Thánh Lễ Chúa Nhật thứ hai Mùa Chay đã ghi lại như sau: "Ngài đã mạc khải vinh quang của Ngài để tăng sức cho họ khi phải đối diện với sự nhục nhã của thập giá." Thật đúng như vậy, nhưng một câu hỏi đã được đặt ra: "Còn đối với chúng ta thì sao?".

Chúng ta có thể đối đầu với nhiều chống đối và bách hại, thử thách và áp lực, nếu chúng ta có được một dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa cho thấy rồi ra cuối cùng mọi sự sẽ được êm xuôi, đâu vào đấy. Chúng ta có điều gì để bám víu vào, có mạc khải nào cho thấy chúng ta sẽ trải qua cơn khủng hoảng khi mất đi một người thân yêu, khi bị sa thải mất việc hoặc bị chối bỏ trong một sự tương giao... mà những điều đó xem ra là cả một vũ trụ đối với chúng ta? Câu trả lời là "có". Trong thực tế, chúng ta đã có những lúc được thấy Chúa biến hình khi Ngài tự mạc khải cho chúng ta. Chỉ cần chúng ta thấy - thấy và nhận thấy điều gì đang xảy ra đó. Sự nghịch lý lớn lao ở trong Thánh kinh là: "ai có đôi mắt thì bị mù, còn ai mù thì có thể thấy".

Thiên Chúa vô hình

Những nhà thần bí học đã đề cập đến đệ tam nhãn - con mắt thứ ba. Họ nói tới việc nhìn thấy với con mắt của tâm hồn. Họ nói cho chúng ta rằng nếu chúng ta nhìn xem bề ngoài thì chúng ta đánh mất điều cơ bản, cái thực tại ở bên trong. Có một câu đầy ý nghĩa trong sách "The Little Prince"(Vị Tiểu Hoàng Tử). Câu đó là: "Điều gì cơ bản thì con mắt không thể thấy được."

Một quyển sách khác - quyển "Reaching For The Invisible God"(Đạt Tới Thiên Chúa Vô Hình) - đã đặt câu hỏi: "Ở đâu chúng ta có thể trông mong gặp được Thiên Chúa Vô Hình?".Joseph Mary Plunket, thi sĩ người Ái-Nhĩ-Lan là với khả năng con người, đã nhìn thấy Thiên Chúa vô hình ở trong thiên nhiên. Ông đã cảm hứng viết ra bài thơ sau đây:

"Tôi đã thấy huyết Ngài trên đóa hoa hồng,

Và vẻ đẹp của đôi mắt Ngài trên những vì sao.

Thân thể Ngài chiếu sáng giữa màn tuyết trắng muôn thuở,

Những giọt lệ Ngài rơi lã chã từ bầu trời cao."

Thiên Nhiên đã cung ứng cho thi sĩ Plunket những dịp biến hình và ngạc nhiên thay, ông đã chiêm ngắm vinh quang Thượng Đế trong một đóa hoa tươi, một hạt mưa rơi và một cụm tuyết trắng.

Chúng ta cũng thế, chúng ta được diễm phúc nhìn thấy Thiên Chúa vô hình với khả năng con người chúng ta. Phải chăng đôi khi chúng ta đã không hỏi một người thân yêu hãy "nhận ra chúng ta" trong đám quần chúng đông đảo sao? Sự thật họ đã nhận ra và chúng ta vui sướng biết bao khi thấy họ nhận ra chúng ta trong đám đông đó. Chúng ta hãy nhận ra Thiên Chúa với con mắt của tâm hồn. Ngài đến với chúng ta không phải theo cung cách chúng ta nhưng theo cung cách của Ngài. Có thể chúng ta không nhận chân sự hiện diện của Ngài trừ khi chúng ta cố nhìn ra Ngài.

Thiên Chúa trong tô cháo gà

J.D. Salinger đã viết quyển sách "Fanny and Zooey" khiến người đọc phải choáng váng. Một cảnh gây nên ấn tượng lớn là khi Fanny từ trường cao đẳng về nhà, thần kinh bại hoại thê thảm. Cô đang nghiên cứu tỉ mỉ nền thần bí học về đạo giáo và cố gắng đó đã khiến cô căng thẳng tột độ. Thêm vào đó, mẹ cô cảm thấy lo lắng bồn chồn và để biểu lộ điều đó, bà đã dọn cho cô một tô cháo gà. Fanny rõ biết mẹ cô đang ra sức vỗ về cô nhưng sự trao tặng đó chọc giận cô khiến cô văng tục.

Em trai Fanny đang ngồi bàn ăn, nhảy nhổm lên và đối đầu với cô. Cậu thẳng thừng bảo cô là toàn bộ lối tiếp cận của cô đối với tôn giáo đều sai lầm hết: "Nếu tôn giáo là điều chị truy tầm, thì đây là lúc có người nói cho chị biết là chị đang đánh mất mỗi một tác động về tôn giáo đang xảy ra trong căn nhà nầy. Chị không có chút nhận thức khi thưởng thức một tô xúp đã được thánh hóa và đó là loại xúp duy nhất mà mẹ dọn ra trên bàn ăn nầy."

Cậu em đã thấy điều mà cô chị không thấy. Cậu đã nhìn thấy với đệ tam nhãn, sự mạc khải của tình yêu Thiên Chúa ở trong tô cháo gà của mẹ cậu. Fanny mù mắt. Cô có đôi mắt nhưng cô đã không thể thấy. Cô đã không thể thấy Đức Kitô ở trong cuộc sống tầm thường. Cô không thể thấy Ân sũng Thiên Chúa trong một tô cháo gà. Có thể cô đã ganh tị với Phêrô, Giacôbê và Gioan ở trên núi Tabôrê, nhưng cô cũng có một kinh nghiệm về biến hình và giả như cô đã quan sát, có thể cô đã được biến đổi và cô sẽ la lên: "Lạy Chúa, Con tạ ơn Chúa, thật thích thú được ở nơi đây, tại bàn ăn nầy."

Sự mạc khải có thể đã nuôi dưỡng cô, nâng đỡ cô khi xuống tinh thần và giúp đỡ cô qua cơn khủng hoảng.

Thiên Chúa ở đây

Đối với chúng ta thì sao? Chúng ta cũng có thể chứng kiến những cuộc biến hình trong đời sống chúng ta. Thiên Chúa đã ban cho chúng ta điều đó nhưng thường khi đôi mắt chúng ta mất cơ hội thấy Ngài trong cuộc sống thường nhật, khi chúng ta thưởng thức một tô xúp nóng, khi ngắm xem một buổi chiều tà hay một đóa hoa xinh, khi được trao tặng một nụ cười tươi, khi đón tiếp những người anh chị em bất hạnh nhất của chúng ta. Thánh kinh cho chúng ta rõ hoặc là chúng ta thấy Chúa khắp mọi nơi hoặc là chúng ta không thấy Ngài ở đâu hết. Mỗi một cuộc thăm viếng của Thiên Chúa vô hình là một lúc đầy ân sũng khiến chúng ta phải la lên: "Lạy Chúa, chúng con ở đây thật thích thú biết bao!"

Thích thú cho đến đỗi Phêrô, Giacôbê và Gioan đã muốn ở lại mãi trên đỉnh núi Tabôrê. Nhưng Chúa Giêsu đã dẫn dắt họ xuống núi. Không ai sống mãi trên một đỉnh núi. Thỉnh thoảng lên đó một lúc và rồi sau đó phải đi xuống thật xa để có những hoài vọng và cảm hứng mới. Chúng ta phải xuống núi. Sống là sống trong những thung lũng, làng mạc và thị thành. Chính ở đó có nhà cửa, trường ốc, bệnh xá, nhà tù, công sở, hảng xưởng và dinh thự...Đó là nơi người ta sinh hoạt, nơi có sự yêu thương và tha thứ, nơi có được miếng cơm manh áo, nơi vác thánh giá hằng ngày, nơi pha lẫn tiếng khóc và tiếng cười, đàn hát nhảy múa kể cả sinh hoạt cho phần rỗi linh hồn. Đó là nơi làm cho những mảnh đời chúng ta có ý nghĩa. Đó là nơi chúng ta đem thi thố những hoài bão và ước vọng. Chúng ta nên làm chiếu tỏa ánh sáng của núi Tabôrê trong đời sống chúng ta, ánh sáng mà qua đó bộ mặt nhân loại của chính Thiên Chúa được mạc khải.

 

65.Suy Niệm của JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Điều các tông đồ thấy nơi Đức Giêsu khi Ngài hiển dung trên núi khác với điều các ông thấy nơi Ngài hằng ngày ở chỗ nào? Trường hợp nào các ông thấy được bản chất của Ngài?

2. Chúng ta cần hành xử với mọi người đúng theo bản chất con người họ, hay theo những gì chúng ta thấy ở bên ngoài? Bản chất đích thực và sâu xa nhất của mỗi người là gì?

3. Bản chất đích thực của mọi người chung quanh ta – là hình ảnh và là con cái Thiên Chúa – có hiện ra trước con mắt đức tin của ta không? Ta thường hành xử theo con mắt đức tin hay theo con mắt xác thịt?

Suy tư gợi ý:

1. Bản chất và hiện tượng

Khi cứu xét một sự vật, dù lớn hay nhỏ, tâm hay vật, trừu tượng hay cụ thể… bất cứ triết lý nào, đông phương cũng như tây phương, đều nói đến và phân biệt hai phạm trù căn bản này: bản chất và hiện tượng.

– Hiện tượng: là những gì hiện ra trước mắt mọi người, thấy được dễ dàng, và thường thay đổi, nay thế này mai thế khác. Chẳng hạn, đối với một người, thì hiện tượng là những gì liên quan đến hình dạng (khuôn mặt, chiều cao, vẻ đẹp, mầu da), khả năng (trình độ văn hóa, nghề nghiệp, chuyên môn, tài nghệ), tính nết (quan niệm, tư tưởng, thói quen, các khuynh hướng), sở hữu (sự giàu nghèo, của cải, nhà cửa), v.v…

– Bản chất: là cái sâu thẳm bên trong, khiến cho một vật là chính nó, chỉ thấy được bằng trí tuệ, và tương đối không thay đổi.

2. Khi Đức Giêsu hiển dung, các tông đồ thấy được bản chất của Ngài

Khi sống với Đức Giêsu, các tông đồ chỉ thấy được những hiện tượng bên ngoài của Thầy mình: thân xác, thói quen, lời nói, việc làm, với những lời giảng dạy, những phép lạ, v.v… Từ đó các ông dự đoán về bản chất của Thầy mình: trước hết Ngài là một Thầy Đạo vì Ngài dạy về đạo lý, tôn giáo; kế đến Ngài là người được Thiên Chúa sai đến, là người của Thiên Chúa, vì Ngài có thể nhân danh Thiên Chúa mà làm phép lạ, chữa bệnh, trừ quỉ… Sự hiểu biết của các ông về bản chất của Ngài chỉ là dự đoán, căn cứ trên những hiện tượng mà các ông thấy được, tuy đúng, nhưng chưa phải là bản chất đích thực và sâu xa của Ngài.

Nhưng vào thời điểm của bài Tin Mừng này, các ông được nhìn thấy nhãn tiền bản chất của Thầy mình qua những hình ảnh mang tính biểu tượng diễn ra trước mắt các ông. Ngài đứng giữa Môsê và Êlia, là hai nhân vật vĩ đại tiêu biểu cho Lề Luật và các ngôn sứ, là hai thực tại nền tảng của tôn giáo Do Thái. Đứng giữa hai ông, điều đó có nghĩa là Ngài lớn hơn hai ông. Toàn cảnh – với y phục rực rỡ, mây trắng bao phủ – biểu tượng cho sự vinh quang cùng tột của Ngài. Câu nói từ trong đám mây phán xuống cho các ông biết rõ bản chất đích thực của Ngài: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người”. Vậy thì Ngài chính là Con Thiên Chúa. Điều các ông thấy bằng mắt, nghe bằng tai về Thầy mình hôm nay là bản chất đích thực của Ngài, khác với bình thường các ông chỉ thấy những hiện tượng bên ngoài của Ngài.

3. Chúng ta cần thấy được bản chất của mình và tha nhân

Trong đời sống, chúng ta chỉ nhìn thấy được những hiện tượng bên ngoài của sự vật, của người này người nọ. Và qua những hiện tượng ấy, tâm trí ta tìm kiếm, khám phá ra bản chất của sự vật, của con người. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào những hiện tượng bên ngoài, sự phán đoán của ta về bản chất của sự vật hay của con người có thể sai lầm. Thấy được bản chất đích thực của người, việc, vấn đề ta gặp trong cuộc đời là điều hết sức quan trọng để chúng ta hành xử đúng, thích hợp.

Trong đời sống, rất nhiều khi chúng ta đối xử với người khác, theo những hiện tượng mà ta thấy được nơi họ, chứ không theo bản chất đích thực của họ. Hiện tượng là cái có thể thay đổi, nay còn mai mất, nay thế này mai thế khác: như của cải, tài năng, quyền lực… Thật vậy, nhiều người hôm trước còn giàu nứt khố đổ vách, hôm sau biến thành trắng tay. Nhiều người khi gặp lại sau nhiều năm xa cách, ta không ngờ được tính tình của họ đã đổi trắng thay đen quá nhanh chóng và sâu xa… Nói cụ thể hơn, nhiều khi cách chúng ta đối xử với tha nhân tùy thuộc vào sự giàu nghèo, vào quyền lực, vào tính nết của họ… Chúng ta không nhìn vào bản chất đích thực của họ và đối xử theo bản chất ấy.

4. Bản chất đích thực của con người: là hình ảnh và là con cái của Thiên Chúa, được dựng nên giống như Ngài

Sự hiển dung của Đức Giêsu cho các tông đồ và cho cả chúng ta thấy bản chất đích thực của Ngài. Kinh Thánh, hay đức tin, cho ta biết bản chất đích thực và sâu xa nhất của ta và của những người mà ta gặp trong cuộc đời. Họ và ta đều được Thiên Chúa tạo dựng “theo hình ảnh của Ngài” (St 1,27; 9,6; Ep 4,24), “giống như Ngài” (St 1,26; 5,1), để trở thành “con cái Ngài” (Lc 20,36; Ga 11,52; Rm 8,14.16.21; Gl 3,26; 1Ga 3,1.2.10). Họ và ta đã được Thiên Chúa “ban tặng một điều rất quý báu và trọng đại” là “được thông phần bản tính của Ngài” (2Pr 1,4). Mà bản tính của Ngài là thần linh, nên khi “được thông phần bản tính của Ngài”, một cách nào đó, họ và ta cũng mang bản tính thần linh nơi bản chất mình (x. Tv 82,6; Ga 10,35). Đức tin Kitô giáo cho chúng ta thấy phẩm giá nội tại của con người thật hết sức cao cả. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, và thật sự hành xử đúng theo những gì đức tin đòi hỏi, chúng ta sẽ phải coi trọng chính bản thân mình và mọi người chung quanh ta biết bao!

Coi trọng bản thân đòi buộc ta phải sống thánh thiện, tốt lành, cao thượng xứng với bản chất cao quí của mình. Sống hèn hạ, tội lỗi không chỉ là tự khinh rẻ bản thân mình, mà còn giống như làm dơ bẩn hay chà đạp hình ảnh của Thiên Chúa. Một cách nào đó, đó là vũ nhục Thiên Chúa. Tương tự như con của một ông vua mà sống một cách hèn hạ, nhục nhã, mất phẩm giá, điều này làm mất mặt nhà vua, làm nhà vua phải xấu hổ trước mặt thần dân.

Coi trọng mọi người đòi buộc chúng ta phải cư xử với họ đúng với bản chất cao quí của họ. Bất cứ ai, hễ đã là người thì ta đều phải coi trọng, cho dù người đó hiện ra thế nào trong thế giới hiện tượng: nghèo nàn, dơ bẩn, hèn hạ, xấu xa, tội lỗi, hay có những hành vi bỉ ổi, đáng khinh… Dù họ thế nào, hễ đã là người, thì họ đáng kính trọng, chính vì bản chất của con người rất cao trọng. Luật pháp các nước nói chung đều cho việc cố ý giết người là một tội nặng, đáng chịu hình phạt nặng nhất, cho dù người bị giết là người có những hành vi hèn mạt hay tội lỗi đến đâu. Điều đó cho thấy luật pháp các nước đã nhìn nhận phẩm giá cao quí của con người, bất chấp con người thế nào.

Là người Kitô hữu, đúng ra ta phải luôn luôn thấy mọi người đều “hiển dung” trước con mắt đức tin của mình, nghĩa là ta phải thấy được bản chất đích thực rất cao quí của mọi người. Nếu ta thật sự tôn trọng và yêu mến Thiên Chúa, thì tất nhiên ta phải tôn trọng và yêu mến con cái của Ngài, hình ảnh của Ngài, là những con người cụ thể chung quanh ta. Thiên Chúa thì vô hình, nhưng hiện thân của Ngài thì rất hữu hình bên cạnh ta, chung quanh ta. Nếu ta không tôn trọng và yêu mến những hiện thân cụ thể ấy của Ngài, thì sự tôn trọng và yêu mến Ngài nơi ta chỉ là một ảo tưởng. Thánh Gioan nói: “Nếu ai nói: "Tôi yêu mến Thiên Chúa" mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy” (1Ga 4,20).

Cầu nguyện

Lạy Cha, việc Đức Giêsu hiển dung trước mắt các tông đồ khiến các ông nhìn thấy bản chất đích thực và cao trọng của Ngài là Con Thiên Chúa. Nếu con mắt đức tin của con còn trong sáng, tinh nhuệ, ắt con cũng thấy mọi người chung quanh con “hiển dung” trước mắt con với bản chất rất cao trọng của họ: là hình ảnh và là con cái của Cha. Xin cho con biết biểu lộ lòng yêu mến và tôn trọng Cha một cách cụ thể qua việc yêu thương và quí mến những người đang sống chung quanh con, bất chấp họ là người thế nào.

 

66.Tình yêu tận hiến--Lm. Anphong Trần Đức Phương

Chúng ta đã bước sang Chúa Nhật II Mùa Chay. Trong Chúa Nhật II Mùa Chay, bài Phúc Âm cả ba chu kỳ năm A (Matthêu 17: 1-9), năm B (Matcô 9: 2-10), và năm C (Luca 9:28-36) đều nói đến việc Chúa Giêsu dẫn ba môn đệ thân tín là Phêrô, Giacôbê và Gioan lên núi cao cầu nguyện và Ngài ‘biến hình’ trước mặt các ông. Tuy có một vài chi tiết nhỏ khác nhau, nhưng cả ba Thánh Sử đều ghi lại ‘dung nhan Chúa Giêsu biến đổi, sáng láng, áo Ngài trắng tinh tuyền…’; rồi các ông cảm thấy thật hạnh phúc và muốn ‘dựng lều’ để ở lại trên đó luôn. Đặc biệt cả ba Thánh Sử đều ghi lại lời Chúa Cha nói: “Này là Con ta yêu dấu!...” Đây cũng là lời Chúa Cha nói về Chúa Giêsu sau khi Chúa Giêsu chịu Phép rửa của Thánh Gioan Tẩy Giả (Matthêu 3:17). Lời này nhắc đến Thánh vịnh 2,7 “Con là Con Cha, hôm nay Cha đã sinh ra Con!” và lời tiên tri Isaia “Đây là tôi tớ Cha, Ta hài lòng về Người” (Isaia 42:1).

Bài Đọc I trong cả năm A, năm B và năm C đều nói về tổ phụ Abraham. Ông Abraham đã được coi như người Cha của những người có lòng tin nơi Chúa (The Father of Believers). Ông đã tin tưởng tuyệt đối nơi Chúa là Đấng đã gọi ông và ông đã vâng theo lời Chúa, từ bỏ quê hương của mình là đất Ur và ra đi đến nơi Chúa chỉ cho ông là đất Palestine (Năm A: Sáng Thế 12: 1-4). Thiên Chúa đã ký kết với ông một giao ước cho dòng dõi của ông tồn tại và phát triển và được hưởng phần đất Palestine làm gia nghiệp (Năm C: Sáng Thế 15: 5-12, 17-18). Abraham đã thấy rõ tình yêu thiên Chúa đối với ông. Ông luôn luôn tin tưởng nơi Chúa và chấp nhận mọi thử thách, gian nan trong cuộc sống theo Thánh ý Chúa. Cả khi Chúa thử thách ông và bảo ông hy sinh người con trai duy nhất của ông là Isaac cho Chúa, ông đã sẵn sàng ngay (Năm B: Sáng Thế 22: 1-2,9,10-13,15-18). Dù Isaac không bị giết, nhưng tấm lòng của Abraham đã chứng tỏ niềm tin và tình yêu tuyệt đối của ông đối với Chúa, sẵn sàng hy sinh tất cả để đáp trả tình yêu Chúa.

Bài Đọc II (Roma 8: 31-34) nhắc đến tình yêu muôn đời của Thiên Chúa đối với chúng ta; đã tạo dựng chúng ta “theo hình ảnh Chúa”, cho chúng ta vượt xa mọi loài thụ tạo, chúng ta có xác, và cũng có hồn thiêng, được chung hưởng cuộc sống đời đời với Chúa. Hơn nữa, cũng vì yêu thương chúng ta, ‘Thiên Chúa đã hy sinh chính Con một yêu dấu của Ngài để hy sinh đền vì tội lỗi chúng ta!”

“Tình yêu đáp trả tình yêu!”

Mùa Chay là thời gian ‘thuận tiện’ để chúng ta suy gẫm về tình yêu Chúa đối với nhân loại và mỗi người chúng ta. Chúng ta đã làm gì để đáp trả lại tình yêu của Chúa đối với chúng ta. Chúng ta có dám hy sinh tất cả DANH, LỢI, THÚ để sống trọn vẹn cho Chúa, để hoàn toàn tận hiến cho Chúa, dám cùng chết đi với Chúa theo tính xác thịt của chúng ta, từ bỏ tính hư nết xấu, chết đi thật cho tội lỗi để có thể sống lại thật với Chúa trong Mùa Phục Sinh.

Cuộc đời là một thử thách không ngừng qua các lỡ làng, đau khổ hàng ngày, mà bản tính con người lại thích an hưởng, thích ‘dừng lại’ và ‘dựng lều’; nhưng thử thách cứ luôn xảy ra, và mỗi người chúng ta đều “phải chịu nhiều gian khổ mới được vào nước Thiên Chúa!” (Công Vụ Tông Đồ 14,22). Chính Thánh Phêrô cũng muốn ‘dựng lều’ để hưởng hạnh phúc êm đềm khi Chúa ‘biến hình’; nhưng không được, Thày trò phải ‘xuống núi’, phải đối diện với thực tế, với bao gian truân vất vả trên đường truyền giáo, rồi cũng phải chịu khó khăn và chịu chết.

Xin cho chúng ta luôn biết nhìn lên Thập Giá của Chúa, để can đảm “bỏ mình đi, vác thánh giá hàng ngày theo chân Chúa” (Matcô 8, 34…) đến đỉnh núi Gôn-gô-ta, và chấp nhận thử thách cuối cùng là cái chết, ‘chịu táng trong mồ’, để có thể ‘được sống lại và lên trời vinh hiển’, hưởng hạnh phúc đời đời với Mẹ Maria, các Thiên Thần và các Thánh.

 

67.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Lm. Nguyễn Văn Phan

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay cho chúng ta một dịp nhìn lại cá tính và đức tin của Abraham. Lệnh truyền sát tế Isaac, người con duy nhất sinh ra trong lúc tuổi già, thì thật là vượt quá tầm nhìn cách nghĩ của con người và xem ra là phi lý. Sẽ thực hiện ra sao đây lời chúc phúc của Thiên Chúa cho ông làm tổ phụ các dân tộc, nếu không có người con Isaac này? Thiên Chúa đòi hỏi ông hiến tế luôn cái cơ hội sống còn cuối cùng này của ông, đồng thời cũng là cái nền tảng cho niềm tin của ông. Yêu cầu của Thiên Chúa quá đỗi đau thương đoạn trường, nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh truyền ấy. Cần vâng phục Thiên Chúa bất cứ giá nào. Ngay khi ông đang giơ cao con dao để hạ sát con trai, Thiên Chúa đã ngăn cản bàn tay ông và mạng sống của Isaac được dành lại.

Đức tin và lòng vâng phục của Abraham trở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Ông luôn đón nhận lời Chúa và đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, ngay cả những khi đức tin của ông bị thử thách vượt qua mọi giới hạn. Như Abraham ngày xưa, chúng ta được Thiên Chúa kêu gọi lên đường đi đến một vùng đất chưa hề biết, đặc biệt nhiều khi hoàn cảnh chung quanh làm cho đức tin chúng ta trở nên không thể hiểu được, hầu như là vượt khỏi khả năng suy nghĩ của con người. Những lúc khủng hoảng, như cái chết của người thân yêu làm cho cuộc đời trở nên u ám, thì chúng ta lại càng cần tín thác vào Lời Chúa. Chúng ta đang đi nhờ ánh sáng đức tin chứ không phải bằng đôi mắt trần (2Cr 5,7). Một khi chúng ta tin tất cả những gì Chúa nói và Chúa làm, không phải vì chúng ta đã thấy, nhưng chỉ vì Lời Chúa và sức mạnh của Thiên Chúa đang hiện diện trong lòng chúng ta.

Bài Tin Mừng hôm nay mô tả một biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc đời Đức Chúa Giêsu: Biến Hình trên Núi. Các tông đồ đã hoàn toàn bị 'hớp hồn' khi được nhìn thấy vinh quang Đức Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc khải cho biết Thầy của mình là ai: "Này là Con Ta yêu dấu. Hãy lắng nghe Lời Người."

Biến cố hồng phúc hôm nay sẽ giúp các ông chịu đựng đêm tối trong vườn Giệtsêmani, khi phải chứng kiến cơn hấp hối của Chúa Giêsu. Những giây phút vui vẻ khi mọi sự đều hòa hợp "đâu vào đấy" thì rất hiếm hoi và họa hoằn "năm thì mười họa". Không ai có ý bảo chúng ta phải ngồi đó mà trông chờ Chúa Biến Hình, nhưng chúng ta được kêu mời theo chân các tông đồ leo lên núi, tiếp tục suy tư sứ điệp ẩn tàng trong Lời Chúa và thực tâm sống sứ điệp ấy với lòng xác tín sâu xa. Chỉ qua khổ nạn và cái chết, Đức Kitô mới đi vào trong vinh quang phục sinh. Nếu Người biến đổi thân xác đầy thương tích của chúng ta và làm cho chúng ta rập khuông với thân xác vinh hiển của Người, thì con đường chúng ta đi chính là con đường thương khó của riêng Chúa thôi.

Biến cố Biến Hình hôm nay nói với chúng ta không chỉ về những giai đoạn thử thách và khổ đau của chúng ta mà còn về vinh quang tiềm tàng dành sẵn cho chúng ta, với điều kiện là chúnt ta luôn luôn đi theo con đường của Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông, không bao giờ ngã lòng thất vọng.

Mùa Chay cho chúng ta một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình với những an toàn giả tạo mà chúng ta cứ khư khư ôm lấy không chịu vất bỏ trên con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng một cuộc sống mà không duyệt xét lại thì không đáng sống. Để cho Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng ta trở thành những người dễ thương, quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết đi cho những lối sống của thế gian bằng cách hy sinh và từ bỏ chính mình. Có lẽ không ai trong chúng ta sẽ được kêu gọi hiến tế đứa con duy nhất như Abraham xưakia, nhưng phần đông chúng ta được kêu gọi quay lưng lại với tính ích kỷ của mình và tránh xa những lời nói việc làm gây bất an trong gia đình hay đầu độc cuộc sống cộng đồng. Để thắng vượt những yếu hèn tội lỗi và trở nên con người trưởng thành chín chắn, chúng ta cần kiên nhẫn và nỗ lực suốt đời người, vì không có gì đáng giá mà lại đơn giản và dễ chiếm đoạt.

 

68.Hãy lắng nghe--Rolland Dionne

Tha hồ lựa chọn.

“Hãy hoán cải, hãy tin vào Tin Mừng”. Lời mời gọi này, Chúa Giêsu còn nói với chúng ta hôm nay như Ngài đã nói với thính giả xứ Galilê vào lúc khai mạc công trình rao giảng. Phải chăng đó chỉ là tiếng kêu trong sa mạc? Chúng ta còn tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa, như Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta không?

Sự lựa chọn mà đức tin đòi hỏi không phải là điều dễ dàng. Sự lựa chọn này khó khăn bởi vì nó sẽ mang đến nhiều điều hệ lụy và đưa chúng ta vào những tình huống không thể thoái lui được. Có vô số những vị “giảng đạo” xuất hiện trước cửa nhà chúng ta và lui tới trong các khu xóm của chúng ta. Các giáo phái phát triển mỗi ngày một nhiều. Những kẻ tuyên truyền nói hay đến nỗi họ có thể hoán cải cả quỉ dữ nữa và nhất là khéo léo gieo nghi ngờ vào lòng những người xác tín nhất. Ta tự hỏi: Phải tin gì đây? Phải nghĩ gì đây? Ai là ngôn sứ thật? Ai có thể nói cho chúng ta biết điều này?

Tầm quan trọng của việc lắng nghe.

Một trong những nỗi bất ổn lớn nhất của thế giới chúng ta, đó là thiếu sự lắng nghe. Lắng nghe, hiện nay là cách điều trị tốt nhất đối với nhiều người. Trong mùa chay này, chúng ta được mời gọi lắng nghe: “Đây là Con chí ái của Ta, hãy lắng nghe lời Ngài”. Theo Thánh Kinh, lắng nghe không phải chỉ là nghe bằng tai nhưng là để cho mình được uốn nắn, giáo dục, hoán cải. Thiên Chúa nói về những người chống lại luật của Ngài: “Chúng không nghe lời Ta”.

Cũng như những kẻ được chứng kiến cuộc biến hình, chúng ta được mời gọi lắng nghe, được mời gọi đi vào sự biến hình của Chúa Kitô. Lắng nghe Chúa Kitô phải dẫn đưa chúng ta đến chỗ thay đổi sâu xa. Chúng ta được mời gọi chấp nhận cả một chương trình sống. Những đòi hỏi triệt để của phép rửa phải được thực hiện không thể còn chỗ cho sự tầm thường hoặc nguội lạnh nữa.

Kẻ lòng Ta ưu ái.

Một khẳng định không chút do dự, không chút giảm thiểu: “Đây là Con Một Ta ưu ái. Hãy lắng nghe lời Ngài”. Trong tất cả các ngôn sứ đây là vị ngôn sứ thật. Có lẽ đây không phải là Đấng mà các ngươi đã mơ ước, nhưng đó là ngôn sứ của Ta. Đó là ngôn sứ của Ta bởi vì Ngài đến để giải thoát và cứu độ. Chính Ngài mặc khải tư tưởng của Ta và có thể thông truyền sức sống của Ta. Chỉ mình Ngài đáng tin cậy, bởi vì Ngài là người duy nhất đã thể hiện dự tính của Ta về thế giới. Các ngươi hãy chọn Ngài.

Việc lựa chọn bao giờ cũng kéo theo những đòi hỏi. Trong mùa chay này chúng ta được mời gọi chiến đấu với sự dữ nơi chúng ta và xung quanh chúng ta. Con đường mà chúng ta phải theo là con đường giúp chúng ta tái sinh. Làm điều lành, thực thi bác ái huynh đệ và đặc biệt hơn nữa thương yêu những kẻ bé mọn, đó phải là những ưu tiên và phải dẫn đưa chúng ta vào đường hoán cải để làm cho chúng ta trở nên những kẻ “được ưu ái”.

Tin tưởng.

Chương trình dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu là chương trình đòi hỏi nhất. Vài tuần lễ thật quá ngắn đối với chương trình của cả một đời người. Thiên Chúa của chúng ta có vẻ như là một Thiên Chúa khắt khe và nhỏ nhen. Thực ra nếu Ngài đòi hỏi, là bởi vì Ngài thương yêu chúng ta. Ngài đòi hỏi nhiều, nhưng Ngài cũng hứa cho chúng ta những điều tuyệt vời nữa.

Về phía Ngài, Ngài ban cho chúng ta mọi sự cả đến sự sống của Ngài nữa. Không những Ngài sẽ ban sự sống ấy cho chúng ta sau khi chúng ta chết đâu, nhưng ngay ở trần thế này. Việc tuyên xưng đức tin vào đêm vọng Phục Sinh giúp chúng ta tìm lại được sự sống ấy.

Chúng ta có sẵn sàng chết một cách nào đó để sống lại tốt hơn không? Chúng ta có sẵn sàng “lắng nghe” không? Có sẵn sàng để cho lời Chúa uốn nắn chúng ta và sống theo lời Ngài dù lời ấy có vẻ vô lý không? Hãy để Thiên Chúa thực hiện dự án của Ngài nơi mỗi người chúng ta và chúng ta sẽ có quyền được gọi là “Con yêu dấu”.

 

69.Điều quan trọng là biết nghe Chúa Giêsu--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest

Để có thể minh định vị trí cách xác đáng trong trí chúng ta đoạn Phúc Âm về sự Biến hình này của Chúa, chúng ta hãy nhớ lại, những tâm tư nào có thể có nơi các môn đệ là các Tông đồ tương lai khi Chúa Giêsu loan báo cho họ lần đầu cuộc khổ nạn của Người. Là người dân Do Thái tốt như họ, các môn đệ Chúa cũng chia sẻ niềm hy vọng chung của dân Israel. Họ hy vọng một Đấng Cứu Thế toàn thắng và vinh quang. Nhưng đến một lúc mà Chúa thách đố họ hãy có một hành động đức tin. Nhân danh họ, Phêrô nhìn nhận Người là Con Thiên Chúa. Nhưng sự tuyên xưng ấy chưa bao trùm được hết tất cả số mệnh của Chúa Giêsu. Phêrô tuyên xưng đức tin vào CON NGƯỜI của Chúa Giêsu, song Phêrô không tưởng tượng nổi là Thiên Chúa lại có thể trải qua thảm kịch cuộc Khổ nạn. Thành thử cần phải gợi lên dần dần trong trí óc các môn đệ sự mạc khải điều mà dưới con mắt họ, sẽ là một gương xấu khủng khiếp, một sự thử thách rất lớn lao cho đức tin của họ. Cũng cần phải củng cố đức tin họ trước. Giai thoại Biến hình tượng trưng một thời kỳ quan trọng trong việc giáo dục các môn đệ. Đây là những con người đang chờ đợi một Đấng Cứu Thế vinh quang. Vậy mà Chúa Giêsu lại mạc khải cho họ biết rằng Chúa Cứu Thế là người Tôi tớ đau khổ và bị hạ nhục. Làm cách nào giúp họ vượt lên được khỏi sự trái ý họ cảm thấy? Chúa Giêu muốn giúp họ điều này bằng cách cho họ thấy là Con Thiên Chúa, mặc dầu chịu đau khổ, sẽ được vinh quang. Và đó là việc Chúa Biến hình hôm nay.

Chúng ta ghi nhận rằng cho đến cùng các môn đệ vẫn còn vấp phải gương xấu của cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu. Cần phải có sự Sống lại và ngày lễ Ngũ tuần họ mới thực hiện được những gì mà Thiên Chúa muốn nơi Con Chí Ái của Người.

Chúng ta hãy lưu ý điều này:

1) Đây là Con Chí Ái của Ta.

Điều quan trọng là vào một lúc trang nghiêm Chúa Cha lên tiếng quả quyết rằng Chúa Giêsu là con người mà các môn đệ bắt đầu đi theo quả thật là Con của Ngài. Chúng ta đừng tưởng tượng rằng: vào giây phút đó, các môn đệ quan niệm tiếng ‘Con’ như chúng ta quan niệm ngày nay, vì ngày nay chúng ta đã được biết mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Họ nhận ra là qua Chúa Giêsu, Thiên Chúa tỏ mình ra và hành động. Họ linh cảm thấy Chúa Giêsu có một nguồn gốc và số mệnh vượt xa các giới hạn loài người. Tiếng từ Trời phán: này là Con Ta yêu dấu, điều đó cũng có nghĩa là Con duy nhất. Họ nhận ra cách sâu sắc giữa Thiên Chúa và Chúa Giêsu có mối tương quan phụ tử thật là độc đáo. Họ ý thức rằng Chúa Giêsu tuỳ thuộc vào Thiên Chúa, đặc mệnh như một người Con. Tiếng lại phán thêm: Hãy nghe lời Người. Trong trí óc các môn đệ là những người đang mong đợi Đấng Cứu thế, mấy tiếng đó có nghĩa là: Hãy nghe lời Người như lời đáp lại sự chờ mong của các ngươi vào Đấng Cứu Thế, ở cả những ngày mà Người trải qua thảm kịch Khổ nạn.

2) Hãy nghe Lời Người.

Lời huấn dụ đó (hay mệnh lệnh đó) từ trời cao cũng ngỏ cùng chúng ta ngày hôm nay. Nhưng hiện giờ mỗi người trong chúng ta đều đã biết những phản kháng của bản tính con người chống lại lời mời gọi hãy theo Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Chúng ta đều biết rằng, qua Chúa Giêsu, số phận chúng ta là một số phận quang vinh, nhưng Thiên Chúa buộc phải giáo dục chúng ta như những người môn đệ và đưa chúng ta dần dần vượt qua chướng ngại vật của sự đau khổ và sự chết. Thỉnh thoảng Người trợ lực chúng ta trong công cuộc này, bằng cách ban cho chúng ta những giây phút hoan lạc nội tâm, nó có tác dụng biến đổi đức tin của chúng ta. Nói chung thì những giây phút ấy khá hoạ hiếm. Điều quan trọng là chúng ta biết ‘nghe’ Chúa Giêsu. Chúng ta có thực hiện được điều mà Người trả lời cho tất cả những thắc mắc, chờ mong, ước muốn sâu xa nhất của chúng ta không?

Sự Biến hình của Chúa được các Phúc âm trình bày như một giai đoạn trong tiến trình của Chúa tới Giêrusalem, nơi mà Chúa sẽ phải chết và sẽ Phục Sinh. Trong nhịp độ cuộc Khổ nạn và Vinh quang đánh dấu cho những bước đi của Chúa tiến tới đích, sự Biến hình là một âm điệu khải hoàn. Nhưng Chúa Giêsu không dừng lại ở đây. Người tiếp tục đến cùng con đường của Người. Trên đường đời mà dần dà mỗi ngày chúng ta một đi sâu vào, chúng ta cũng ý thức được cho chính chúng ta, nhịp điệu khổ nạn và vinh quang, thử thách và hy vọng. Gương mẫu nào, sức mạnh nào sẽ giúp chúng ta đi đến cùng? Chúng ta hãy “NGHE” Chúa Giêsu; Đấng đi trước chúng ta, dìu dắt chúng ta đến sự biến hình bất diệt của chúng ta.

 

70.Chúa tỏ vinh quang Ngài--Noel Quesson

“Đừng kể lại cho ai nghe… cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại”.

Đức giám mục Curtis một lần tới thăm Đức hồng y Newman. Hai người đàm đạo lâu giờ về đủ thứ chuyện. Đức hồng y Newman cho Đức giám mục Curtis biết: Tòa Thánh đã cho ngài đặc ân được đặt Mình Thánh trong phòng. Không ngờ tin này làm Đức giám mục Curtis xúc động mạnh, đến nỗi khi Đức hồng y mời Đức giám mục Curtis ở lại ban đêm, ông trả lời: “Tôi không thể nào ngủ được khi biết Chúa của tôi đang ở với tôi chung một mái nhà”.

Đã hẳn bao giờ Thiên Chúa cũng ở bên ta vì Người là Thiên Chúa toàn năng hiện diện khắp nơi, nhưng một khi chúng ta ý thức điều đó, một khi có bằng chứng nhắc nhớ tới sự kiện đó, thì thường làm ta xúc động mãnh liệt. Ta biết điều này khi đọc thấy thái độ của các Tông đồ được chứng kiến Chúa tỏ vinh quang. Chúa là niềm vui tột đỉnh, là an ủi tràn đầy cho các tâm hồn. Và có thể định nghĩa thiên đàng là sự ý thức rõ ràng mình được sống bên sự hiện diện của Thiên Chúa. Nhưng muốn thưởng thức niềm hân hoan đó, niềm hân hoan làm các Tông đồ hầu như ngất ngây đó, chúng ta phải có một số điều kiện.

Trước hết ta cần bắt chước các Tông đồ lên một đồi cao. Khi lên cao chúng ta dễ có ý thức siêu thoát hơn. Vì vậy hầu hết các cuộc xuất hiện quan trọng của Thiên Chúa trong Kinh Thánh đều xảy ra trên núi cao. Không nhất thiết phải là một đỉnh núi, nhưng chắc chắn phải là sự vươn lên của tâm hồn, tránh được sự ám ảnh, vương vấn của cuộc đời trần tục. Cần có một đỉnh cao nội tâm, gắng đạt tới những chân trời xa rộng. Muốn vậy phải rời bỏ thung lũng thấp, cố gắng đi xa, chịu đựng gian khổ, ngột ngạt của độ cao… và tránh đám đông ồn ào gây nhiễu.

Chúa cho ba Tông đồ chứng kiến Chúa biến hình: Phêrô, Giacôbê và Gioan. Đây không phải tình cờ. Khi làm phép lạ cho bé gái 12 tuổi đã chết được sống lại, Chúa cũng đưa ba Tông đồ này theo để các ông được chứng kiến (Mc 5,37). Cũng chính ba ông là những người gần gũi Chúa khi Chúa cầu nguyện và hấp hối trong vườn Cây Dầu (Mc 14,33). Chúa cho ba ông chứng kiến quyền uy Thiên Chúa của Người và cũng được thấy nỗi khổ đau của nhân tính Chúa, để các ông thành chứng nhân cho niềm tin của mình và của anh em.

Một điều kiện nữa để thành môn đệ gần gũi của Chúa đã được chính Thiên Chúa Ngôi Cha phán bảo: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy nghe lời Ngài”. Đây là lần thứ hai có tiếng từ trời phán xuống, nhưng lần này rõ ràng tiếng đó nói với chúng ta. Là môn đệ Chúa, thì phải nghe lời Chúa. Nghe lời Chúa trong Kinh Thánh, trong tìm tòi suy luận, nhưng nhất là trong Kinh Nguyện một mình riêng rẽ đối diện với Chúa nơi thanh vắng. Môn đệ của Chúa cần thiết phải được Chúa đích thân dạy dỗ, mặc khải cho.

Sự biến hình, bộc lộ đôi chút vinh quang Thiên Chúa, làm vui thỏa tâm hồn các môn đệ. Khi xuống núi, Chúa dặn các ông đừng kể lại với ai ‘cho tới khi Con Người từ cõi chết sống lại’. Vì Chúa biết rằng chỉ sau cái chết và Phục Sinh của Chúa, các ông mới hiểu rõ về Chúa. Khuôn mặt đích thực của Chúa Cứu Thế chỉ biểu lộ đầy đủ khi đã chết trên thập tự chứng tỏ tình yêu đối với nhân loại và sống lại khải hoàn do quyền lực Thiên Chúa.

Lạy Chúa, xin mở mắt lòng tin chúng con, cho chúng con được nhìn thấy Ngài luôn hiện diện trong cuộc sống chúng con.

 

71.Cuộc biến hình--Jacques Hervieux

Quang cảnh rực rỡ đang diễn ra đã tỏa lan trên bầu khí nặng nề ngự trị trong Phúc âm kể từ khi Chúa Giêsu loan báo về cái chết không thể nào tránh được của Ngài (8,31 và tiếp theo). Đây giống như một giai đoạn tạm nghỉ được dành cho Thầy trò trên bước đường dấn thân vào cái chết. Chúa Giêsu mang theo Ngài ba môn đệ được Ngài yêu chuộng nhất (c. 2). Chỉ ba người này được theo Ngài vào căn phòng em bé gái được Chúa Giêsu làm cho sống lại (5,37-43). Và cũng chỉ ba người này là những nhân chứng đặc biệt trước cơn hấp hối của Thầy (14,33-34). Sở dĩ Chúa Giêsu cho họ tham dự vào những cuộc mạc khải then chốt là vì họ được kêu gọi để trở nên cột trụ cho Giáo Hội Ngài. Việc tách các môn đệ này riêng ra để đến một chốn rất xa cho chúng ta đoán được ý định của Chúa Giêsu sẽ mạc khải cho họ một điều bí mật sâu xa nào đó. Truyền thống cho rằng Chúa Giêsu và ba môn đệ này đã leo lên ngọn núi Taborê, một ngọn núi nhỏ bé ở Galilê, không xa Nadaret bao nhiêu. Tuy nhiên cách xác định vị trí này mãi đến thế kỷ thứ ba mới thấy. Ngoài ra địa danh này không phù hợp với chuyến du hành mạn bắc vào ngay vùng dân ngoại (8,27). Chính vì thế theo các nhà chuyên môn, đúng hơn đây là núi Hermon, ngọn núi đồ sộ cao tới 2760 mét phủ đầy tuyết rất gần vùng Cêsarê Philipphê là nơi Chúa Giêsu được coi như đang có mặt.

Dù sao thì ở đây, Maccô cũng ít quan trọng đến địa lý hơn là thần học. Như người ta sẽ thấy, đối với Maccô, “ngọn núi cao” này nhắc nhở đến ngọn núi Sinai thời xuất hành là nơi Thiên Chúa đã gặp gỡ Môsê cách rất đỗi thân mật (x. Xh 24,12-18). Quả thực, trình thuật này đang dẫn chúng ta đến cuộc hiển linh của Chúa Giêsu (c. 2c). Trong một giây phút chói lòa, vị Sư Phụ đã biến hình trước mắt các đệ tử mình. Người ta chợt nghĩ ngay đến hiện tượng liên quan đến Môsê: “Da mặt ông tỏa sáng” sau khi được trực kiến Thiên Chúa trên núi Sinai (Xh 34,29-35).

Hoàn toàn tự nhiên khi Maccô nhờ đến các hình ảnh Thánh Kinh để mô tả biến cố xảy đến cho Chúa Giêsu (c. 3). Như chúng ta đã biết, nơi người Sêmit, y phục một người tượng trưng chính bản thân người đó. Y phục Ngài tỏa ra rõ nét trắng toát mà loài người không thể có. Y phục màu trắng báo hiệu ánh sáng quang vinh thần thánh nơi các thiên sứ (16,5) hay nơi những kẻ được chọn (x. Kh 3,5).

Đối với các môn đệ này, cuộc thị kiến đầy kinh ngạc về tình trạng “quang vinh” của Chúa Giêsu lại còn được bổ sung thêm bằng việc xuất hiện của Êlia và Môsê (c.4). Hai nhân vật lẫy lừng này đến đây làm gì? Môsê là cha đẻ của Lề Luật Do Thái. Chính trong sự hiện diện đầy uy nghi của Thiên Chúa trên núi Sinai mà Môsê đã tiếp nhận Lề Luật (x. Xh 19 và 20). Và bốn thế kỷ sau, Êlia cũng đã hành hương lên chính ngay núi thánh Sinai để gặp gỡ Thiên Chúa hằng sống (x. IV 19,1-13). Những nhà lãnh đạo của dân riêng Chúa được truyền thống Do Thái xem như vẫn hiện đang sống trong VINH QUANG: Môsê thì với tư cách nhà làm luật vĩ đại của Israel, còn Êlia là khuôn mặt dẫn đầu trong số các tiên tri. Ở đây, cả hai hội tụ lại, họ tượng trưng cho Lề Luật và các tiên tri, điều này bao hàm ý nghĩ toàn bộ Kinh Thánh đều ủng hộ Chúa Giêsu. Đàm đạo với hai vị này, Chúa Giêsu muốn minh chứng rằng nơi bản thân Ngài đã hoàn tất mọi lời hứa về Đấng Mêsia.

Mãi đến lúc này, bị quang cảnh khác thường đột nhiên xảy đến, các môn đệ đều ngậm câm. Giờ đây, nhân danh họ, Phêrô mới dám ngỏ lời với Chúa Giêsu (c.5). Ông gọi Chúa bằng “Thầy” (Rabbi) nghĩa là vị Thầy mà ông phải tuân theo mọi lời giáo huấn. Phêrô muốn nói cho Thầy mình niềm hạnh phúc mà ông và các bạn đang cảm nhận khi được tham dự vào lễ hội thiên quốc này. Tuy nhiên phải chăng phản xạ của Phêrô quá ư trần tục? Không phải là ông muốn lôi kéo dài giây phút hạnh phúc khôn lường này sao? Ở đây việc Phêrô đề nghị dựng lên ba lều cho Chúa Giêsu và hai vị khách thiên quốc có lẽ nhằm mục đích ám chỉ đến “lễ lều” của Do Thái. Vào mùa thu, tức mùa hái nho, người ta thường dùng các cành cây dựng lên trong vườn nho những chiếc chòi nhỏ với niềm hy vọng mãnh liệt sẽ được đón tiếp Đấng Mêsia ở đây (x. Lv 23,33-36). Tuy nhiên như thường thấy xảy ra trong các Phúc âm, ở đây Phêrô bị lầm. Ông ta không nắm bắt được ý nghĩa sâu xa của biến cố ông được trải qua. Vả lại bản văn cho thấy Phêrô hoàn toàn không ý thức gì về lời đề nghị của mình (c. 6). Maccô ghi nhận nỗi kinh hoàng của các môn đệ trong trường hợp quá khác thường này. Có vẻ như Phêrô đã thử “làm quen” với một hiện tượng thần linh vượt quá tầm hiểu biết của mình…

Chính lúc này một thị kiến bổ túc mới có thể hướng dẫn độc giả hiểu được toàn bộ sự cố (c. 7a). “Đám mây” được mượn trực tiếp từ sách Xuất hành (được Maccô cố ý khai thác trong toàn bộ đoạn này). Trong bước đường gian khổ nơi vùng hoang mạc, dân Chúa chọn đã được một cụm mây sáng lòa hướng dẫn (x. Xh 13,21 và tiếp theo). Đám mây thần thánh này được người xưa mượn từ hiện tượng phong nhiêu của bão tố để ám chỉ việc Thiên Chúa kề cận dân Ngài. Đây là một hình ảnh tuyệt hảo nói lên sự hiện diện của Thiên Chúa với loài người, vừa ẩn khuất mà lại vừa hiển lộ. Đây là trường hợp Thiên Chúa trao ban một sứ điệp quan trọng: “Chính Ngài là con yêu quý của Ta” (c.7b). Thật thú vị khi ghi nhận rằng những lời này được Thiên Chúa ngỏ với các môn đệ. Với vài thay đổi nhỏ nhặt, những lời này lặp lại những lời đánh dấu cuộc tấn phong Chúa Giêsu vào lúc Ngài chịu phép rửa (x. 1,11). Vào lúc đó, Thiên Chúa Cha đã để cho Chúa Giêsu đăng quang trong sứ mệnh làm Đấng Mêsia. Giờ đây, sau khi đón nhận ra thân thế Mêsia của Thầy mình (8,29), Phêrô và các môn đệ còn phải đón nhận mầu nhiệm sâu thẳm hơn nữa về thân thế Ngài. Bởi vì Ngài là Đấng Mêsia nhưng đồng thời còn là “Người Con rất yêu dấu” của Chúa Cha nữa.

Như thế giọng nói từ trời khích lệ các môn đệ tiếp tục bước theo con đường họ đi trong đức tin để khám phá được trọn vẹn thân thế Chúa Giêsu. Đó là ý nghĩa sâu xa của biến cố mà họ vừa trải qua. Tuy nhiên phải thêm rằng trọng điểm của trình thuật này xem ra hệ tại nơi các từ ngữ sau: “Hãy nghe lời Ngài” (c.7c). Lời mời gọi ngắn gọn này nhắm tới điều mà Chúa Giêsu mới nói với các môn đệ Ngài (8,31-33). Như người ta đã thấy: Phêrô đã chống lại như một con quỷ dễ thương trước những viễn cảnh bi đát mà Thầy vừa mới hé lộ. Chắc chắn các môn đệ rất phiền não khi phải “nghe” Chúa Giêsu xác định điều này. Giờ đây một khi vừa được trông thấy –như một ánh chớp lòa- Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, đồng thời cuối cùng Ngài sẽ lãnh nhận được số phận quang vinh bên kia cái chết thì liệu họ có giữ được niềm hy vọng và tiếp tục bước theo Thầy mình trên con đường thập giá không?

Câu cuối cùng diễn tả tình trạng trở lại bình thường khá tê tái (c.8). Maccô cố ý nhấn mạnh: đối với những kẻ theo Ngài, cuộc biến hình của Chúa Giêsu sẽ chỉ là một phút hồng ân “ngắn ngủi” để nâng đỡ đức tin của họ trên bước đường gian truân. Rõ ràng biến cố trên đây đã được Maccô đọc lại dưới ánh sáng của cuộc Phục Sinh và của Kinh Thánh. Ông nhằm nâng đỡ lòng trông cậy của các Kitô hữu Rôma đang chịu khổ đau và chết chóc vì cơn bách hại.

 

72.Chúa Nhật 2 Mùa Chay--Noel Quesson

Sáu ngày sau, Đức Giêsu đem các ông Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo mình

Maccô không nói phải dựa vào sự kiện nào để tính “sáu ngày" trên. Một lần nữa, sự thiếu chính xác này cho ta thấy, không nên đọc Tin Mừng theo cách thông thường. Đối với người Do Thái, đối với mọi người đã làm quen với Kinh thánh, thì "sáu ngày" trên chỉ là một kiểu nói thần học. Đó là thời gian cần thiết để con người thanh tẩy trước khi đến gần Thiên Chúa: "Sáu ngày sau, từ giữa đám mây, trên núi Sinai, Thiên Chúa mới gọi Môsê" (Xh 24,16). Chúng ta hãy lưu ý những từ: "sáu ngày"... "Môsê"... "đám mây"... "núi "... Trình thuật của Maccô cũng được dệt bằng những hình ảnh Kinh thánh như thế. Nhưng còn mang ý nghĩa hơn: Có phải là ngẫu nhiên mà “Lễ lều tạm" (Yom Sukkôt) tại Israel lại xảy ra sáu ngày sau "Lễ xá tội" (Yom Kippour) không? Vì thế Lễ lều tạm là lễ người ta dựng những lều bằng cành lá, làm nới trú ẩn mỏng manh trong thời gian lang thang nơi hoang địa, tượng trưng cho sự mỏng dòn của con người trên bước hành trình về Miền Đất Hứa. Sau này Phêrô cũng muốn dựng một nhà trú, một lều tạm.

Phêrô, Giacôbê và Gioan

Đức Giêsu không mời gọi tất cả các môn đệ, nhưng chỉ chọn có ba ông! Chi tiết đó cũng không phải là một ngẫu nhiên, mà nếu đọc qua ta có thể không để ý đến. Chính ba" môn đệ này đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm bồi sinh bé gái 12 tuổi (Mc 5,37), và chính ba ông này sẽ chứng kiến cơn hấp hối của Người tại Ghét-sê-ma-ni (Mc 14,83).

Họ có phải là những con người được đặc ân không? Không phải vậy. Họ chỉ là ba con người sống những cảm nghiệm đặc biệt, để có khả năng nâng đỡ đức tin cho kẻ khác. Tại sao ta lại hay so bì và ghen tị? Mỗi người chúng ta cũng đều nhận được một ân riêng, độc nhất; ơn đó không chỉ dành riêng cho mình, nhưng để thông truyền cho kẻ khác.

Chỉ có ba ông, đi riêng với Người, lên một ngọn núi cao...

Đó là những điều kiện theo truyền thống Kinh thánh, để "gặp gỡ Thiên Chúa". Một đầu óc hiện đại có thể phản ứng lại. Thiên Chúa ở khắp nơi mà! Tại sao cứ phải bày vẽ ra như thế? Đúng vậy! Nhưng chúng ta là loài có thân xác nên không thể tránh bỏ một số những biểu tượng. Riêng tôi; tôi thấy hình ảnh đó thật đẹp và rất hùng hồn: Nào ta hãy tiến lên với "Thiên Chúa" (Xh 24,1-34,2; 1V 18,20-19,8-11). Bạn hãy đứng trên núi! Hãy tạo lập cho bạn một núi trong i.âm hồn, một đỉnh núi cô tịch và diện kề với Chúa. Hãy biết tận dụng những chân trời mở rộng! Bạn sẽ không khi nào nhìn thấy những chân trời đó, nếu không chấp nhận rời bỏ thung lũng, nương theo nhưng con đường mòn mà leo cao, nếu không chịu khổ nhọc lâu dài, thả dốc trên những đỉnh cao trước không khí loãng nhạt và gay gắt nếu không chịu tách xa đám động dân chúng.

Và Người biến đồi hình dạng trrớc mắt các ông

Khi con người cố diễn tả những tương quan giữa Thiên Chúa và thế gian, họ luôn bị dao động giữa hai do dự, hai quan niệm:

Một quan niệm "bi quan": Cần phải tiêu diệt thế gian để nhận thấy Thiên Chúa. Ta có thể gọi quan niệm đó là quan niệm của Thánh Au tinh, Luther và phái Tin lành phục hưng cách mạnh mẽ.

- Một quan niệm "lạc quan": Chính "thế gian này" là Nước Thiên Chúa. Người ta đề cao giá trị của con người và thế giới và làm giảm nhẹ ảnh hướng của Thiên Chúa. Đây có thể là cơn cám dỗ của người Công giáo, thường biến Giáo Hội trở nên một cái gì tuyệt đối, là Nước Trời đã đến.

- Nhưng cũng có một "quan niệm thứ ba biến dạng" Vâng, xác thịt là tốt và thân xác là do Thiên Chúa muốn tạo ra. Vâng, thế gian là tạo vật của Chúa, nhưng đó chỉ là "hình ảnh", là "họa ảnh" tương tự của Thiên Chúa. Để thực sự tốt hẳn, thế gian không cần bị "tiêu diệt", nhưng cần được "biến dạng". Trên núi, Đức Giêsu không để một ánh sáng từ ngoài rọi chiếu vào, nhưng chính Người, trong thân xác Người, đã là ánh sáng. Và tất cả những gì là xác thịt trong ta, cũng phải trở nên ánh sáng, trong suốt, tinh thần. Bên Phương Đông thuộc Chính thống giáo, lễ Biến Hình là đại “Lễ", Lễ tôn kính Hình tượng, Con người được Thiên Chúa xuyên qua. Trong thời kỳ tập sự, không chỉ nhắm học một "kỹ thuật", người họa sĩ hình tượng trước hết phải về một ảnh Đức Giêsu biến hình, để chứng tỏ anh ta có khả năng vẽ được một khuôn mặt người – hình ảnh - của Thiên Chúa hay không. Đó là cả một quan niệm về cuộc đời, về xã hội loài người, về Giáo Hội, về phụng vụ mà mục đích là giúp ta rập theo đúng khuôn Đức Giêsu. Nếu những cách nhìn này có vẻ làm chúng ta choáng váng, thì có lẽ chúng ta phải khám phá ra ý nghĩa đích thực của Phép rửa, bí tích đã "dìm" ta trong Đức Kitô, đã làm cho ta được "tham dự vào bản tính của Thiên Chúa" (2 Pr 1,4). Đúng ra, toàn diện đời sống Kitô hữu chúng ta chỉ là một sự thông phần, một biến hình trong Đức Kitô. Tất cả chúng ta, mặt không che màn, chúng ta phản chiếu vinh quang của Chúa như một bức gương. Như vậy, chúng ta được biến đổi nên giống cũng một hình ảnh đó, ngày càng trở nên rực rỡ hơn, như cao bởi tác động của Chúa là Thần khí" (2 Cr 3,18).

Chắc chắn, ở dưới trần gian này, mầu nhiệm phi thường đó - nghĩa là sự biến đổi thực sự con người trong Thiên Chúa vẫn không thể thấy đọc. Tuy nhiên, sự biến hình của ta đã đạt được, dù còn bí ẩn, nhưng một ngày nào đó sẽ bùng tỏa ra: "Sự sống mới của anh em hiện đang tiềm tàng với Đức Kitô nơi Thiên Chúa. Khi Đức Kitô, nguồn sống của chúng ta xuất hiện, anh em sẽ được xuất hiện với Người, và cùng Người hưởng phúc vinh quang" (Cl 3,3-4).

Y phục Người trở nên rực rỡ, trắng tinh, không có thợ nào ở trần gian giặt trắng được như vậy.

Đừng coi thánh Phêrô và thánh Maccô, thư ký của ông, lại ngây ngô hơn ta. Đó là những con người rất thực tế những kẻ bình dân, không phải là các nhà trí thức. Các ông mới biết mở miệng, nhưng chưa biết phải nói thế nào về cảm nghiệm phi thường đã "xảy đến" cho mình. Như thế cả chúng ta nữa, ta cũng không nên dừng lại ở mức độ sơ đẳng là "giặt sạch nhất", "trắng nhất". Vấn đề không nằm ở yếu tố đó.

Một lần nữa, chúng ta đang nằm trong lĩnh vực ngôn ngữ Kinh Thánh biểu tượng: Màu trắng là màu của thế giới trên trời và không gì ở trần thế so sánh được. Đó là màu của thiên sứ hiện đến lúc Phục sinh (Mt 28,3), lúc Chúa lên trời (Cv l,10). Đó là màu của những kẻ chiến thắng (Kh 3,4.20). Ao trắng khi chịu phép rửa, lúc tuyên xưng đức tín, áo trắng của cô dâu, áo trắng của linh mục lúc dâng lễ đều lấy lại hình ảnh biểu tượng này. "Anh em được mặc lấy Đức Kitô" (Gl 3,27). "Cái thân sẽ chết này sẽ mặc lấy sự bất tử" (l Cr 15,53). "Anh em hãy cởi bỏ con người cũ để mặc lấy con người mới" (Cl 3,10).

Ông Êlia cùng Môsê hiện ra đàm đạo với Đức Giêsu.

Môsê và Elia tượng trưng cho sự mong đợi của Israel được ghi trong "lề luật" và các "ngôn sứ". Chúng ta cũng! cần ghi nhận, họ không chỉ là những nhân vật đứng ra “làm vì". Đó là khuôn mặt tiêu biểu, đã chết trước đó nhiều thế kỷ mà lại hiện diện đồng thời với Đức Giêsu và đang nói chuyện với Người. Họ đang liên hệ sống động với Chúa. Đó là thứ ánh Sáng chiếu trên cuộc sống bên kia thế giới. Anh Sáng chiếu tỏa trên những người quá cố của chúng ta. Cái chết thay vì là kết điểm. Có phải là một "cửa ngõ" dẫn chúng ta vào thế giới của Thiên Chúa không?

Trong Cựu ước Môsê và Êlia là hai nhân vật vĩ đại đã được Thiên Chúa mạc khái cho "trên núi". Và truyền thống Do Thái vẫn mong đợi hai vị trở lại vào lúc kết thúc thời gian chuẩn bị cho Đấng Mêsia đến (Mt 3,22-24). Vả lại theo thánh Maccô, thì đó cũng là câu hỏi mà các môn đệ đã đặt ra cho Chúa Giêsu, ngay sau khi diễn ra quang cảnh trên (Mc 9,11-13).

Cùng với Đức Giêsu, thời cánh chung đã khởi sự.

Bấy giờ ông Phêrô thưa với Đức Giêsu rằng: “Thưa Thầy, chúng con ở đây hay quá! Chúng con xin dựng ba cái lều”. Thực ra, ông không biết phải nói gì, vì các ông sợ quá.

Một lần nữa, Phêrô lại đóng vai phát ngôn viên. Chính ông, trước đó vài hôm, lúc ở Xêdarê đã nhân danh cả nhóm 'tuyên xứng đức tin" (Mc 8,27-33). Chính ông đã đóng vai satan cám dỗ Đức Giêsu khước từ thập giá (Mc 8,33). Hôm nay, ông vẫn chưa hiểu hơn gì. Đó là một “người chứng" không vẽ vời điều gì thêm. Các biến cố xảy đến cho ông, đều mang tính cưỡng ép, trái với ý ông. Sau này, ông sẽ viết: Đó không phải là những chuyện hoang đường thêu dệt khéo léo; chính chúng tôi đã được thấy tận mắt vẻ uy phong lẫm liệt của Người, khi chúng tôi ở trên núi thánh với Người (2 Pr 1,16-18). Chúng ta cũng nên đọc lại đời ông: Phêrô không phải là con người chiêm niệm huyền bí; đó chỉ là anh chàng làm nghề biển! Chúng ta có thể tin tưởng vào khiếu quan sát của ông. Ngoài ra, ông cũng nhận ra rằng, đó là điều không thể hiểu được. Nhưng điều đó buộc ông phải chấp nhận. Ông không biết phải nói gì.

Bỗng có một đám mây bay đến bao phủ các ông. Và từ đám mây, có tiếng phán rằng: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người".

Theo kiểu nói biểu tượng đám mây là "Sự hiện diện của Thiên Chúa" (Xh 16,10; 19,9; 24,15; Ds 14,10). Tiếng nói trên đây cũng chính là tiếng nói ngày Đức Giêsu chịu phép rửa (Mc 1,11). Nhưng lúc đó, tiếng nói đó chỉ dành cho Đức Giêsu. Còn hôm nay, tiếng phán này gửi cho các môn đệ.

Vậy Đức Giêsu là ai? Để đáp lại câu hỏi cơ bản này, ta không thể vận dụng "những suy luận" cá nhân, cũng không nhờ vào "những nghiên cứu Kinh Thánh", nhưng qua cách cầu nguyện "riêng một mình trên núi"; nếu ta biết lắng nghe! Căn tính đích thực của Đức Giêsu mà ta biết được chỉ nhờ Chúa Cha mạc khải. Đó là điều vượt khỏi khả năng nắm bắt của con người.

Ở trên núi xuống, Đức Giêsu cấm các ông không được kể lại cho ai nghe những điều đã thấy, cho đến khi Con Người từ cõi chết sống lại. Các ông tuân lệnh đó, nhưng vẫn bàn hỏi nhau xem câu "từ cõi chết sống lại" nghĩ a là gì?

Cần phải có Thập giá và Phục sinh, để các môn đệ khám phá ra căn tính đích thực của Chúa Giêsu.

 

73.Vinh quang trên đỉnh núi--William Barclay

Ở đây chúng ta đang đối diện với một biến cố trong đời sống Chúa Giêsu vốn được phủ bằng một tấm màn bí mật. Chúng ta chỉ cố tìm xem đã có chuyện gì xảy ra. Maccô bảo rằng việc này xảy ra sáu ngày sau biến cố gần Xêdarê Philípphê, Luca thì nói tám ngày sau. Tuy nhiên, ở đây không hề có sự bất nhất. Cả hai vị đều muốn nói như ngày nay chúng ta nói là “độ chừng một tuần lễ sau”. Cả hai Giáo Hội Đô