Lời chúa mỗi ngày

Thứ Tư 14/02/2024 – THỨ TƯ LỄ TRO. – Giữ chay và kiêng thịt. – Hoán cải nội tâm.

  • In trang này
  • Lượt xem: 9,459
  • Ngày đăng: 13/02/2024 10:00:00

Hoán cải nội tâm.

14/02 – THỨ TƯ LỄ TRO. – Giữ chay và kiêng thịt.

“Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.

 

Lời Chúa: Mt 6, 1-6. 16-18

Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: "Các con hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để thiên hạ trông thấy, bằng không các con mất công phúc nơi Cha các con là Đấng ở trên trời.

Vậy khi các con bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng họ. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Các con có bố thí, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc con bố thí được giữ kín và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Rồi khi các con cầu nguyện, thì cũng chớ làm như những kẻ giả hình: họ ưa đứng cầu nguyện giữa hội đường và các ngả đàng, để thiên hạ trông thấy. Quả thật, Ta bảo các con rằng: họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi cầu nguyện, thì hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu xin với Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con.

"Khi các con ăn chay, thì đừng làm như bọn giả hình thiểu não: họ làm cho mặt mũi ủ dột, để có vẻ ăn chay trước mặt người ta. Quả thật, Ta bảo các con, họ đã được thưởng công rồi. Còn con khi ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu và rửa mặt, để thiên hạ không biết con ăn chay, nhưng chỉ tỏ ra cho Cha con, Đấng ngự nơi bí ẩn, và Cha con thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho con".

 

* Đọc GIỜ KINH PHỤNG VỤ  link CGKPV

 

* Các BÀI ĐỌC TRONG THÁNH LỄ

 

 

 

1.         Cha hiện diện nơi kín ẩn--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.

2.         Hãy xé lòng--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

3.         Hãy xé lòng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

4.         Lễ Tro--Hãy mở lòng ra--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

5.         Mùa chay và ơn cứu độ--GM Gioan Baotixita Bùi Tuần

6.         Sám hối trở về cùng Chúa--TGM Giuse Nguyễn Năng

7.         “Trở về với bản thân, với Chúa, với tha nhân”--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

8.         Mùa thuận tiện--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

9.         Con là thân tro bụi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

10.      Hãy trung thực, đừng giả hình--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

11.      Cát bụi tuyệt vời-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm

12.      Thứ Tư Lễ Tro: Ge 2,12-18; Mt 6,1-6--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

13.      Tro bụi--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

14. Mùa chay: thời gian thuận tiện để rèn luyện mạnh khỏe--Lm Giuse Đinh Tất Quý

15. Nhớ về thân tro bụi, mùa của tình yêu và hy vọng--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

16.      Mùa Chay 2022, mùa trở về--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

17.      Ăn chay, cầu nguyện và làm phúc--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

18.      Suy niệm Thứ Tư Lễ Tro-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

19. Bước vào mùa luyện nhân đức để chiến thắng tội lỗi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

20.      Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo--Lm Đan Vinh

21.      Lễ Tro--Làm việc lành trong khiêm hạ--Lm Đan Vinh

22.      Hãy thay đổi cách hành động--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

23.      Buông bỏ tham sân si--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

24.      Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa?-- Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP.

25.      Hãy tự biết mình-- Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP.

26.      Hoa và rác--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

27.      Cát bụi tuyệt vời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

28.      Công lý đời sau--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

29.      Thân phận người--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

30.      Sứ điệp của TRO--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

31.      Mầu tím trong phụng vụ mùa chay--Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

32.      Ý nghĩa của lửa và tro--Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng

33.      Tro nhắc ta ý thức thân phận mình--Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

34.      Suy niệm thứ tư lễ tro--Lm. Anthony Trung Thành

35.      Đừng chỉ chăm sóc thân xác mà lãng quên linh hồn--Lm. Inhaxiô Trần Ngà

36.      Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu--Lm. Inhaxiô Trần Ngà

37.      Hoán cải nội tâm--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

38.      Các việc đạo đức--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

39.      Hoán cải-- Sợi Chỉ Đỏ

40.      Ăn chay thế nào mới đẹp lòng Chúa?--JKN

41.      Bố thí, cầu nguyện, ăn chay-- Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt

42.      Thứ Tư Lễ Tro--Lm. Inhaxiô Hồ Thông

43.      Thứ Tư Lễ Tro: Lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ

44.      Mệnh lệnh Mùa chay--Trầm Thiên Thu

45.      Tin vào tình yêu sự tha thứ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

46.      Mùa chay: thời gian để được xót thương--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

47.      Hãy trở về--JM. Lam Thy

48.      Biết phận mình--Lm. Giuse DĐH

49.      Bố Thí, Cầu Nguyện, Ăn Chay--P. Trần Đình Phan Tiến

50.      Một chương trình mùa chay

51.      Đừng phô trương

52.      Lịch sử và ý nghĩa THỨ TƯ LỄ TRO

53.      Bụi tro

 

1.Cha hiện diện nơi kín ẩn--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.

Cứ đến Thứ Tư Lễ Tro là chúng ta lại được nghe bài Tin Mừng này.

Đức Giêsu nói đến ba việc đạo đức quan trọng của người Do Thái:

cầu nguyện, bố thí, ăn chay.

Chẳng phải cứ đợi đến Mùa Chay chúng ta mới làm ba việc đó.

Nhưng Mùa Chay là thời gian thuận lợi để ta tập trung chú ý hơn.

Tập trung vào cầu nguyện là làm mới lại tương quan với Thiên Chúa,

từ bỏ những gì làm tôi xa Chúa và dứt bỏ mọi tội lỗi quen phạm.

Tập trung vào bố thí là chia sẻ của cải cho những người nghèo hơn,

tự nguyện bỏ bớt một phần tiện nghi để giúp những ai đói khổ.

Tập trung vào chay tịnh là làm cho thân xác, tâm hồn mình trở nên nhẹ nhàng,

thoát khỏi những kéo xuống nặng nề, những cám dỗ sống hưởng thụ, ích kỷ.

Cả ba việc này có tương quan chặt chẽ với nhau.

Khi làm tốt một việc, ta sẽ dễ làm hai việc còn lại hơn.

Ăn chay giúp chúng ta hàn gắn lại tình bạn với Chúa,

và lớn lên trong sự thân mật đối với Ngài.

Ăn chay giúp ta tránh tội và tránh mọi thứ dẫn đến tội.

Ăn chay là thoát ra khỏi sự thèm muốn tự nhiên về cơm bánh vật chất,

để nếm cảm sự cần thiết của tấm bánh tinh thần.

Nhờ ăn chay con người thấy mình được tự do hơn để sống theo ý Chúa.

Khi chịu đói nơi thân xác, chúng ta sẽ thấy tim mình đói khát Thiên Chúa

và mong Ngài đến với ta để làm ta mãn nguyện.

Nhưng ăn chay cũng giúp ta mở mắt trước tình cảnh thiếu thốn của tha nhân.

Nhờ ăn chay, chúng ta không còn sống cho chính mình nữa,

nhưng biết sống cho Chúa và tha nhân.

Ăn chay giúp ta chế ngự được tính ích kỷ làm ta co lại,

nhờ đó ta có thể mở lòng ra trước nhu cầu của anh chị em mình

và chia sẻ cho họ điều mình đã tiết kiệm được từ ăn chay.

Ngay cả một người có hai áo cũng có thể chia sẻ được cho người trần trụi.

Người chỉ còn vài lon gạo cũng có thể chia cho người đang đói.

Chúng ta đã bắt đầu cuộc hành trình 40 ngày Mùa Chay.

Không phải chỉ là ăn chay, mà là sống chay.

Chay tịnh phải là một thái độ thấm vào cuộc sống.

Khi bớt nuông chiều những đòi hỏi ngày càng nhiều của thân xác,

chúng ta sẽ thắng được những cám dỗ của thèm muốn vô độ.

 

Cầu nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

xin cho con trở nên đơn sơ bé nhỏ,

nhờ đó con dễ nghe được tiếng Chúa nói,

dễ thấy Chúa hiện diện

và hoạt động trong đời con.

Sống giữa một thế giới đầy lọc lừa và đe dọa,

xin cho con đừng trở nên cứng cỏi,

khép kín và nghi ngờ.

Xin dạy con sự hiền hậu

để con biết cảm thông và bao dung với tha nhân.

Xin dạy con sự khiêm nhu

để con dám buông đời con cho Chúa.

Cuối cùng, xin cho con sự bình an sâu thẳm,

vui tươi đi trên con đường hẹp với Ngài,

hạnh phúc vì được cùng Ngài chịu khổ đau. Amen.

 

2.Hãy xé lòng--TGM Giuse Ngô Quang Kiệt

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Để thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay nhiều và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao càng sáng lên.

Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thày trò hăng hái lên đường. đường càng lên càng dốc dác khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thày trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước. Nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thày uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy bé gái mỗi lúc mệt thêm, thày ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy cô bé mới dám uống. Uống nước xong, cô bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thày.

Thày ẩn tu len lén nhìn lên đầu núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thày đã không biết hãm mình. Nhưng lạ chưa, trên đầu núi thày thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thày biết nghĩ đến người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

 Mùa chay được mở đầu bằng nghi thức xức tro và một ngày ăn chay kiêng thịt. Có lẽ có nhiều người thắc mắc tại sao ngày xưa người Do Thái rắc đầy tro trên đầu, ngồi cả trên đống tro, mà ngày nay ta chỉ xức một chút ít tro, và tại sao ngày xưa ăn chay trong bốn mươi ngày, mà ngày nay chỉ còn ăn chay có 2 ngày Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu tuần thánh? Thưa vì Giáo hội muốn ta càng ngày càng đi vào tinh thần hơn là chỉ giữ hình thức bên ngoài.

Mục đích của Mùa Chay là giúp ta trở về với Chúa và với anh em bằng sám hối nhìn nhận tội lỗi của chính mình. Việc xức tro, ăn chay, cầu nguyện, làm việc thiện, chỉ là những phương tiện.

Xức tro là để tỏ lòng sám hối. Xức nhiều tro mà trong lòng không thật tình sám hối thì có ích gì. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhớ ta. Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên chúa, làm lem luốc khuôn mặt Giáo hội, làm ô danh cho đạo thánh của Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham vọng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.

Ăn chay không phải là một hình thức làm cho qua lần, chiếu lệ. Ăn chay không phải chỉ là nhịn ăn một hai bữa cơm. Ăn chay có mục đích nhắc nhớ ta hãy biết hãm dẹp thân xác, hãm dẹp những tính mê tật xấu, hãm dẹp những gì làm mất lòng Chúa và làm phiền lòng anh em. Giáo hội giản lược việc ăn chay vào 2 ngày trong một năm, không phải vì coi nhẹ việc ăn chay, nhưng vì Giáo hội muốn tránh thái độ ăn chay hình thức, để tập trung vào việc ăn chay trong tâm hồn. Nhịn ăn một bát cơm không bằng nhịn nói một lời có thể làm buồn lòng người khác. Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn đi một cử chỉ xúc phạm đến anh em. Nhịn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, làm hoà với nhau. Kềm chế cơn đói không bằng kềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma tuý, nghiện cờ bạc. Kềm chế cơn khát không bằng kềm chế dục vọng, tính tham lam, thói kiêu ngạo.

Chính vì thế mà tiên tri Dô-el đã kêu gọi dân chúng: "Hãy xé lòng chứ đừng xé áo". Người Do thái có tục lệ khi ăn chay, thống hối thì xé áo ra. Đó là một hình thức biểu lộ sự thống hối. Điều quan trọng là có tâm hồn thực sự sám hối. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những tham lam, bất công. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói lười biếng, khô khan, nguội lạnh. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi những dính bén trần tục. Xé áo không bằng xé lòng ra khỏi thói gian dối, giả hình. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa. Chỉ khi thực sự xé lòng ra như thế, ta mới đến gần Chúa, sống tình thân mật với Chúa, hưởng được tình yêu thương của Chúa.

Để ăn chay trong tinh thần và để thực sự hướng về tha nhân, nhiều nước trên thế giới đã biến việc ăn chay thành những hành động bác ái cụ thể. Mỗi ngày trong mùa chay, họ bớt chi tiêu một chút, gửi tiền tiết kiệm giúp những nơi nghèo khổ, bị thiên tai. Nhờ thế, việc ăn chay của họ không còn là hình thức, nhưng là những hi sinh thực sự và trở nên những việc làm đầy tình bác ái huynh đệ.

Bây giờ thì chúng ta đã hiểu thế nào là ăn chay và sám hối đẹp lòng Chúa. Mỗi người hãy tự đặt ra cho mình, cho gia đình mình một chương trình sống Mùa Chay. Ước gì mùa Chay năm nay sẽ là khởi điểm của một đời sống mới, giúp mỗi người chúng ta thực sự thay đổi đời sống, mến Chúa hơn, yêu người hơn.

Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con là kẻ tội lỗi. Amen.

 

3.Hãy xé lòng--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Nghi thức này bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do Thái. Trong Cựu Ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do Thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra.

Cựu Ước nói nhiều đến tập tục này. Nhưng dễ nhớ nhất là truyện dân thành Ninivê. Ninivê là một thành phố lớn. Nhưng dân chúng ăn chơi truỵ lạc, phạm nhiều tội lỗi. Thiên Chúa muốn tiêu diệt thành này. Trước khi phạt, Chúa sai ngôn sứ Giona đến báo động. Ngh vị ngôn sứ này nói Chúa sắp trừng phạt, dân thành sợ hãi bảo nhau bỏ đàng ăn chơi tội lỗi, tha thiết ăn chay cầu nguyện, mặc áo vải thô, ngồi trên đống tro. Thấy dân chúng có lòng ăn năn sám hối, Chúa đã tha phạt cho thành.

Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Tội nhân tự nhận mình không xứng đáng được kính trọng, chỉ xứng đáng với tro bụi nhơ bẩn, với áo rách tồi tàn, đáng bị khinh miệt, bị chà đạp như cát bụi bên đường.

Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích. Cuộc đời giống như manh áo, hôm qua còn mới đẹp, hôm nay đã cũ kỹ xấu xí, hôm qua còn lành lặn, hôm nay đã sờn rách.

Như thế, việc xức tro và xé áo có một nội dung ý nghĩa rất sâu xa. Nhưng với thời gian, do những cử hành máy móc, các việc này dần dần rơi vào thái độ hình thức bên ngoài. Người ta làm cho qua lần chiếu lệ, chẳng còn có ý thức thống hối. Chính vì thế, ngôn sứ Giôen đã kêu gọi dân chúng: “Hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo”(Ge 2, 12b-13a).

Nghi thức phải diễn tả tâm tình thì việc cử hành mới có ích lợi. Việc xức tro sẽ vô ích nếu trong lòng ta không dâng lên tâm tình sám hối. Việc xé áo sẽ trở thành giả dối nếu tâm hồn ta không tan nát vì hối hận tội lỗi.

Xức tro trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào tâm hồn cho tâm hồn xót xa đau đớn vì tội lỗi. Hãy xức tro vào thói kiêu căng để nó biết hạ mình xuống trong khiêm nhường bé nhỏ. Hãy xức tro vào thói phô trương để nó biết chìm vào âm thầm nghèo hàn. Hãy xức tro vào thói hận thù ghen ghét để nó đau đớn vì đã không biết yêu thương. Hãy xức tro vào những mối chia rẽ bất hoà để tẩy sạch vết thương, hàn gắn tình hiệp nhất. Hãy xức tro vào tính ích kỷ để nó biết mở ra chia sẻ. Hãy xức tro vào thói lười biếng để nó tỉnh thức chăm lo việc đạo đức. Xức tro như thế có khác gì xát muối vào lòng, sẽ gây nên đau đớn xót xa, nhưng sẽ tẩy rửa linh hồn nên trong trắng.

Xé áo chẳng có ích lợi gì nếu ta không xé lòng ra. Lòng ta bấy lâu đã gắn bó với tội lỗi. Tội lỗi ăn sâu dính chặt hầu như trở thành một phần của tâm hồn. Muốn dứt lìa tội lỗi, phải xé nó ra. Hãy xé lòng ra khỏi những đam mê dục vọng bất chính. Hãy xé lòng ra khỏi thói tham lam tiền bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói nô lệ danh vọng chức quyền. Hãy xé lòng ra khỏi thói ham mê ăn uống, rượu chè, cờ bạc. Hãy xé lòng ra khỏi thói tự mãn tự tôn. Biết bao thứ đã trở thành thiết thân. Những quan hệ, những tiền bạc của cải, những chức tước danh vị, những thú ăn chơi, những tự ái, những giận hờn, tất cả đã gắn chặt vào đời ta. Giờ đây phải xé nó ra. Đau đớn lắm. Vết thương sẽ nặng lắm. Máu sẽ chảy nhiều lắm. Nhưng khi đã cắt bỏ được hết những ung nhọt độc hại, linh hồn sẽ nhẹ nhàng, trong sạch và lớn mạnh vì được đầy tràn ơn phúc và tình yêu của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy ban thêm sức mạnh cho con, để mùa Chay năm nay con thực sự biết xức tro vào tâm hồn, biết xé tâm hồn trong đau đớn vì tội lỗi. Lạy Chúa, xin đổi mới tâm hồn con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1. Mỗi lần dự lễ tro, bạn có ý thức ý nghĩa sâu xa của việc xức tro không?

2. Mỗi khi mùa Chay về, bạn có quyết tâm đổi mới đời sống không?

3. Hôm nay nếu phải xức tro vào tâm hồn, bạn sẽ xức vào nết xấu nào trong bạn?

4. Hôm nay nếu phải xé lòng mình, vết thương nào sẽ làm bạn đau đớn nhất. Bạn có dám xé nó ra không?

 

4.Lễ Tro--Hãy mở lòng ra--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

 (Ge 2,12-18; 2Cr 5,20 – 6,2; Mt 6,1-6. 16-18)

Tân Tổng thống Hoa kỳ Donald Trump đã quyết định xây bức tường dọc theo biên giới, nhằm ngăn chặn người nhập cư từ Mexico vào Hoa kỳ. Đức Thánh Cha Phanxico và Hội đồng Giám mục Hoa kỳ đã nhiều lần lên tiếng: Nên xây cầu. Không nên xây tường. Xây tường là thái độ đóng kín. Là thu mình vào cá nhân ích kỷ. Là nghèo nàn tàn lụi. Xây cầu là thái độ mở lòng ra với Chúa, với tha nhân. Làm cho đời sống phong phú. Hãy mở lòng. Đó là sứ điệp Lời Chúa của ngày Thứ Tư Lễ Tro. Lời Chúa hôm nay dạy ta hãy cầu nguyện, bố thí và ăn chay. Đó là hãy mở lòng ra.

Cầu nguyện là mở lòng ra với Chúa. Mở lòng ra với Chúa là mở vào siêu việt. Con người đâu phải bị trói buộc vào mặt đất, hữu hạn,tầm thường. Con người có khả năng vươn lên siêu việt. Và còn hơn thế, Thiên Chúa là người Cha luôn yêu thương mong chờ con cái về với Người. Khoảng cách giữa con người với Thiên Chúa là vô biên. Nhưng có cây cầu nối con người vào siêu việt để gặp gỡ Thiên Chúa. Đó là cầu nguyện. Mùa Chay là mùa thuận tiện để Chúa thi ân, ban ơn cứu độ. Tháo gỡ con người khỏi trói buộc của mặt đất tầm thường, khỏi bùn lầy tội lỗi. Nâng con người lên tự do của con cái Thiên Chúa. Nên Chúa mời gọi ta hãy xây dựng cây cầu nối liền với trời cao để gặp gỡ Thiên Chúa. Hãy cầu nguyện. Hãy nâng lòng lên tới Chúa. Hãy khao khát những sự trên trời. Đóng kín vào bản thân, vào mặt đất, vào vật chất là tự giam hãm, tự tàn lụi, tự hạ thấp con người. Cầu nguyện là mở lòng ra. Là gặp gỡ Thiên Chúa. Là vươn tâm hồn lên. Là vươn nhân loại lên. Là nâng thế giới lên cõi cao thượng.

Bố thí là mở lòng ra với tha nhân. Con người lo lắng về đời sống thực tế trần gian. Nên thường vun quén cho bản thân. Vì lo cho bản thân nên thường đóng kín với tha nhân. Trong đời sống thành thị hoá hiện nay, nhà đóng kín cửa, xây tường khoá cổng là phổ biến. Người ta ít quen biết nhau. Càng ít giao du. Sống ảo rất nhiều. Thăm viếng rất ít. Vì thế không thông cảm với tha nhân. Chia sẻ càng ít lắm. Mùa Chay Chúa mời gọi chúng ta hãy mở lòng ra với tha nhân. Chung quanh chúng ta đầy thảm cảnh. Thảm hoạ Formosa khiến hàng triệu người không có thu nhập cả hàng năm nay. Thảm hoạ lũ lụt khiến bao nhiêu nhà cửa, của cải, hoa mầu trôi theo dòng nước. Chung quanh ta biết bao Lazaro đang nằm thoi thóp. Cha Thục và giáo dân Song gọc bị đàn áp dã man chỉ vì muốn đòi công lý. Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm bị đe doạ cưỡng chế vô lý. Chúng ta đừng như nhà phú hộ cứ đóng kín cửa mặc toàn gấm vóc lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình. Hãy mở cửa ra. Nhất là hãy mở lòng ra. Đón tiếp người cơ nhỡ. Đòi công lý cho người bị áp bức bất công. Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Thăm viếng người tù tội. Khi lòng ta mở ra với tha nhân, tâm hồn ta phong phú vì tràn đầy tình yêu thương. Có yêu thương thế giới mới đổi mới. Con người mới hạnh phúc.

Ăn chay là mở lòng ra với bản thân. Con người đóng kín với Thiên Chúa và với tha nhân là vì con người tự đóng kín vào bản thân. Chỉ nhìn vào hạnh phúc riêng mình. Tìm hưởng thụ. Đó chính là hình ảnh người phú hộ. Chỉ biết ăn uống, trang điểm cho mình. Khi con người chỉ biết chăm chút cho bản thân con người bị trói buộc vào thú tính. K. Marx đã từng nói: Trước nỗi khổ của tha nhân, chỉ có loài súc vật mới tiếp tục liếm láp bộ lông để làm đẹp cho bản thân. Khi con người biết tự chế trong ăn mặc tiêu dùng, con người thoát khỏi ràng buộc của thói cá nhân ích kỷ, thoát khỏi bị ràng buộc vào vật chất hưởng thụ. Phá đi được bức tường cá nhân ích kỷ giam hãm đóng kín vào bản thân. Con người sẽ mở lòng ra với Chúa và với tha nhân. Sẽ biết vươn tâm hồn lên siêu việt. Sẽ biết mở lòng ra với anh em. Tâm hồn mở ra sẽ phát triển cả chiều cao với Thiên Chúa và chiều ngang với tha nhân. Sẽ trở nên rộng lớn. Sẽ xứng đáng với phẩm giá của con người và của con Chúa.

Đó cũng chính là chủ đề của Sứ điệp Mùa chay năm 2017 của Đức Thánh Cha Phanxico khi ngài nêu cao: Tha nhân là hồng ân của Chúa và Lời Chúa là hồng ân của Chúa. Ngài dựa vào dụ ngôn Nhà phú hộ và Lazaro để minh hoạ cho chủ đề mở lòng ra. Ông phú hộ vì đóng kín vào bản thân mà quên Chúa, không nhìn thấy tha nhân. Đến khi ông chết mới nhận thấy Lời Chúa là quan trọng và tha nhân là hồng ân. Nhưng không còn kịp nữa.

Vậy trong mùa Chay năm nay, chúng ta hãy nghe theo lời mời gọi của Đức Thánh Cha. Hãy mở lòng ra lắng nghe Lời Chúa dạy. Hãy mở lòng ra với tha nhân. Khi mở lòng ra ta sẽ thấy Lời Chúa là hồng ân cao cả đem đến cho ta sự sống đời đời. Và tha nhân là hồng ân để ta được gặp Chúa, được phục vụ Chúa và được hạnh phúc.

Hãy lên một chương trình sống mùa Chay thực sự. Chương trình cầu nguyện và suy niệm Lời Chúa. Chương trình giúp đỡ những nạn nhân đang cần trợ giúp. Chương trình thăm viếng các bệnh nhân và tù nhân. Như cô Đoàn thị Hương đang gặp khó khăn ở Malaysia…

Khi sống một mùa Chay thực sự thực tế, chắc chắn ta sẽ nhận được ơn phúc dồi dào của Chúa.

 

5.Mùa chay và ơn cứu độ--GM Gioan Baotixita Bùi Tuần

Mùa Chay là thời gian nhắc nhở đặc biệt đến ơn cứu độ.

Hầu như ngày nào Phụng vụ cũng có lời giục giã. Thí dụ:

Hãy khát khao tìm ơn cứu độ,

Hãy sốt sắng cầu xin ơn cứu độ,

Hãy khiêm tốn đón nhận ơn cứu độ,

Hãy tích cực cộng tác vào công trình cứu độ,

Hãy cảm tạ Chúa vì ơn cứu độ,

Hãy xin Chúa thương ban ơn cứu độ cho thế giới vv…

Tất cả chứng tỏ ơn cứu độ là hết sức quan trọng.

Vậy ơn cứu độ là gì?

Tôi không đưa ra một định nghĩa thần học. Chỉ xin nêu lên một số yếu tố gần gũi, vừa rút ra từ Kinh Thánh, vừa sát với kinh nghiệm cuộc đời.

Yếu tố thứ nhất là con người cần được cứu khỏi tình trạng tội lỗi. Tội lỗi bám vào con người. Tội lỗi đeo đẳng cuộc đời. Tội lỗi tước đoạt tự do con người.

Đây là một kinh nghiệm bản thân, mà mỗi người đều có thể nói lên cách này hay cách khác. Riêng thánh Phaolô dám viết ra kinh nghiệm của mình một cách khiêm nhường và xác thực. Thiết nghĩ đây là một sự thực mà mỗi người nên coi là của chính mình. Ngài viết: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí, nhưng tôi thì lại mang tính xác thịt, bị bán làm tôi cho tội lỗi. Thật vậy, tôi làm gì tôi cũng chẳng hiểu: Vì điều tôi muốn, thì tôi không làm. Nhưng điều tôi ghét, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì tức là tôi đồng ý với Lề Luật và nhận rằng Lề Luật là tốt. Vậy thật ra không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi. Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm. Nhưng sự ác tôi không muốn, thì tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.

Bởi đó, tôi khám phá ra luật này: Khi tôi muốn làm sự thiện, thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay. Theo con người nội tâm, tôi vui thích vì luật của Thiên Chúa. Nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: Luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tội là luật vẫn nằm sẵn trong các chi thể tôi.

Tôi thật là một người khốn nạn! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác phải chết này? Tạ ơn Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”(Rm 7, 14-25). Nói lên được sự thực bi đát đó như thánh Phaolô là điều đáng mừng. Phải nhận sự thực này một cách khiêm nhường mới hiểu được sự cần thiết đi tìm ơn cứu độ.

Hiện nay, ý thức về tội đã và đang suy giảm một cách mau lẹ và rất đáng lo ngại. Có người mất hẳn ý thức về tội. Vì thế mà tình hình đạo đức xuống dốc rõ ràng. Nguy cơ đe doạ phần rỗi là rất trầm trọng.

Do đó, Mùa Chay nói về ơn cứu độ, mà nếu quên nhắc đến xiềng xích tội lỗi, thì sẽ là một thiếu sót lớn. Đối với những ai có trách nhiệm loan báo ơn cứu độ, sự thiếu sót đó sẽ là một bất trung đối với Đấng Cứu độ, làm lạc đi ý nghĩa mùa chay.

Yếu tố thứ hai là con người cần được cứu khỏi nguy cơ làm tôi ma quỉ. Quyền lực ma quỉ trên thế gian này là rất lớn, rất rộng.

· Có trường hợp con người vâng phục ma quỉ một cách ngoan ngoãn và tự nhiên như thể họ là con cái đối với ma quỉ là cha mẹ họ. Chúa Giêsu có lần đã nói rõ về một đám đông: “Cha các ông là ma quỉ, và các ông muốn làm những gì cha các ông ham thích. Ngay từ đầu, nó đã là tên sát nhân. Nó đã không đứng về phía sự thực, vì sự thực không ở trong nó. Khi nó nói dối là nó nói theo bản tính của nó, bởi vì nó là kẻ nói dối, và là cha sự gian dối”(Ga 8, 44).

· Có trường hợp con người phải vâng phục ma quỉ một cách miễn cưỡng như kẻ bị xiềng xích dưới quyền bạo lực.

Thánh Luca thuật lại hình ảnh kẻ bị quỉ ám tại Ghêraxa như một người bị cả một cơ binh hành hạ khống chế một cách ác độc. “Chúa Giêsu hỏi: “Tên anh là gì? Anh thưa: Đạo binh. Vì rất nhiều quỉ nhập vào anh”(Lc 8, 30-31).

· Có trường hợp con người đi theo sự dụ dỗ của ma quỉ, như một người liên minh thân thích vốn cùng chung mưu tìm sự tội. Kinh Thánh nói: Khi Giuđa vừa ăn xong tấm bánh Chúa Giêsu trao cho, “Satan liền nhập vào y”(Ga 13, 27).

Sự ma quỉ luôn mưu tìm cách lôi kéo con người vào đường tội lỗi là điều chắc chắc. Chúa Giêsu phán: “Simon, Simon, kìa Satan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo”(Lc 22, 31).

Chính thánh Phêrô sau này cũng đã trải qua kinh nghiệm đó, nên đã khuyên bảo giáo đoàn mình: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỉ là thù địch anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé anh em”(1 Pr 5, 8).

Trước một nguy cơ đáng sợ như thế đang xảy ra xung quanh chúng ta, chúng ta rất cần đến Đấng cứu độ. Phúc Âm cho thấy Đức Giêsu đã nhiều lần trừ quỉ, và ma quỉ rất sợ Ngài. Chính Ngài là Đấng cứu độ con người khỏi quyền lực ma quỉ.

Yếu tố thứ ba là con người cần được hiệp thông với Thiên Chúa. Hai yếu tố trên chỉ là mặt tiêu cực. Mặt tích cực của ơn cứu độ là được hiệp thông với Thiên Chúa Cha, qua Đức Kitô. Thiên Chúa thường được trình bày như nguồn sự sống. Chúa Giêsu phán: “Quả thực, Chúa Cha có sự sống nơi mình thể nào, thì cũng ban cho người con được sự sống nơi mình như vậy”(Ga 5, 26). Trong bữa tiệc ly, Chúa Giêsu cầu nguyện: “Xin Cha tôn vinh Con Cha, để Con Cha tôn vinh Cha, theo quyền năng đã ban cho Người trên mọi phàm nhân, để Người ban sự sống đời đời cho tất cả những ai Cha đã ban cho Người”(Ga 17, 2).

Tham dự vào sự sống đời đời của Chúa được hiểu là được cứu độ. Vì thế, Chúa Giêsu hay nói về sự tham dự này nơi chính Ngài: “Ta là đường, là sự thực và là sự sống”(Ga 14, 6). “Ta đến để họ được sống và sự sống dồi dào”(Ga 10, 10). Theo chính Chúa Giêsu giải thích, thì tham dự sự sống của Chúa là nhận biết Thiên Chúa. Trong bữa tiệc ly Ngài nói với Chúa Cha: “Sự sống đời đời, đó là nhận biết Cha, Thiên Chúa duy nhất và chân thật, và nhận biết Đấng Cha đã sai đến là Giêsu Kitô”(Ga 17, 3).

Theo Kinh Thánh, nhận biết Chúa thường mang một ý nghĩa riêng biệt, đó là tiếp xúc trực tiếp với Ngài, đón nhận Ngài, dấn thân theo Ngài, chọn Ngài một cách dứt khoát như chọn sự sống.

Như thế nhận biết Chúa cũng là một cách xin vâng trọn vẹn ơn gọi Chúa gởi đến cùng với mọi trách nhiệm đi kèm ơn gọi đó. Nhận biết Chúa là chọn điều Chúa chọn, nghĩ điều Chúa nghĩ, muốn điều Chúa muốn, cảm điều Chúa cảm. Nhận biết Chúa như thế là một cách cảm nghiệm được sự Chúa ở bên mình, ở trong mình, ở với mình. Ngài sống động như một tình yêu tác tạo và cứu độ, an ủi và đỡ nâng.

Ba yếu tố tôi vừa nêu lên chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Nhưng tôi hy vọng, với ơn Chúa, những người thiện chí sẽ có thể dùng như một gợi ý đơn sơ dễ hiểu, để đi vào Mùa Chay theo phương hướng rõ ràng. Họ sẽ cầu nguyện, sám hối, hãm mình, sửa tính theo ý Chúa một cách có ý thức hơn.

Tôi cầu mong: Những tâm hồn bé nhỏ, con cái Đức Mẹ, trong Năm Mân Côi này, sẽ đáp ứng lời kêu gọi của Đức Giáo Hoàng, biến Mùa Chay này thành khí cụ bình an, mang ơn cứu độ đến cho một mảng lớn nhân loại, đầy những xung khắc, đầy những sợ hãi, đầy những bất ổn, đầy những ảo tưởng đang chuẩn bị cho những chết chóc tang thương và những hận thù sâu sắc lâu dài.

 

6.Sám hối trở về cùng Chúa--TGM Giuse Nguyễn Năng

Sứ điệp: Các việc đạo đức nhằm thể hiện tinh thần bác ái, cầu nguyện, làm chủ bản thân. Mùa chay giúp ta làm các việc ấy cách thật lòng trước mặt Cha, với ý hướng thi hành Thánh Ý Cha.

Cầu nguyện: Lạy Chúa Giêsu, cùng với toàn thể Hội Thánh, con bước vào mùa chay để sám hối trở về cùng Chúa. Con tạ ơn Chúa đã cho con thời gian thuận tiện này để duyệt xét lại cuộc đời và chấn chỉnh những thiếu sót, lệch lạc, thái quá. Con đặt mình trước Tôn Nhan Chúa, xin Chúa chiếu dọi ánh sáng của Chúa để con nhìn rõ con người của con. Và nhất là xin Chúa ban ơn nâng đỡ sự yếu hèn của con. Chỉ có ơn Chúa mới có thể làm cho con chỗi dậy trở về với Chúa để canh tân đời sống.

Xin Chúa giúp con biết sống tinh thần bác ái của Chúa. Con thường sống khép kín, ích kỷ, thường bỏ rơi, xúc phạm đến chính Chúa đang hiện diện nơi anh chị em con. Đôi lúc con làm được vài việc bác ái, nhưng lại muốn hãnh diện phô trương. Xin Chúa mở rộng trái tim con để con yêu mến tha nhân cách chân thành và quảng đại.

Lạy Chúa, xin dạy con biết sống tinh thần cầu nguyện. Con không muốn dừng lại ở vài câu kinh hoặc những hình thức lễ nghi, nhưng con muốn đi sâu vào lòng Chúa và kết hợp mật thiết với Chúa. Xin Chúa tỏ Tôn Nhan Chúa cho con, xin cho con cảm mến sự ngọt ngào được sống trong Chúa.

Và sau hết, trong mùa chay này, xin Chúa giúp con chế ngự bản thân. Bao nhiêu những đam mê lệch lạc, vị kỷ, thấp hèn, bao nhiêu những khuynh hướng xấu, xin Chúa giúp con loại bỏ tất cả. Xin Chúa dạy con sống tinh thần hy sinh, từ bỏ theo gương Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy thánh hoá con. Amen.

Ghi nhớ: ”Cha ngươi, Ðấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho ngươi”.

 

7.“Trở về với bản thân, với Chúa, với tha nhân”--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Mùa Chay đã về. Sắc tím của phẩm phục phụng vụ, cung điệu của các bài thánh ca cũng như các lời kinh cầu nguyện tạo cho ta một cảm giác trầm buồn, sâu lắng. Trong nghi lễ khai mạc Mùa Chay, khi khiêm tốn đón nhận một chút tro bụi trên đầu, lời thánh ca gọi ta về với thực tại của thân phận con người:

“Hỡi người hãy nhớ, mình là bụi tro,

Một mai người sẽ trở về bụi tro”

Những bài thánh ca cùng chung một tâm trạng, vừa thống thiết than van vừa quyết tâm mãnh liệt: Con nay trở về, trở về cùng Chúa Chúa ơi!

Sự trở về dựa trên lòng thương xót vô bờ của Thiên Chúa: Ngài là Thiên Chúa, rất nhân hậu và hay tha thứ.

Khi nhìn lên thánh giá, chúng ta tưởng niệm một sự kiện lịch sử đã xảy ra cách đây hai ngàn năm, qua lời kinh cầu nguyện thống thiết:

– Chúa Giêsu chịu các quan lấy hết áo chia nhau

– Chúa Giêsu còn trên thánh giá chịu thiên hạ nhạo cười (Kinh cầu Chịu nạn).

Cảm nhận thân phận tội lỗi, con người thấy cần được ơn thứ tha. Mùa Chay là mùa sám hối, là mùa trở về để được sống trong tình thân nghĩa với Chúa và với anh chị em mình.

Khi phạm tội, con người hối hận và dằn vặt khôn nguôi, vì tội không chỉ là xúc phạm đến đồng loại mà còn xúc phạm đến Chúa. Người phạm tội chạy trốn chính bản thân mình, đi đâu cũng không thể tìm được nơi ẩn nấp. Tội ác luôn bám sát và ám ảnh tội nhân. Chỉ có tâm tình sám hối và khiêm nhường xưng thú tội lỗi qua bí tích Hòa giải mới có thể đem lại cho họ sự thanh thản, bình an. Cùng với vua Đavít trong Thánh vịnh 50, chúng ta thú tội với Chúa qua lời kinh sám hối đẫm lệ, được thốt lên với tâm trạng hối hận day dứt:

“Vâng, con biết tội mình đã phạm,

Lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm.

Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa,

Dám làm điều dữ  trái mắt Ngài”(Tv 50, 5-6).

Những tâm tình được trải nghiệm trên đây giúp chúng ta trở về với Chúa. Tuy vậy, trước khi trở về với Chúa, chúng ta cần phải hồi tâm cảnh tỉnh, phải trở về với chính mình, nhìn nhận thân phận con người còn vương nhiều lầm lỗi cần được thương xót thứ tha. Trong cuộc sống bon chen quay cuồng, con người có nguy cơ quên mất chính bản thân, thậm chí đánh mất chính mình. Vì không ý thức mình là ai nên người ta dễ kiêu ngạo. Vì cho mình là chuẩn mực nên người ta dễ phủ nhận và loại trừ người khác. Trở về với chính mình để xem xét lại hành vi cử chỉ đã làm, để canh tân sửa đổi, nên con người tốt hơn. Trở về với chính mình còn là việc nhận ra những điểm tốt nơi anh chị em, cảm thông những khiếm khuyết của họ, xây tình liên đới để nâng đỡ và bổ túc cho nhau. Chỉ sau khi đã hồi tâm cảnh tỉnh, chúng ta mới có thể trở về với Chúa, tôn nhận Ngài là chủ đích của đời sống chúng ta và chuyên tâm tuân giữ lời Ngài dạy. Thiên Chúa như người Cha luôn chờ đợi chúng ta trở về.

 Một điều kiện căn bản để chứng minh chúng ta có lòng sám hối thật, đó là chúng ta trở về với anh chị em mình. Trở về để nhận ra những người xung quanh là anh chị em con cùng một Cha trên trời, là khiêm tốn nhìn nhận nhiều lần mình đã làm tổn thương họ. Sám hối ăn năn mà không làm hòa với đồng loại, thì chỉ là sám hối giả tạo bề ngoài. Kêu van: Lạy Chúa! Lạy Chúa! mà không thực thi lời Ngài dạy, thì chỉ là những tiếng kêu suông mà thôi. Mùa chay như điểm dừng của người lữ khách để nhìn lại quãng đường đã đi. Mùa chay còn là cơ hội để rũ bỏ mọi lỗi lầm bất xứng. Lòng sám hối giúp ta lấy lại nghị lực và niềm tin để tiếp bước lên đường trong sự thanh thản và bình an.

Nghi thức khai mạc Mùa Chay là lời kêu gọi sám hối trở về. Qua nghi thức lãnh nhận tro trên đầu, chúng ta cảm nhận nguồn cội của mình. Qua việc tưởng niệm Chúa chịu chết, chúng ta tuyên xưng tình Chúa yêu thương. Những thực hành truyền thống trong Mùa Chay như ăn chay, cầu nguyện và chia sẻ, phải hướng chúng ta đến canh tân hối cải, nếu không, sẽ giống như diễn kịch hay trò chơi giải trí hay những hình thức giả tạo bề ngoài (x.Tin Mừng Lễ Tro).

Như người con thứ hoang đàng nhận ra mình lầm lỗi, chúng ta hãy xin Chúa thương tha thứ và ban cho chúng ta niềm vui được sống trong tình Chúa và tình người.

Con người là sa ngã, nhưng thiên thần thì chỗi dậy (Thánh Mary Euphrasia Pelletier).

 

8.Mùa thuận tiện--TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Mùa Chay được gọi là “thánh”vì mang một ý nghĩa thiêng liêng đối với mỗi người tín hữu, đồng thời là điểm nhấn quan trọng trong đời sống đức tin. Tại các giáo xứ truyền thống, Mùa Chay luôn mang một bầu khí đặc biệt, thấm đượm tinh thần cầu nguyện, được thể hiện qua cách trang trí nhà thờ, những nghi thức ngắm nguyện, những buổi tĩnh tâm dành cho các hội đoàn và các giới. Bầu khí đạo đức của Mùa Chay phù hợp với lời khẳng định của thánh Phaolô: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ”(Bài đọc II).

Dĩ nhiên, Thiên Chúa không chỉ tha thứ và ban ơn cứu độ trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng ơn cứu độ của Ngài tràn trề, mênh mông như biển cả. Tuy vậy, như lời kinh nguyện ngắm của Mùa Chay còn được đọc nơi một số giáo phận đã diễn tả: “Như con chim biết mùa làm tổ…”. Mùa Chay đối với tín hữu là thời điểm nhận ra lòng thương của Chúa thật mênh mông cao vời, mà chúng ta vô tình tệ bạc trước tình thương ấy. Tội lỗi chính là sự tệ bạc, bội nghĩa vong ân đối với Thiên Chúa. Câu chuyện người cha nhân hậu trong Tin Mừng thánh Luca đã phản ánh rõ giáo huấn về tội lỗi và ân sủng, về tình thương của Thiên Chúa và sự lầm lạc của con người, về sự cần thiết phải trở về để nối lại tình xưa giữa Thiên Chúa với tâm hồn mỗi người chúng ta.

Chúa Giêsu, trong Tin Mừng hôm nay đã đề cập đến ba thực hành quan trọng: Làm phúc, cầu nguyện và ăn chay. Dựa trên giáo huấn của Lời Chúa, ba thực hành này đã trở nên cốt lõi của đời sống đức tin nói chung và của Mùa Chay nói riêng. Tuy vậy, điều mà Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh, đó là tâm tình và ý thức của người tín hữu thể hiện qua những thực hành này. Ai trong chúng ta đã không có lần làm phúc và cầu nguyện? Ai chúng ta mà không ăn chay mỗi khi Mùa Chay về? Mùa Chay là thời điểm để chúng ta xét lại những thực hành này, để rồi, chúng không chỉ được thực hành một cách chiếu lệ, nhưng được thúc đẩy bởi đức tin, đức cậy, đức mến. Ý thức mình đang sống dưới cái nhìn yêu thương của Chúa, Đấng ngự nơi bí ẩn, đó là điều Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta. Vì chỉ như thế, những gì chúng ta làm mới mang tinh thần siêu nhiên. Xung quanh chúng ta, có rất nhiều người làm từ thiện. Trong xã hội hôm nay, có nhiều người ăn chay vì lý do sức khỏe hoặc để tạo một đời sống thanh tịnh. Điều khác biệt nơi người Kitô hữu, đó là làm phúc, ăn chay, cầu nguyện với ý thức về một Đấng Vô Hình, đang hiện diện trong tâm hồn họ, để rồi những gì họ làm cho những người bất hạnh khó nghèo là làm cho Chúa, Đấng đã hóa thân nơi người cùng khổ đang hiện diện hàng ngày xung quanh chúng ta.

Vì vậy, khi thực hành những đạo đức kể trên, người tín hữu không chờ mong lời khen của người đời. Chúa Giêsu đã diễn tả qua việc xức dầu thơm khi ăn chay và mang bộ mặt vui vẻ hòa nhã. Chúa cũng dặn, đừng khoe khoang việc từ thiện mình đã làm, hoặc đừng phô diễn khi cầu nguyện. Giáo huấn này hoàn toàn khác với thói quen nơi một số người biệt phái trong xã hội đương thời. Qua những chỉ dẫn trên, Chúa muốn chúng ta đi vào tinh thần nội tâm của đời sống Kitô hữu, ở những lãnh vực khác nhau, nhằm diễn tả một đức tin trưởng thành và một đời sống chân chính.

Giữa dòng đời trôi nổi ồn ào, chúng ta có nguy cơ bị lạc hướng, để mình trôi theo những tham vọng trần tục. “Mùa thuận tiện”đưa chúng ta trở về với Chúa, với tha nhân và với chính mình. Về với Chúa để nhận ra thân phận hèn yếu lỗi lầm, tái lập mối tương giao cha-con với Ngài; về với tha nhân để nhận ra họ là hồng ân Chúa ban tặng (Sứ điệp Mùa Chay 2017); về với chính mình để nhận ra mình đang ở đâu trong cơn lốc cuộc đời, để không bị đánh mất mình trong biển đời hỗn độn mênh mông.

Lời kêu gọi trở về, được ngôn sứ Giôen diễn tả, vừa đanh thép quyết liệt, vừa tha thiết dịu dàng. Đây là một lời “hiệu triệu”thôi thúc con tim mỗi người hãy gác lại những bận rộn âu lo của cuộc sống để thành tâm trở về với Chúa, như một ưu tiên quan trọng của cuộc đời. Lời kêu gọi sám hối được gửi đến mọi người, già trẻ, gái trai, tân lang tân nương, tư tế phục dịch trong Đền thờ. Mùa Chay là mùa thuận tiện đối với hết mọi người chúng ta.

 “Hãy xé lòng, đừng xé áo”. Lời ngôn sứ mời gọi chúng ta hãy sống Mùa Chay cách chân thành và hiệu quả, chứ không dừng lại ở những nghi lễ bên ngoài. Hãy can đảm và trung thực đặt mình trước mặt Chúa, nhận ra những thiếu sót của mình để sám hối canh tâm. Đây là mùa thuận tiện giúp chúng ta đến gần Chúa và đến gần anh chị em mình hơn. Mùa Chay cũng giống như mùa cây thay lá, cởi bỏ những tán lá đã già cỗi để nhường chỗ cho những mầm non sẽ mọc lên. Sau mùa lá rụng là mùa đâm chồi nảy lộc. Màu tím của Mùa Chay không chỉ diễn tả lòng sám hối đau buồn, mà còn mang sứ điệp hy vọng vào tình thương của Chúa, Đấng không vui gì khi con người phải trầm luân, nhưng muốn cho mọi người được ơn cứu độ và được sống muôn đời.

Lễ tro năm nay trùng với ngày 1-3, là tháng kính Thánh Cả Giuse, vị Thánh luôn khiêm tốn âm thầm, lo chu toàn thánh ý Chúa. Xin Thánh Nhân cầu bầu cho chúng ta, được noi gương Người, sống đời nội tâm sâu xa, để được kết hiệp với Chúa, tận hưởng hạnh phúc Nước Trời ngay tại cuộc sống trần gian hôm nay. Amen.

 

9.Con là thân tro bụi--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

Hôm nay là Thứ Tư lễ Tro, ngày khai mạc Mùa Chay thánh. Theo lời thánh Phaolô: ”Đây là lúc thuận tiện, đây là ngày cứu độ”(2Cr 6, 2b)). Mùa Chay giúp chúng ta thực hành tinh thần thống hối, điều chỉnh lại hướng đi của mình và biết quay trở về với Chúa.

Mỗi người được xức tro trên đầu để chỉ sự khiêm nhường thống hối. Chúng ta hãy tìm hiểu ý nghĩa việc xức tro, đồng thời cầu xin Chúa giúp sức để thi hành trong Mùa Chay này những lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.

I. TÓM TẮT VỀ LỄ TRO

Ngày Thứ Tư lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ sách Sáng thế: ”Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về bụi tro”. Lời Kinh Thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người, biểu hiệu “bụi tro”được dùng trong Kinh Thánh và trong lễ nghi Thứ Tư đầu Mùa Chay.

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng ngày xưa. Theo đó, những người đã phạm một số tội nặng công khai, mà mọi người biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình… là những người bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng: vào ngày thứ tư trước Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, họ tập trung tại nhà thờ chính tòa để, sau khi xưng thú tội mình, Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhâm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình.

Sau đó họ bị đuổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thư Năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập tại nhà thờ chính tòa, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành sám hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ dây, họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích.

Sau một thời gian lễ nghi tiếp tục biến chuyển. Vào năm 1091, công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ xức tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi xức tro, vị Linh mục đọc: ”Ta là thân cát bụi và sẽ trở về cát bụi”(St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Lễ Lá năm trước để lại.

Trước công cuộc canh tân phụng vụ của công đồng Vatican II, lễ nghi làm phép tro và xức tro được cử hành trước lễ. Vào năm 1970, khi công bố sách lễ Rôma được tu chỉnh, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ Lời Chúa. Ngoài câu trích từ sách Sáng thế, còn có thêm một công thức khác dùng khi xức tro, lấy từ Phúc âm: ”Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1, 15).

II. Ý NGHĨA VIỆC XỨC TRO

1. Tro chỉ sự thống hối.

Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhâm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel.

Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn hối lỗi, quyết tâm làm điều lành, lánh sự dữ.

Tro là tập tục biểu hiệu của lòng ăn năn sám hối bên Trung Đông. Theo tập tục bên Do thái, trong Kinh Thánh còn ghi lại: Tro được dự trữ làm nước tẩy uế (Ds 19, 9). Ông Abraham đã khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa nhận mình là thân tro bụi (St 18, 27). Rắc tro trên đầu cũng là lễ nghi sám hối trong niềm tin đạo giáo văn hóa thời xa xưa bên Do thái (2Sm 13, 19; Mac 3, 47). Mặc áo vải thô và rắc tro trên đầu là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối của con người với Thiên Chúa (Eth 4, 1; Mt 11, 21).

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con ngươi sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại”một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân”trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.

2. Tro chỉ sự chóng qua.

Việc xức tro mời gọi chúng ta ý thức về thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay, nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhở ta về thân phận và kiếp người mỏng dòn ấy: thân phận con người là tro bụi.

 Trong lễ an táng, chúng ta thường hát bài thánh vịnh đáp ca 102. Bài thánh vịnh nói lên sự mong manh của kiếp con người, đời sống con người giống như loài hoa sớm nở chiều tàn, không có gì là bền vững:

Kiếp phù sinh, tháng ngày vắn vỏi,

Tươi thắm như cỏ nội hoa đồng,

Một cơn gió thoảng là xong

Chốn xưa mình ở cũng không biết mình. (Tv 102, 15-16)

Thi sĩ Nguyễn Khuyến, nhìn cuộc đời chóng qua của kiếp người cũng phải kêu lên bằng những hình ảnh sống động:

Ôi! nhân sinh là thế ấy!

Như bóng đèn, như mây nổi,

Như gió thổi, như chiêm bao!

Trong bài “Cát bụi”nhạc sĩ Trịnh công Sơn cũng nói lên kiếp mong manh của con người: Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hóa kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Một vòng quay. Trăm năm một kiếp người có là mấy: ”Chợt một chiều tóc trắng như vôi”…

Trịnh công Sơn không bi quan. Ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao! Sự sống cao quí biết bao! Nhưng cũng chỉ như một “đóa hoa vô thường”như tên gọi của một bài hát khác của ông. Đó là thực tế, nhìn nhận đúng thực tế đó, đối diện với nó một cách can đảm có thể đưa đến một cuộc sống tốt đẹp và hữu ích hơn.

Tro không những chỉ được dùng trong lễ nghi thống hối xức tro hằng năm, mà còn được dùng trong nghi lễ nhậm chức đăng quang của Đức Giáo hoàng mới được bầu lên. Theo tập tục lễ nghi, vị hồng y niên trưởng đốt những sợi chỉ ra tro để nhắc nhở vị tân Giáo hoàng với câu: ”Sic transit mundi gloria”: vinh quang thế gian cũng mau qua như thế.

3. Tro nhắc nhở về sự chết.

Trong Cựu ước, tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi và sẽ phải chết: ”Ngươi sẽ phải đổ mồ hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, ngươi đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3, 19. x. Gb 34, 4; Gr 6, 26; Is 58, 5).

Chết là án lệnh của Thiên Chúa sau khi nguyên tổ phạm tội: ”Người sẽ trở về với bụi đất”(St 3, 19). Vì thế không ai có thể tránh được cái chết.

Người Á Đông quan niệm: con người phải trải qua 4 giai đoạn là sinh, lão, bệnh, tử. Có người thoát được lão và bệnh vì chết quá sớm, còn không ai thoát được tử, vì đã có sinh thì phải có tử, sinh tử luôn nối kết với nhau.

Kinh nghiệm ngàn đời đã giúp ông Văn Thiên Trường suy nghĩ về cuộc sống mong manh của con người nên đã phát biểu ý kiến bằng một câu để đời:

Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,

Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.

Ngàn xưa, người thế ai không chết,

Chết, để lòng son rạng sử xanh.

Vì thế, trong truyền thống các đan sĩ và tu viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Do đó, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martinô thành Tours ở bên Pháp đã nói: ”Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó con trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết.

Chớ gì việc xức tro trên đầu khiến cho chúng suy nghĩ về sự chết để biết dọn mình sẵn sàng vì giờ chết đến như kẻ trộm, luôn có tinh cách bất ngờ như người ta nói:

Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.

Ai cũng mong đời sống của mình được trở thanh “cây bách niên”(agavé). Người ta cho biết: cứ một trăm năm một lần nở hoa, nhưng hoa đẹp lạ lùng. Trong một thế kỷ cây ấy đã sửa soạn cho cái ngày tươi đẹp ấy, nó dồn sức lực, nó trang điểm, nó làm cho đẹp, bằng công việc kín đáo, không ai trông thấy. Cả một thế kỷ! Và khi đã hết thời nó nở những cánh hoa trắng muốt để làm đẹp lòng người đến xem cái phi thường của nó.

III. MÙA CHAY VÀ THÂN TRO BỤI

Trong việc xức tro hôm nay Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người lìa xa Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là hậu quả của tội lỗi. Vì thế, phải “quay trở lại”một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân”trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ.

Để thể hiện sự thống hối trong Mùa Chay, chúng ta phải làm gì? Chắc chắn có nhiều việc phải làm và mỗi người có một chương trình riêng, nhưng thiết tưởng chúng ta phải thực hiện 3 điều mà Chúa Giêsu muốn cho chúng ta thực hành theo bài Tin Mừng hôm nay: đó là cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí.

1. Hãy cầu nguyện.

Cầu nguyện là một việc làm đẹp ý Chúa, mà ai cũng có thể làm được, ở đâu ta cũng có thể cầu nguyện được; chính vì thế Chúa Giêsu đã dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22, 40). Mà không những Chúa chỉ dạy chúng ta cầu nguyện, mà Chúa còn làm gương cầu nguyện nữa, nhiều chỗ trong Tin Mừng đã nói rõ (Lc 22, 42; Ga 11, 41-42). Còn rất nhiều đoạn khác trong Tin Mừng nói về việc Chúa Giêsu cầu nguyện, đặc biệt Chúa dạy chúng ta kinh Lạy Cha (Mt 6, 9-13).

Cầu nguyện là một vấn đề cần thiết và rất quan trọng, nó là vấn đề sinh tử.

Thánh Gioan Kim Khẩu đã so sánh sự cần thiết của lời cầu nguyện với chuyện cá trong nước. Bao lâu cá ở trong nước, nó vẫn sống, hoạt động và tăng trưởng, nhưng nếu nó bị bắt ra ngoài, chắc chắn nó sẽ chết. Cũng vậy, con người muốn sống siêu nhiên thì phải cầu nguyện, nếu không cầu nguyện họ sẽ mất ơn Chúa giúp, rồi dần dà họ sẽ mất sự sống siêu nhiên không khác nào cá phải chết vì không có nước.

Thánh Bênađô cũng đã so sánh sự hô hấp cần thiết cho con người như thế nào, thì lời cầu nguyện cũng cần thiết cho con người như vậy. Đối với linh hồn, cầu nguyện cần thiết cũng như hô hấp cần cho cơ thể con người. Nếu con người hô hấp khó khăn thì thân xác sẽ trở thành tiều tụy, và nếu hô hấp đình chỉ thì con người sẽ chết. Cũng thế, khi ta ít cầu nguyện, thì linh hồn biến thành bạc nhược, và khi ta không cầu nguyện tí nào, thì linh hồn ta sẽ chết trước mặt Chúa.

Thế nào là cầu nguyện?

Các nhà tu đức học thường định nghĩa cầu nguyện là nâng tâm hồn lên cùng Chúa, hay cầu nguyện là cuộc trò chuyện giữa ta với Chúa. Thật thế, cầu nguyện là tâm tình với Chúa, thưa truyện với Chúa bằng tâm tư và ngôn ngữ của chính ta, như con cái thỏ thẻ với cha mẹ những tình cảm yêu mến, những nhu cầu xin Chúa thương ban, hoặc kể cho Chúa nghe những tâm sự vui buồn, lòng biết ơn…

Có những khi ta vui quá, hay buồn quá tự lòng ta không biết nói gì với Chúa, hoặc khi có đông người muốn có chung một lời cầu nguyện thì Giáo hội mới lập nên những lời kinh chung giúp chúng ta cùng nhau cầu nguyện. Do đó, cầu nguyện không chỉ là đọc kinh, đọc những công thức một cách máy móc, còn lòng trí thì để vào chuyện đâu đâu. Với kinh nguyện thì miệng đọc lòng ta phải kết hợp với lời kinh để suy gẫm với Chúa, với Đức Mẹ, các thánh… theo nguyên tắc “khẩu tụng tâm suy”.

Chúng ta thường nghe rất nhiều, đôi khi đã tham dự buổi cầu nguyện nhờ những kỹ thuật như: thiền, yoga, cầu nguyện theo cách của cộng đoàn Taizé, Béatitude (cộng đoàn Phúc thật), Chemin neuf (Con đường mới)… Những buổi tổ chức cầu nguyện như thế càng ngày càng được nhiều nơi tổ chức và hấp dẫn nhiều người vì những lợi ích sau: làm cho chúng ta “dễ nâng lòng lên với Chúa”, tạo cho chúng ta những bầu khí và tâm tình sốt sắng, ham thích cầu nguyện và thấy như Thiên Chúa ở bên chúng ta, lắng nghe chúng ta và an ủi chúng ta thật nhiều. Tóm lại, những kỹ thuật này góp phần tích cực vào cho buổi cầu nguyện. Điều này không ai có thể chối cãi được.

Nhưng nếu, cầu nguyện là trò chuyện với Chúa như bạn bè, cũng như tình bạn bè không cần kỹ thuật, thì cầu nguyện cũng không cần theo một kỹ thuật nào mà nó phải phát xuất tự trong lòng với những tâm tình riêng tư một cách tự nhiên và chân thành.

Truyện: Con chỉ nghe.

Một cụ già có thói quen ngồi bất động hằng giờ ở cuối nhà thờ. Một ngày nọ, cha xứ hỏi cụ là Chúa đã nói gì với cụ. Cụ trả lời:

- Thưa cha, Chúa chả nói gì cả, Ngài chỉ nghe con.

 - Vậy à? Thế thì cụ nói gì với Chúa?

 - Dạ, con cũng chẳng nói gì, con chỉ nghe Chúa!

Thực ra, đỉnh cao của cầu nguyện là hoàn toàn kết hợp với Chúa, lúc đó không còn ai nói ai nghe mà chỉ có sự im lặng, để con tim nói với nhau. Chúng ta có thể nói đây là một sự thinh lặng hùng biện, không nói gì mà lại nói rất nhiều. Vì thế cầu nguyện có 4 mức độ:

- Tôi nói, Chúa nghe.

- Chúa nói, tôi nghe.

- Không ai nói, cả hai cùng nghe.

- Không ai nói, không ai nghe. Đây là sự thinh lặng tuyệ đối.

Phải chăng người đời cũng hiểu sự thinh lặng hùng biện là thế nào:

Nước mắt nói lời của mắt,

Hương hoa nói lời của hoa,

Lặng im nói lời đôi ta!

Ngoài ra chúng ta còn thực hiện lời Chúa dạy: ”Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ”(Lc 22, 40). Làm sao chúng ta có thể cầu nguyện luôn khi chúng ta có trăm ngàn công việc phải làm? Cầu nguyện ở đây là biến mọi công việc thành lời nguyện.

Cầu nguyện đẹp lòng Chúa nhất là trong mọi công việc hằng ngày, ta hãy có tâm lòng cùng làm việc với Chúa, và làm vì yêu mến Chúa và phục vụ tha nhân. Qua đó những việc ta làm, những lời ta nói luôn luôn hướng về Chúa, cho Chúa và cho tha nhân… biến những lời nói việc làm của ta thành những việc lành, việc thiện như thánh nữ Têrêsa Hài Đồng nhặt một cọng rác, khâu một mũi kim cũng làm vì mến Chúa. Chúa muốn ta cầu nguyện liên tục là như vậy, chứ Chúa không bảo ta đọc kinh liên tục để khỏi sa chước cám dỗ đâu!

2. Hãy ăn chay

Chúng ta bắt đầu bước vào Mùa Chay, đã là Mùa Chay thì phải ăn chay. Nhưng phải ăn chay như thế nào thì mới đúng cách và hữu ích?

Mùa Chay gợi nhớ 40 ngày chay tịnh của Chúa Giêsu trong hoang địa, mà Ngài đã trải qua trước khi đi vào sứ vụ công khai. Chúng ta đọc thấy trong Tin mừng: ”Đức Giêsu được Thần Khí dẫn vào trong hoang địa, để chịu quỉ cám dỗ. Ngài ăn chay ròng rã 40 đêm ngày, và sau đó, Ngài thấy đói”(Mt 4, 1-2).

Giống như ông Maisen đã ăn chay trước khi đón nhận những tấm bia lề luật (x.Xh 34, 28), và việc ông Êlia ăn chay trước khi gặp Chúa ở núi Horép (x. 1V 19, 8). Đức Giêsu cũng vậy, qua việc cầu nguyện và ăn chay, đã chuẩn bị cho sứ vụ đặt trước mặt Ngài, sứ vụ được đánh dấu vào lúc khởi đầu, bằng một cuộc chiến đấu nghiêm trọng với kẻ cám dỗ.

Tôn giáo nào cũng có ăn chay như Do thái giáo, Hồi giáo, Phật giáo… nhưng phương cách và mục đích của họ lại khác nhau.

Người Do thái ăn chay bằng cách nhịn ăn từ sáng đến chiều (Giona 3, 7-8; Samuel 14, 24). Tập tục ăn chay bằng cách nhịn ăn từ rạng đông cho đến khi mặt trời lặn, ngày nay vẫn còn được anh chị em Hồi giáo tuân giữ trong suốt tháng Ramadan. Trong khi ấy, anh chị em Phật giáo lại ăn chay vào mồng một và ngày rằm, bằng cách vẫn ăn no, nhưng kiêng không ăn thịt của bất cứ động vật nào, chỉ ăn thực vật.

Ngày xưa, người Công giáo cũng ăn chay giống như người Do thái là nhịn ăn từ sáng cho đến chiều. Ngày nay người Công giáo chúng ta ăn chay một năm có hai lần vào ngày thứ Tư Lễ Tro và Thứ sáu Tuần thanh, và chỉ cần ăn ít đi vào buổi sáng và buổi chiều, đồng thời kiêng thịt vào hai ngày đó.

Chúng ta thấy việc ăn chay ngày nay rất đơn giản, đơn giản hơn các tôn giáo khác, nhưng việc ăn chay này có ý nghĩa nào đối với người Kitô hữu? Thánh Tôma tiến sĩ đã giải thích cho chúng ta:

- Thứ nhất: để kềm chế sự thèm muốn của xác thịt. Nhờ chay tịnh, sẽ giữ được sự trong sạch. Trong Cựu ước cũng đề cập đến: ”Sự thèm muốn bị kềm chế lại bởi kiêng rượu, thịt”.

- Thứ hai: nhờ vào sự chay tịnh để tâm hồn chúng ta gia tăng một cách tự do, hướng đến sự chiêm niệm về những điều thiện hảo của thiên đàng. Tiên tri Daniel cũng được Thiên Chúa mạc khải sau khi ăn chay ba tuần lễ.

- Thứ ba: ăn chay để đến bù cho những tội lỗi của mình. “Hãy đến với ta bằng cách thay đổi hoàn toàn tâm hồn ngươi, trong chay tịnh và trong khóc lóc”.

Thánh Augustinô cũng đã nhấn mạnh trong một bài giảng về cầu nguyện và ăn chay: ”Chay tịnh làm sạch sẽ tâm hồn, gia tăng trí khôn, hướng xác thịt đến thần linh, thể hiện con tim thống hối và khiêm nhường, chẻ nhỏ những đám mây thèm muốn, dập tắt đám lửa dâm dục và đốt lên ánh sáng thật sự của đức ái”.

Từ xa xưa, tiên tri Isaia đã có ý kiến về việc ăn chay và đã vạch vẽ cho dân Do thái biết cách ăn chay cho đẹp lòng Thiên Chúa: ”Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các người kêu tới trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày các ngươi phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa”?

“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ, thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục? Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành”(Is 58, 4-8).

Trong sứ điệp Mùa Chay 2009, Đức Thánh Cha bênêdictô XVI đã nói: ”Trong thời đại chúng ta, chay tịnh dường như đã đánh mất điều gì thuộc về ý nghĩa thiêng liêng, và trong một nền văn hóa có đặc điểm là tìm kiếm hạnh phúc vật chất, nó đảm nhiệm vai trò chữa bệnh để chăm sóc thân thể. Chắc hẳn chay tịnh đem lại lợi ích cho hạnh phúc thể lý, nhưng đối với người tín hữu, trước tiên nó là “một phương thế chữa trị”để chữa lành tất cả những gì ngăn cản họ sống phù hợp với thánh ý Thiên Chúa. Trong tông hiến Paenitemini năm 1966, Người Tôi Tớ Thiên Chúa Phaolô VI thấy nhu cầu trình bầy chay tịnh trong khuôn khổ ơn gọi của mọi Kito hữu “không còn sống cho chính mình, nhưng cho Đấng đã yêu thương và hiến thân vì mình, và sống cho anh chị em của mình”(x. Ch. 1).

Như vậy ăn chay thể xác không quan trọng bằng ăn chay tinh thần, nghĩa là từ bỏ ý riêng của mình để sống theo ý Chúa, loại bỏ tính ích kỷ và mở rộng con tim để yêu mến và đón nhận tha nhân, phục vụ anh chị em và đem hạnh phúc đến cho mọi người. Đúng là:

“Ăn mặn nói ngay, còn hơn ăn chay nói dối”(Tục ngữ).

3. Hãy làm phúc bố thí.

Mùa Chay là thời gian khám phá ra các nhu cầu của anh chị em mình và nhắc nhở chúng ta tìm mọi cách để gặp gỡ và giúp đỡ những người đau khổ thể xác cũng như tinh thần.

Trong sứ điệp Mùa Chay năm 2002, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II trích dẫn câu nói của thánh Phaolô trong thư thứ nhất gửi cho tín hữu Côrintô: ”Bạn có gì mà bạn đã không lãnh nhận (1Cr 4, 7). Và ngài tiếp: ”Một khi đã nhìn nhận như thế thì bạn phải yêu mến anh chị em và hy sinh cho họ”.

Làm phúc bố thí và ăn chay là những phương thế liên hệ mật thiết với nhau để giúp chúng ta ăn năn hối cải. Làm phúc bố thí có nghĩa là chia vui sẻ buồn với người khác, giúp đỡ người ta, nhất là những ai lâm cảnh thiếu thốn, phân phát cho người ta không nguyên của cải vật chất mà cả tinh thần nữa. Chính vì thế, chúng ta phải tỏ ra cởi mở đối với người khác, biết nhận ra những nhu cầu của họ và cảm thông những nỗi đau buồn của họ, đồng thời tìm cách đáp ứng những nhu cầu đó và làm cho những đau thương của họ vơi nhẹ đi.

Như vậy, cầu nguyện để kết hợp với Thiên Chúa đồng thời cũng hướng chúng ta tới tha nhân. Khi chúng ta đòi hỏi đối với bản thân và quảng đại đối với tha nhân, nhất là đối với những ai đau khổ và thiếu thốn là chúng ta sống kết hợp với Đức Kitô chịu đau khổ và bị đóng đinh vì Người tự đồng hóa với họ như Người nói: ”Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương Quốc dọn sẵn cho các ngươi từ thưở tạo thiên lập địa. Vì xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn; Ta khát các ngươi đã cho uống; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc; Ta đau yếu, các ngươi đã viếng thăm; Ta ngồi tù, các ngươi đã hỏi han”(Mt 25, 35-36).

Truyện: Cho đi tất cả.

Một người kia rất nghèo và vẫn thường nghĩ mình là người nghèo khổ nhất trên khắp mặt đất này. Thế rồi, một hôm ông ta lên đường và gặp một người hành khất khác còn nghèo khổ hơn mình hơn nữa. Ông dừng lại chào hỏi và nói:

- Từ trước tới nay tôi vẫn tưởng mình là người nghèo khổ nhất trong thiên hạ, thế mà hôm nay gặp anh tôi thấy anh còn nghèo hơn tôi nữa, vì đến cái che nắng che mưa trên đầu anh cũng không có.

Người hành khất đáp:

- Này ông bạn ơi, xin ông đừng quên rằng mỗi người nghèo trên đường đi của mình đều gặp thấy những người khác còn nghèo khổ hơn nữa. Đó là điều duy nhất an ủi chúng ta hơn cả, bởi vì mình vẫn còn có thể cho đi người khác một cái gì đó.

Nghe vậy, người ấy liền giơ tay lên đầu lấy mũ trao cho người nghèo không có mũ. Dọc đường, người ấy lại gặp một người khác nghèo hơn nữa không có manh áo che thân, và người ấy liền cởi áo mình ra trao cho người kia. Tiếp tục con đường hành trình, người ấy lại gặp những người khác nghèo hơn nữa và trao cho mỗi người một chút cái mình có. Sau cùng, người ấy chỉ còn đôi dép trong chân và cảm thấy hài lòng sung sướng vì còn có thể tiếp tục đường đi.

Khi hoàn tất cuộc hành trình, người nghèo ấy thấy mình đến trước cửa thiên đàng và nhận ra mình chỉ còn hai bàn chân đi đất, thân mình hoàn toàn ở trần

Mẩu truyện trên đây nói lên ý nghĩa sâu xa của tinh thần nghèo khó là gì. Thật vậy, chúng ta thường nghe nói: ”Không ai nghèo khó đến nỗi không có gì để cho đi và cũng không ai giầu có đến nỗi không có thể lãnh nhận được gì thêm nữa”.

Cái phải cho đi khó hơn là chính bản thân mình, khi nào chúng ta chưa biết cho đi chính mình chúng ta vẫn chưa phải là người nghèo khó nhất. Cho đi chính bản thân mình mới là điều kiện căn bản không thể thiếu sót để nhận lãnh tất cả, tức là nhận lấy tình yêu và chọn con đường yêu thương.

Làm sao có thể chọn yêu thương khi chúng ta cảm nghiệm được tình thương quá ít ỏi, khi chung quanh chúng ta vẫn còn nhiều hận thù và mọi hình thức ích kỷ?

Phải, chúng ta vẫn có thể chọn yêu thương bắt đầu từ những bước nho nhỏ có thể được. Có thể bắt đầu từ một nụ cười, từ một lời nói âu yếm, một lời khích lệ cảm thông, một lời chào hỏi thân tình, một sự quan tâm chú ý, một đồng tiền nhỏ bé, một món quà đơn sơ. Đó là những bước tiến nho nhỏ trên con đường yêu thương, như những cái chấm nối lại thành một đường thẳng. Cũng vậy, những hành động yêu thương nho nhỏ sẽ ghép lại thành con đường yêu thương dài cho đến khi đạt tới nguồn tình yêu là chính Thiên Chúa (R. Veritas).

Mùa Chay đòi hỏi chúng ta thống hối để kết hiệp mật thiết vào cuộc tử nạn của Chúa Giêsu, để cùng hưởng sự Phục sinh vinh hiển của Người. Vì vậy, cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí là thực hành sống những điều cốt yếu của tinh thần Mùa Chay.

 

10.Hãy trung thực, đừng giả hình--Lm. Giuse Đinh Lập Liễm

(Mt 6,1-6.16-18)

Trong số các việc đạo đức, người Do thái coi trọng 3 việc là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Chúa dạy chúng ta cách thức làm ba việc lành ấy cho tốt, để đáng được Chúa thưởng công.

Điều cốt yếu là khi làm ba việc lành đó, chúng ta tránh phô trương ra bên ngoài, mỗi khi làm được việc gì lành, điều gì tốt, chúng ta luôn luôn muốn cho mọi người biết. Còn khi làm việc gì không tốt thì chúng ta muốn giấu kín. Chúng ta phải làm việc lành với lòng khiêm tốn, âm thầm, kín đáo, vì lòng mến Chúa yêu người thực sự, để làm đẹp lòng Chúa, làm sáng danh Chúa, để Chúa là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ thưởng công chúng ta.

Tin mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Maisen, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia. Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa, hơn là để được người ta khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác (Mỗi ngày một tin vui).

Nhưng lời Chúa dạy hôm nay sao mà gắt gao quá, phải không bạn? Khi làm việc lành phúc đức tôi đã hy sinh cái lợi, cái thú rồi thì ít ra tôi cũng được phép kiếm chút danh chứ? Câu trả lời của Chúa là KHÔNG! Chúa nói rõ: làm việc đạo đức mà cầu danh thì đấy là đạo đức giả. Điều Chúa muốn, đó là chúng ta thực thi ý Ngài với ý thức rằng: “Chúng tôi chỉ là những tôi tớ vô dụng, chúng tôi chỉ làm việc bổn phận đấy thôi”(x. Lc 17,10). Các sách Tin mừng cho thấy Chúa Giêsu đã gặp gỡ, tiếp xúc với rất nhiều loại người, nhưng gặp rắc rối là với những kẻ đạo đức giả, chứ không phải với những người tội lỗi thật (5 phút Lời Chúa).

Trước đây Chúa Giêsu trình bầy sự công chính mới trong lãnh vực các điều răn, nay Ngài đề cập tới nền đạo đức mới: phải thực thi những việc đạo đức thế nào phải phù hợp với tinh thần của Chúa Kitô. Những lời khuyên bảo của Chúa Giêsu về những việc đạo đức được bao gồm ba chiều kích:

- Đối với tha nhân: bố thí.

- Đối với Thiên Chúa: cầu nguyện.

- Đối với bản thân: chay tịnh./Ba chiều kích này tiêu biểu cho cả cuộc sống. Điều cốt yếu trong cả ba trường hợp vẫn là sống thật, sống trước mặt Thiên Chúa với ý hướng ngay thẳng và thi hành ý Chúa.

Bố thí, cầu nguyện, ăn chay là ba nét chính yếu trong đời sống đạo của người Do thái. Việc làm thì tốt, nhưng vì hình thức bên ngoài mà việc làm mang ý nghĩa khác, bởi vì có người bố thí, cầu nguyện, ăn chay chỉ là để phô diễn cái tôi của họ để rồi đánh mất đi giá trị đích thực của công việc.

- Bố thí là lời yêu thương gửi đến người khác, nhưng nếu chỉ để mình được thấy thì làm sao thấy được kẻ khác;

- Cầu nguyện là hướng về Thiên Chúa, nhưng nếu chỉ qui về mình thì làm sao còn có chỗ cho Thiên Chúa;

- Ăn chay là một đền bù cho những lỗi lầm, và diễn tả khao khát được Thiên Chúa lấp đầy, nhưng nếu con người đã no thoả trong chính mình thì làm sao họ còn cần đến Thiên Chúa.

Giữa Thiên Chúa và thế gian đã có một cách biệt rõ ràng: nếu đã tìm giá trị trần gian, con người khó lòng vươn tới được giá trị đích thực. “Họ đã được thưởng công rồi”: đó là lời tuyên bố dứt khoát đối với những ai chỉ mải miết chạy theo những giá trị trần thế.

Lời Chúa hôm nay là một hướng dẫn cho người Kitô hữu không những trong các việc làm căn bản của đời sống đạo, mà cả những công việc trong đời sống hằng ngày nữa. Công việc chỉ có giá trị khi người Kitô hữu biết nhìn công việc bằng ánh mắt của Đức Kitô và biết phân tích theo những tiêu chuẩn thẩm định của Thiên Chúa. Đó có thể là công việc mà người đời cho là tầm thường hoặc không được ai biết đến, nhưng Thiên Chúa là Đấng thấu suốt mọi sự sẽ thưởng công cho.

Truyện: Đừng phô trương

Có một linh sư Ấn độ nổi tiếng là bậc thánh thiện. Ông đã mở được một trung tâm cầu nguyện và quy tụ được khá nhiều đệ tử. Ngày nọ có một người tìm thấy học đạo. Để thử đức vâng lời của anh, ông bảo anh phải bơi qua một dòng sông đầy cá sấu. Không chút ngần ngại, người thanh niên nhảy xuống và bơi qua sông mà không bị nguy hiểm gì cả. Anh vui mừng hô to: “Tung hô quyền năng kỳ diệu của Thầy tôi”. Sự kiện này làm cho vị linh sư tin rằng mình là một người thánh thiện. Do đó ông muốn chứng minh cho các đệ tử thấy quyền năng của mình. Ông tập họp tất cả các đệ tử trên bờ sông. Rồi ông hô lớn “Tung hô quyền năng của ta”và nhảy xuống sông. Thế nhưng vừa khi ông rơi xuống, đàn cá sấu đã ào tới cắn xé ông ra từng mảnh.

Dụ ngôn trên có thể là một định nghĩa về sự thánh thiện. Thánh thiện là sự quên mình, quên mình đến độ không còn ý thức về sự thánh thiện của mình và sử dụng chính sự thánh thiện của mình nữa. Thiên Chúa ban sự thánh thiện cho một người nào đó là để những kẻ khác được hưởng nhờ. Bao lâu sự thánh thiện của người đó còn được người khác hưởng dùng thì bấy lâu người đó còn thánh thiện. Trái lại, kể từ giây phút người đó muốn giữ riêng sự thánh thiện cho mình, thì người đó mất sự thánh thiện và đánh mất cả chính mình (Chờ đợi Chúa).

 

11.Cát bụi tuyệt vời-- Lm Giuse Đinh Lập Liễm

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã sáng tác được nhiều bài hát có giá trị. Những bài hát đó còn sống với thời gian, nghe mãi không chán. Những bài hát đó không những có giá trị về phương diện âm nhạc, mà nhiều bài còn có giá trị về triết lý nhân sinh, một số bài lại bàng bạc tư tưởng Thánh Kinh. Một trong các bài hát của ông là bài “Kiếp con người”đã mang mầu sắc của sách Sáng thế khi ông mở đầu bằng câu: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy”.

Nhân dịp lễ Tro sắp tới, ngâm nga và cảm hứng theo bài hát trên, chúng tôi có một vài suy tư về ngày lễ đó để chuẩn bị tâm hồn chúng ta đi vào Mùa Chay thánh mà Hội thánh sắp mở ra cho chúng ta..

I. THIÊN CHÚA DỰNG NÊN CON NGƯỜI

1. “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi

Để một mai vươn hình hài lớn dậy”.

Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn không phải là người Công giáo, nhưng ông có những tư tưởng về kiếp sống con người như chúng ta.

Sách Sáng thế nói đến việc Thiên Chúa dựng nên trời đất vạn vật từ hư không. Sau khi hoàn tất công việc tạo dựng, Thiên Chúa mới dựng nên con người.

Thiên Chúa  phán: “Chúng ta làm ra con người theo hình ảnh chúng ta, giống như chúng ta, để con người làm bá chủ cá biển, chim trời, gia súc, dã thú, tất cả mặt đất và mọi giống vật bò dưới đất”(St 1,26).

Thiên Chúa đã dựng nên con người như thế nào? Thì đây, sách Sáng thế đã mô tả: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người”(St 2,7).

Theo định nghĩa thì “Bụi”là tên chung cho các vật chất rắn có đường kính nhỏ cỡ vài micromét đến nửa milimét. Nghĩa là nhỏ lắm! Với mắt phàm xác thịt thì không thể nào ta nhìn thấy hạt bụi được. Cho dù bạn có đi cắt mắt bằng tia Laser, hoặc đi thẩm mỹ viện sửa mắt cho to thành hai ba mí cũng không thể nào thấy hạt bụi nhỏ li ti này được. Nhưng bạn sẽ “cảm thấy”rất rõ ràng nếu hạt bụi này vướng trong mắt…

Đối với con người, bụi là cái gì dơ bẩn, là biểu hiệu của cái gì hoang tàn và chết chóc. Thế mà Thiên Chúa đã dựng nên con người  bằng những hạt bụi li ti như vậy đó. Vì thế, ngày nay người ta thường nói về thân xác con người là “xác đất vật hèn”.

2. “Ối! cát bụi tuyệt vời”.

Là người Công giáo, chúng ta tin là  nếu hạt bụi có được hóa kiếp là nhờ tình thương của Thiên Chúa. Vì nếu không, muôn đời hạt bụi vẫn mãi mãi là hạt bụi.

Sách Sáng thế đoạn 2 câu 7 nói rõ: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở nên một sinh vật”(St 2,7).

Con người sinh ra từ bụi đất nhưng con người không bằng bụi đất vì con người có hơi thở và hơi thở này  là hơi thở Sự Sống của Thiên Chúa, đến từ Thiên Chúa. Các muông thú động vật cũng có hơi thở nhưng sẽ chết đi và biến thành tro bụi. Con người khác xa các loài thụ tạo vì sự sống của con người  đến từ Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống. Ngài là Sự Sống: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh mình, Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa, Thiên Chúa sáng tạo con người có nam có nữ”(St 1,27).

Con người được Thiên Chúa dựng nên giống Ngài nên con người cũng sẽ được như Ngài là sống bất diệt, chứ không phải để chết như vạn vật.

Chính vì tình yêu mà Thiên Chúa đã biến đổi thân phận của hạt bụi. Và hạt bụi đó được Thiên Chúa biến hóa thành con người giống hình ảnh Chúa để được sống và sống dồi dào trong tình Chúa yêu thương, trong sự thuận hòa với đồng loại.

Ôi! Cát bụi tuyệt vời!

Cảm nghiệm về tình yêu Thiên Chúa đối với con người hèn mọn, từ đời đời đã yêu thương và đưa con người lên làm bạn thân thiết với Ngài, nhất là cho con người được tham gia vào chức vụ Linh mục của Chúa Kitô, linh mục nhạc sĩ Kim Long đã sáng tác bài “Tình yêu Thiên Chúa”, trong đó có câu:

Bụi tro, ôi thân con là bụi tro đâu đáng

Mà Chúa cao siêu ngập tầng trời

Đã khắc tên con vào lòng Người

Nên bạn tâm phúc từ đây

Giữa hàng khanh tướng quyền uy.

II. NHƯNG CON NGƯỜI ĐÃ ĐI HOANG

“Bao nhiêu năm làm kiếp con người

Chợt một chiều tóc trắng như vôi”.

Thiên Chúa là Đấng Thiện hảo. Sau khi dựng nên vạn vật và con người, Thiên Chúa rất hài lòng: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra là rất tốt đẹp”(St 1,31)

Sau khi đã dựng nên con người, Thiên Chúa đã đặt con người vào trong Vườn Địa đàng để hưởng mọi thành quả Thiên Chúa đã dựng nên, và Ngài lại còn ban cho con người có quyền trên  tất cả.

Tuy thế, con người cũng phải bị thử thách xem có trung thành với Chúa không. Người phán với con người: “Hết mọi trái cây trong vườn, ngươi cứ ăn, nhưng trái cây cho biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn, vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết”(St 2,16-17).

Nhưng con người đã không tuân lệnh Chúa, theo lời khuyên nhủ của con rắn là ma quỉ, đã cả gan ăn trái cấm đó. Con người đã bị đuổi ra khỏi vườn địa đàng và mất hết mọi hồng ân hồn xác mà Thiên Chúa đã ban cho lúc ban đầu.

Thiên Chúa đã ban mọi hồng ân cho con người, trong các hồng ân ấy sự tự do, một hồng ân mà Thiên Chúa chỉ dành cho con người. Nhưng sau khi con người dùng sự tự do đó mà đi nghịch lại với ý muốn của Thiên Chúa, thì con người đã từ chối sự thánh thiện và sự tốt lành mà Thiên Chúa ban. Con người đã đi vào hư vô, vào quãng “không”. Có nghĩa là  con người chìm đắm trong những sự không tốt lành, không thánh thiện, không yêu thương, không bền vững. Con người bị rơi vào vùng bóng tối, vào kiếp đọa đầy: “Người sẽ phải đổ mô hôi trán mới có bánh ăn, cho đến khi trở về với đất, vì từ đất, người đã được lấy ra. Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3,19).

Làm kiếp con người là vậy đó!

Cái sự đau khổ của con người chịu, càng đau khổ hơn vì con người đã được nếm mùi hạnh phúc, đã biết thế nào là được yêu. Cũng như khi bị tù đầy mới khát khao những ngày được tự do; khi bị thất tình mới biết giá trị của những ngày sống hạnh phúc trong tình yêu.

Tuy con người đã lìa bỏ Chúa, nhưng Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi con người. Thiên Chúa vẫn yêu thương, vẫn mời gọi, vẫn chờ đợi con người. Ngài đã sai Con của Ngài đến giải thoát chúng ta, để toàn thể con người không còn phải trở về kiếp bụi nữa. Chúa Giêsu sẽ cho chúng ta  được phục sinh vinh hiển với Ngài. Đó là giao ước của Ngài với con người, với điều kiện là con người biết trở về với Ngài và biết bác ái yêu thương nhau. Nhưng, cũng phải kiên nhẫn đợi chờ. Thiên Chúa như người cha già hằng ngày đợi chờ mong ngóng tin vui chúng ta trở lại với Chúa.

III. CON NGƯỜI CẦN PHẢI TRỞ VỀ.

“Xin úp mặt bùi ngùi

Từng ngày qua mỏi ngóng tin vui”.

Hôm nay là ngày Thứ Tư Lễ tro, bắt đầu Mùa Chay thánh, thời gian thuận tiện giúp con người có dịp nhớ lại mình mà làm hòa với Chúa. Con người vì đi hoang nên hay quên bản thân mình, không nhớ mình là bụi tro và có thể trở về với bụi tro bất cứ lúc nào:

Nhiều khi quên thân mình bụi tro

Con người say tìm bóng phù du

Kìa xem, núi cao lên rồi mòn

Hoa tươi lên rồi tàn qua mau ngàn giấc mơ vàng. (Bụi tro – Phanxicô)

Thái độ của chúng ta lúc này phải chăng là “úp mặt bùi ngùi”để xin ơn tha thứ? Đúng vậy, Thiên Chúa sẽ thứ tha cho tất cả những ai biết ăn năn sám hối vì người ta thường nói: “Đánh kẻ chạy đi không đang người chạy lại”. Đang khi sám hối quay về với Chúa là chúng ta đang “Từng ngày qua mong ngóng tin vui”. Chắc chắn tin vui phải đến với con người sám hối vì Thiên Chúa như người cha đang mong ngóng đứa con đi hoang trở về.

Chúng ta tin tưởng vào Chúa Giêsu. Ngài là Đấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người. Ngài sẽ giao hòa chúng ta với Chúa Cha. Ngài đóng một vai trò rất đắc lực trong việc hòa giải này.

Chúng ta còn nhớ đoạn Kinh Thánh nói về việc ông Abraham can thiệp cho thành Sôđôma. Ông có tài cù cưa mặc cả với Chúa. Ông nại lý do thân con chỉ là… tro bụi, xin Chúa tha cho anh em đồng loại “cả thành”. Để Thiên Chúa nghe mà mủi lòng. Ông nói: “Mặc dầu con chỉ là tro bụi, con cũng xin mạn pháp thưa với Chúa: giả như trong số năm mươi người lành lại thiếu mất năm, vì năm người đó, Ngài sẽ phá hủy thành sao”? Chúa đáp: “Không, Ta sẽ không phá hủy, nếu Ta tìm được bốn mươi lăm người”(St 18,27-28).

Đọc Kinh Thánh ta thấy, đây không phải là  một lần đầu, mà cả  ngàn lần sau này con người cứ xin lỗi rồi phạm tội, cứ hứa rồi lại thất hứa với Thiên Chúa. Nhưng Thiên Chúa đầy tình thương, Ngài biết thừa con người thề hứa như thế đấy, mà không phải thế. Ngài đã biết tỏng con người  là hay sa ngã, hay phạm tội, hay thất hứa,vẫn chứng nào tật ấy, nhưng Chúa vẫn cứ thương.

Trong Thánh lễ hôm nay, mỗi người sẽ nhận được một chút tro xức trên đầu. Trong Cựu ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đồng Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là tro bụi, sẽ phải chết (St 3,18-27; Gb 6,26; Est 4,13; Giona 3,6).

Ngày xưa, khi ai làm việc gì không chính đáng, họ thường xức tro trên đầu để tỏ dấu chỉ ăn năn thống hối quyết tâm làm điều lành, tránh sự xấu. Tro là dấu chỉ lòng ăn năn thống hối. Mỗi khi trông thấy tro bụi chúng ta liên tưởng ngay đến những gì đã qua, như một cánh đồng, một căn nhà, một khu phố sau cơn hỏa hoạn chỉ còn lại đống tro tàn.

Xức tro là để tỏ lòng ăn năn sám hối. Ngày nay, Giáo hội chỉ dùng một chút tro tượng trưng để nhắc nhở ta. Xức tro  trên đầu không quan trọng bằng xức tro trong tâm hồn. Hãy xức tro vào  tâm hồn để ta thấy tâm hồn mình đã ra hoen ố vì tội lỗi. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã bôi tro trát trấu vào khuôn mặt Thiên Chúa, làm lem luốc khuôn mặt Hội thánh, làm ô danh cho đạo thánh Chúa. Hãy xức tro vào tâm hồn để ta thấy rõ ta đã làm cho mối quan hệ với tha nhân bị vẩn đục vì những tham nhũng, những ích kỷ, những nhỏ nhen của ta. Hãy xức tro vào tâm hồn  để lòng ta xót xa, đau đớn, hối hận vì những tội lỗi đã phạm.

Do đó, Mùa Chay phải là mùa chúng ta biết “úp mặt bùi ngùi”, biết nhắc nhở mình là thân tro bụi, biết Chúa đã tha tội và đang mong mỏi chúng ta trở về để ăn năn thống hối những lỗi lầm đã xúc phạm đến Chúa.

Khi được xức tro trên đầu, chúng ta sẽ được nghe một câu nhắc nhở: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin mừng”(Mc 1,15). Thái độ cúi đầu nhận tro là bước đầu để chúng ta  tỏ lòng khiêm nhường, hạ mình nhìn nhận thân phận hèn yếu, rất cần tình thương và ơn cứu độ của Chúa. Đó cũng là dấu hiệu tỏ ra  chúng ta muốn trở về với Ngài.

Ôi! Cát bụi tuyệt vời! Nhờ Chúa Giêsu mà hạt bụi tôi đây, không còn phải trở về kiếp bụi nữa, mà tôi sẽ được phục sinh. Nhờ Chúa Giêsu mà chúng ta sẽ được sống vinh hiển như Ngài. Chúng ta đã hơn vạn vật là Chúa đã cho chúng ta  cùng trở về, lại được sống hòa thuận với mọi người trong nhà Chúa.

Như vậy, tro bụi hôm nay sẽ luôn nhắc nhở ta là hãy ăn năn sám hối, hãy luôn bỏ đường tội lỗi, hãy luôn sống thánh thiện, luôn yêu thương anh em để lúc nào chúng ta cũng sẵn sàng về cùng Thiên Chúa, để được phục sinh vinh hiển, để được hưởng hạnh phúc trường sinh với Ngài trên thiên quốc.

 

12.Thứ Tư Lễ Tro: Ge 2,12-18; Mt 6,1-6--Lm Carôlô Hồ Bạc Xái

A. Hạt giống...

1. Mở đầu Mùa Chay, Hội Thánh dùng lời ngôn sứ Gio-en để chỉ cho chúng ta thấy phải sống Mùa Chay như thế nào:

- “Hãy thật lòng trở về với Ta”

- “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”

2. Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu dạy về 3 việc đạo đức tiêu biểu mà người do thái thường làm, đó là bố thí, cầu nguyện và ăn chay. Qua 3 việc tiêu biểu này, chúng ta có thể hiểu về tất cả những việc đạo đức khác.

- Khi làm, đừng quá chú trọng đến vẻ bề ngoài của những việc đó (“khua chiêng đánh trống”, “trong hội đường hay ở ngã ba đường”, “làm cho ra vẻ thiểu não”)

- Đừng làm để được người ta khen (“cốt để người ta khen”, “cho người ta thấy”, “để thiên hạ thấy là chúng ăn chay”)

- Mà hãy làm cách kín đáo (kín đáo: không có nghĩa là dấu diếm người ta, mà là không có ý khoe khoang) nhưng và chỉ cốt làm vui lòng Cha trên trời.

B.... nẩy mầm.

1. Trong Mùa Chay, chẳng những ta gia tăng những việc đạo đức (phương diện lượng) mà còn phải lưu ý làm những việc đó với tâm tình sốt sắng hơn (phương diện phẩm).

2. Một việc đạo đức đang đi vào quên lãng, đó là Bố Thí. Giá trị của việc bố thí: a/ “Đồng tiền liền khúc ruột”, do đó bố thí có giá trị hy sinh lớn; b/ Bố thí giúp ta bớt dính bén tiền bạc; c/ Bố thí còn là một cách đền tội: Sách Tôbia nói “Việc bố thí thanh tẩy khỏi mọi tội lỗi”(Tb 12,8-9).

3. Rượu chè: Khi ông Nôe trồng nho, Satan lấy làm lạ nên tiến lại gần hỏi:

- Ông đang trồng cây gì thế?

- Cây nho.

- Nó có lợi gì không?

- Có chứ. Trái nó vừa đẹp mắt, vừa ngon miệng. Từ trái nho ta còn có thể làm ra rượu giúp lòng người hưng phấn nữa.

- Vậy thì để tôi giúp ông.

Satan mới giết một con chiên, một con sư tử, một con lừa và một con heo. Lấy máu của chúng tưới gốc cây nho. Thế là cây nho lớn nhanh. Noe lấy trái nho làm rượu.

Từ đó trở đi khi người ta uống một chút rượu vào thì sẽ vui vẻ dễ thương như con chiên; uống thêm chút nữa thì mạnh bạo như sư tử; Nếu chưa ngưng mà còn uống thêm thì sẽ ngu như lừa; nếu lại uống nữa thì... hoàn toàn như con heo vậy. (Truyện cổ Nước Pháp).

4. Chỗ ở của chuột: Có một con chuột sống trong một ngôi nhà thờ cũ kỹ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang dạo mát bỗng gặp một con chuột khác cũng đang đi chơi. Nó liền được dịp tâm sự: “Tôi sống chui rúc dưới gầm một toà giải tội. Nhưng chẳng được yên  thân vì hầu như lúc nào cũng có người xưng tội, phá giấc ngủ của tôi.”Nghe thế, con chuột kia nói: “Vậy bạn hãy dọn đến chỗ ở của tôi. Chỗ ấy ấm áp sạch sẽ mà chẳng mấy khi có người quấy rầy, yên tĩnh lắm. “Ô thế bạn ở đâu vậy?”- “Tôi ở trong thùng tiền cứu giúp người nghèo.” (Trích "Món quà giáng sinh")

 

13.Tro bụi--Lm. Nguyễn Vinh Sơn SCJ

Câu chuyện

Người cha rất đau khổ vì đứa con trai theo bạn bè phung phí hết tiền của. Cùng đường, chàng ta viết thư thống thiết xin lỗi cha và ngỏ ý xin cha thương xót. Người cha gửi cho cậu bức điện tín, chỉ có một chữ “về”và kí tên cũng chỉ một chữ “cha”.

Tin Mừng của Chúa cũng là bức điện tín gửi cho thế giới đầy tội lỗi này, với một chữ “về”và một chữ kí “cha”. Mùa Chay, mùa trở về cùng Chúa là Cha...

Suy Niệm

Bụi thường được dùng kết hợp đồng hóa với tro… tro bụi. Bản Kinh Thánh Bảy Mươi nhiều lần các học giả dùng từ “bụi”để nói và đồng hóa “tro”. Trong Kinh Thánh tro bụi là biểu tượng tội lỗi (x. Kn 15, 10; Ed 28, 18), sự mỏng giòn của con người, sự khiêm tốn (St 18, 2), nỗi đau khổ (x. G 42, 6; Gn 3, 6; Gdt 4, 11-15; Ed 27, 30; Mt 11, 21) và cả sự thống hối ăn năn (x. Gn 3, 6; G 42, 6).

Mùa Chay Thánh bắt đầu bằng thứ Tư Lễ Tro - ngày được gọi là ngày “bụi tro”bởi vì trong ngày này, người tín hữu lãnh nhận tro được ghi hình thánh giá trên trán. Nghi thức xức tro trong ngày đầu Mùa Chay đã bắt đầu vào thời Ðức Giáo Hoàng Grêgrôriô Cả (590 - 604). Ngày “bụi tro”có nguồn gốc từ “Dies Cinerum”trong sách Lễ Rôma và được tìm thấy trong quyển sách Lễ Grêgôriô. Với tất cả ý nghĩa của tro bụi trong Thánh Kinh, việc lãnh nhận tro trên trán là dấu chỉ nhắc nhở sự chết và sự ăn năn, ý thức thân phận mỏng giòn như bụi đất, sám hối vì những lầm lỗi mà mình phạm. Nghi thức xức tro được đưa vào phụng vụ Tây phương vào thế kỷ X, và được phổ biến rộng rãi trong Giáo hội tại Công đồng Bênêventô năm 1091.

Khi xức tro lên trán người tín hữu, thừa tác viên kêu gọi sự sám hối của người muốn nhận lãnh tro và khiêm tốn nhìn nhận mình thấp hèn: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3, 19), hay thừa tác viên dùng lời kêu gọi ý thức mình tội lỗi, sám hối và canh tân đời sống theo Tin Mừng với lời mà Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1, 15).

Con người dù trong thân phận thấp hèn yếu đuối như tro bụi, nhưng qua cử chỉ khiêm tốn nhận tro với dấu thánh giá được ghi trên trán, dấu tượng trưng cho ấn tín thánh mà người tín hữu lãnh nhận khi lãnh phép rửa tội. Dấu giải phóng khỏi tội, qua dấu đó, người tín hữu được trở nên con cái của Thiên Chúa (x. Rm 6, 3-18). Đó là dấu chỉ con người trở về với bụi đất. Nhưng trong bụi đất, nhờ Đức Kitô qua cái chết trên thập giá và phục sinh, con người sẽ tham dự vào vinh quang với Ngài. Cho nên, việc lãnh tro cũng được coi như là dấu chỉ của sự trở về trong vinh quang khi chúng ta được lãnh nhận làm con cái của Thiên Chúa đã được diễn tả trong sách Khải Huyền, vinh quang với Chiên chiến thắng là Đức Giêsu Kitô khải hoàn.

Vì thế, xức tro trên trán là nhận mình yếu đuối, sám hối lỗi lầm, nhưng cũng tuyên tín rằng sẽ được tìm thấy, gắn liền lại tình yêu, tình bạn hữu với Tạo Hóa bởi dấu thánh giá… với tro bụi, chúng ta nhìn nhận thân phận bất toàn, sám hối lầm lỗi, tro bụi với dấu thập giá - trở nên dấu vinh quang…

Mang tâm tình sám hối trong Mùa Chay, người tín hữu làm việc bác ái, cầu nguyện và chay tịnh. Nhưng Chúa dạy hãy làm với sự khiêm nhường và làm cách kín đáo chỉ mong làm vui lòng Cha trên trời.

Ý lực sống: Vâng, đón nhận tro chúng ta ý thức rằng: “Lửa tình yêu Thiên Chúa đã thiêu rụi tội lỗi, đốt cháy bởi lòng thương xót của Ngài… hãy nhìn tro, mang ý nghĩa tuyên xưng Đức tin vào mầu nhiệm Pascale – Phục sinh: Một ngày chúng ta sẽ là tro bụi, nhưng được dành để Phục sinh”(Enzo Bianchi, Donner sens au temps, Bayard, 2004).

 

14.Mùa chay: thời gian thuận tiện để rèn luyện mạnh khỏe--Lm Giuse Đinh Tất Quý

Ăn chay là một hình thức thực hành tôn giáo đã có từ lâu đời. Xưa kia ăn chay còn kèm theo đánh tội, mặc áo nhặm nữa. Có nhiều người thắc mắc tự hỏi: tại sao phải ăn chay. Tại sao phải hành hạ thân xác như thế? Có phải Chúa độc ác đến độ vui sướng khi thấy con người bị hành hạ hay sao? Chắc chắn không phải như thế. Vậy tại sao ăn chay?

Theo thánh Tôma tiến sĩ, ta có 3 loại kẻ thù là: ma quỉ, thế gian và xác thịt. Nếu có ai hỏi trong ba loại kẻ thù đó, loại nào nguy hiểm nhất, có lẽ không ai ngần ngại trả lời đó là ma quỉ. Quả thực ma quỉ rất hiểm độc, xảo trá. Tuy nhiên, dù hiểm độc đến đâu ma quỉ vẫn luôn ở ngoài ta.

Cả thế gian cũng thế, dù ở gần gũi ta, dù có ảnh hưởng lớn trên ta, nhưng thế gian vẫn luôn ở ngoài ta. Chỉ khi nào ta đồng ý, ma quỉ và thế gian mới đột nhập được vào cung cấm linh hồn.

Ở đây xác thịt đóng một vai trò quan trọng. Vì xác thịt ở trong ta, thiết thân với ta. Khi mạnh mẽ, xác thịt là người lính canh tốt, là phương tiện phục vụ linh hồn. Nhưng khi yếu đuối, xác thịt thống trị linh hồn. Và tệ hơn nữa, khi ưng thuận với ma quỉ và thế gian, xác thịt trở thành kẻ nội thù, đánh phá ta ngay từ bên trong. Vì thế xác thịt là nguy hiểm nhất.

Thường không ai muốn sự xấu. Không ai muốn phạm tội. Người ta phạm tội hầu hết vì yếu đuối. Vì yếu đuối nên nghe theo ma quỉ, thế gian. Vì yếu đuối nên đồng ý cho ma quỉ, thế gian xâm nhập tâm hồn. Vì yếu đuối nên để ma quỉ, thế gian lèo lái tâm hồn. Muốn chống trả được sự dữ linh hồn phải mạnh khỏe. Muốn mạnh khỏe phải rèn luyện. Mùa chay chính là một thời gian thuận tiện để rèn luyện. Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra cho ta chương trình 3 điểm để rèn luyện trong mùa Chay. Đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.

Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn. Ăn uống là nhu cầu sơ đẳng của con người. Làm chủ được nhu cầu sơ đẳng là bước đầu tiến đến làm chủ bản thân. Chế ngự được cơn đói dẫn ta đến chế ngự dục vọng. Quen nói không với bản năng thấp hèn, ta sẽ biết mạnh dạn từ chối những cám dỗ xấu. Quen tự chế ta sẽ trở nên mạnh mẽ. Biết từ bỏ ý riêng ta sẽ vươn lên cao trên bậc thang thánh thiện.

Cùng một ngày Darwin sinh ra (12/02/1809), một túp lều không ai biết đến, ở khu rừng rậm thuộc tiểu bang Kentucky, một đứa nhỏ khác cũng cất tiếng chào đời. Cha đứa nhỏ này là lão tiều phu nghèo khó Lincoln, và đứa nhỏ được đặt tên là Abraham. Chính đứa nhỏ này cũng vì khổ cực mà đã cố gắng tự rèn luyện để trở nên người. Nếu Abraham Lincoln sinh vào một gia đình quý phái, được vào học tại Đại học đường Harvard, được hưởng một lạc thú gia đình hoàn toàn, có lẽ ông đã chẳng thốt ra những lời nhiệt thành, tự đáy lòng, khi ông tái cử Tổng Thống Hoa Kỳ: “Tôi sẽ cố không xử ác với bất cứ ai và sẽ đại lượng, bác ái với mọi người”.

Cầu nguyện là phương thế không thể thiếu cho người muốn nên thánh. Nếu nên thánh là sống thân mật với Chúa thì cầu nguyện giúp ta đạt được điều này. Cầu nguyện càng sâu xa ta càng thân thiết với Chúa. Chúa là nguồn sức mạnh. Ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ. Chúa là nguồn thánh thiện. Ai thân thiết với Chúa sẽ có tâm hồn nhẹ nhàng siêu thoát mọi dính bén trần tục.

Dale Carnegie thuật lại: “nam tử võ sĩ”Jack Dempsey: không bao giờ quên tụng niệm trước khi ngủ; không bao giờ ăn mà không cám ơn Thượng Đế; trong khi thao luyện chờ lên võ đài, không ngày nào chàng không cầu nguyện và lúc sắp ra đấu, luôn luôn đọc kinh chờ tiếng chuông rung để mở hiệp đấu. Chàng nói: “Cầu nguyện giúp cho tôi có can đảm và tự tin”.

“Nam tử”Commie Mark cũng tụng kinh trước khi ngủ.

“Nam tử”Edward R. Steltinus, trước là nhân viên cao cấp của hãng General Motors và hãng United States Steel, lại có lần làm bộ trưởng nữa, nói rằng ông tụng kinh sáng và tối để được sáng suốt trong hành động.

“Nam tử”J. Pierpont Margan, một trong những nhà tài chánh đại tài, buổi chiều thứ bảy thường một mình lại nhà thờ Trinity ở đầu đường Wall Street quỳ gối cầu nguyện.

Khi “Nam tử”Eisenhower bay qua Anh để thống lĩnh liên quân Cường quốc chống Đức, chỉ mang theo một cuốn sách, cuốn Thánh Kinh.

Tưởng Giới Thạch và Đại tướng Montgomery cũng vậy. Nelson trong trận Trafagar cũng vậy. Đại tướng Washington, Robert E. Lee, Stonewall Jackson và cả chục quân nhân có danh tiếng khác cũng vậy, cũng vậy hết.

Tụng niệm tức là cầu ở Thượng Đế nguồn khí lực vô biên để tăng khí lực của ta… Nhờ vậy, tinh thần lẫn cơ thể của ta được trong sạch, mạnh mẽ hơn. Chẳng có người nào, đàn ông hay đàn bà, dù chỉ tụng niệm có một lát, mà không được kết quả tốt”.

Mẹ Têrêsa nói: "Cầu nguyện sẽ mở rộng hơn tấm lòng của bạn, mãi tới mức lòng bạn lớn đủ, để chứa cả món quà tặng là chính Thiên Chúa.

Làm việc bác ái. Tình yêu Chúa thực sự sẽ được thể hiện trong tình yêu mến anh em đồng loại. Tập làm việc bác ái giúp ta thêm lòng yêu mến Chúa. Quen nghĩ đến người khác giúp ta biết từ bỏ mình. Biết cảm thương trước những cảnh nghèo cảnh khổ sẽ giúp ta biết chia sẻ, xây dựng một xã hội huynh đệ, hòa bình.

 Đã bao mùa Chay trôi qua, nhưng ta chưa tiến bộ bao nhiêu trên đường thánh thiện. Năm nay, ta hãy quyết tâm sống mùa Chay với chương trình cụ thể 3 việc mà Chúa đã dạy.

 Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện ít, ngôi sao mờ đi. Khi ông ăn chay và cầu nguyện nhiều thì ngôi sao rực sáng lên. Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Đang khi ông chuẩn bị lên đường thì một em bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng ông. Thầy trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao càng dốc và khó đi. Mặt trời càng lúc càng nóng gắt. Cả hai thầy trò ướt đẫm mồ hôi và cảm thấy khát nước nhưng không ai dám uống. Em bé không dám uống trước khi thầy uống. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng nhìn thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, thầy ẩn tu thấy thương, nên mở nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám uống. Uống nước xong, em bé mỉm cười rất tươi và cám ơn thầy. Thầy ẩn tu len lén ngước mắt nhìn lên đỉnh núi. Thầy sợ ngôi sao biến mất vì thầy đã không biết hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thầy thấy không phải một mà có đến hai ngôi sao cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công vì thầy biết thương người khác, Chúa đã cho xuất hiện một ngôi sao nữa, sáng không kém gì ngôi sao kia.

Vâng! Hãy có chương trình ăn chay bằng hãm dẹp những tính mê nết xấu. Hãy gia tăng thời gian cầu nguyện sống bên Chúa. Hãy bớt chi tiêu để chia sẻ với những anh chị em đói nghèo. Nếu có một chương trình cụ thể và siêng năng thực tập những việc đạo đức nói trên, chắc chắn ta sẽ tiến bộ rất nhiều sau mùa Chay này. Ta sẽ được nhiều ơn Chúa và sẽ mừng lễ Phục sinh tràn đầy niềm vui thánh thiện.

Với nghi thức xức tro bây giờ, tôi long trọng khai mạc mùa Chay thánh năm 2020. Ước gì mùa Chay năm nay đem đến cho anh chị em phúc lộc dồi dào của Chúa qua những thực hành đạo đức ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta.

Đến đây, ta hãy ngừng lại và rút bài luân lý thực hành của những trường hợp kể trên. Nếu chưa bao giờ bạn làm được ly nước ngon lành bằng trái chanh số phận đã mang lại, thì bạn cũng thử xem nào? Bạn hãy cố gắng, vì rủi có thua, bạn cũng chẳng mất gì, nhưng nếu được thì bạn sẽ vô cùng hạnh phúc. Bạn phải cố gắng vì hai lẽ: một là ít ra bạn còn có cơ thành công, hai là dù thất bại đi chăng nữa, sự cố gắng của bạn để chuyển bại thành thắng đã bắt bạn nhìn thẳng vào tương lai mà quên đi dĩ vãng. Bạn sẽ có những lý tưởng thiết thực và nghị lực sáng tác sẽ trỗi dậy kích thích bạn làm việc, đến nỗi bạn không còn thì giờ mà nghĩ vơ vẩn, bới đống tro tàn của thời qua.

 

15.Nhớ về thân tro bụi, mùa của tình yêu và hy vọng--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Tro, dù nhỏ nhặt, nhưng nhắc nhở chúng ta một thực tế rằng chúng ta theo đuổi và lo lắng mỗi ngày, chăm chỉ làm việc, muốn chiếm hữu tất cả, nhưng chúng ta sẽ không mang theo được sự giàu có khi từ giã cuộc sống này, chúng ta sẽ không còn gì. Thực tại trần gian biến mất như tro trong gió. Những thứ chúng ta đang có chỉ là tạm thời, quyền lực qua đi, thành công sẽ phai nhòa. Nó giống như một ngọn lửa: một khi lụi tàn, chỉ còn lại tro.

Mùa Chay là thời gian để giải thoát bản thân khỏi ảo ảnh đuổi theo cát bụi. Mùa Chay giúp chúng ta nhận ra rằng, chúng ta được tạo thành vì Chúa, chứ không phải vì thế gian; vì sự vĩnh cửu của thiên đàng, chứ không phải vì sự tạm thời trần thế; vì tự do của con cái Chúa, chứ không phải để làm nô lệ cho vạn vật.

Chủ đề sứ điệp Mùa Chay năm 2021 này là: ”Này chúng ta lên Giêrusalem”(Mt 20,18). Mùa Chay: Thời gian làm tươi mới Niềm tin, Hy vọng và Tình yêu.

Đức Thánh Cha viết: ”Mỗi giây phút của cuộc đời đều là thời gian để chúng ta tin tưởng, hy vọng và yêu thương. Lời kêu gọi sống Mùa Chay như hành trình hoán cải, cầu nguyện và làm phúc, giúp cho niềm tin đến từ Chúa Kitô hằng sống, niềm hy vọng được cảm hứng do hơi thở của Chúa Thánh Thần và tình yêu chảy tràn từ trái tim nhân hậu của Chúa Cha được sống động trở lại nơi cộng đồng và cá nhân mỗi người chúng ta”(Trích sứ điệp Mùa Chay 2021).

Hành trình của Mùa Chay hướng về Phục Sinh. Toàn bộ cuộc lữ hành của đời Kitô hữu được chiếu soi nhờ ánh sáng phục sinh. Đức Thánh Cha nhấn mạnh đến việc cần làm là Ăn chay, cầu nguyện và bố thí, như lời rao giảng của Chúa Giêsu (x. Mt 6, 1-18), là điều kiện giúp chúng ta hoán cải và thể hiện sự hoán cải. Nẻo đường khó nghèo và bỏ mình (ăn chay), quan tâm và yêu thương chăm sóc người nghèo (bố thí), và như trẻ thơ trò chuyện với Chúa Cha (cầu nguyện) làm cho chúng ta có thể sống đức tin chân thành, đức cậy sống động và đức ái tích cực (x. Sứ điệp Mùa Chay 2021).

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thí là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Vậy làm thế nào để thực hiện ba điều Tin Mừng nhắc nhở chúng ta: Ăn chay – cầu nguyện – bố thí.

Những việc đạo đức chúng ta làm hằng ngày qui vào ba điều đó. Không phải Mùa Chay chúng ta vẫn làm. Bằng chứng là chúng ta vẫn cầu nguyện, đọc kinh, dự lễ, lãnh nhận các bí tích là chúng ta cầu nguyện. Các ngày thứ Sáu, Thứ Tư Lễ Tro, Thứ Sáu Tuần Thánh, và các dịp lễ khác chứng ta vẫn ăn chay. Giúp đỡ người nghèo, góp tiền cho người nghèo ăn Tết là bố thí. Nhưng trong Mùa Chay Thánh, chúng ta phải làm những việc bình thường đó với một tinh thần mới mẻ, tinh thần của Đức Kitô, tinh thần của Tin Mừng. Ăn chay để yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, vì yêu mến là chú vào người khác và xem họ như một với chính mình (x. Fratelli Tutti, 93). Ăn chay giải thoát chúng ta khỏi tất cả những gì xâm chiếm đời ta, như khỏi chủ nghĩa tiêu thụ và thừa mứa thông tin (cả thông tin thật lẫn thông tin giả), để mở lòng ra với Đấng đến với chúng ta, Người nghèo khó trong mọi sự nhưng “đầy tràn ân sủng và sự thật”(Ga 1, 14).

Đức Thánh Cha viết: ”Trong hoàn cảnh lo âu hiện nay, khi mọi việc có vẻ mong manh và bấp bênh, thì việc nói về niềm hy vọng dường như là một thách đố. Nhưng Mùa Chay chắc chắn là mùa hy vọng, khi chúng ta quay trở lại với Thiên Chúa là Đấng vẫn tiếp tục nhẫn nại để chăm sóc thụ tạo của Người, đang khi chúng ta lại thường ngược đãi”(x. TĐ. Laudato si’, 32-33; 43-44).

Đức Thánh Cha khuyên, trong Mùa Chay, ”hãy nói những lời tích cực để vỗ về, trợ lực, an ủi và khích lệ chứ không nói những lời miệt thị, bi quan, khích bác hoặc chê bai”(Fratelli Tutti, 223). Đôi khi để trao tặng niềm hy vọng, chỉ cần là một người tử tế, “sẵn sàng bỏ qua những bận tâm và việc cần làm ngay của mình để lưu tâm đến người khác, để trao tặng một nụ cười, để nói một lời động viên, để lắng nghe giữa một nơi chốn đầy vẻ dửng dưng (nt., 224).

Tình yêu là biểu hiện cao nhất của đức tin và niềm hy vọng của chúng ta, cần bước theo bước Chúa Kitô, trong việc quan tâm và động lòng thương mọi người. Tình yêu là bước nhảy vọt của con tim, đưa chúng ta ra khỏi chính mình và tạo nên mối liên kết chia sẻ và hiệp thông. Tình yêu là món quà mang lại ý nghĩa cho cuộc đời chúng ta.

Sống Mùa Chay với tình yêu, là quan tâm tới những người đau khổ hay cảm thấy bị bỏ rơi và sợ hãi vì đại dịch Covid-19. Trong bối cảnh tương lai vô cùng bất ổn, hãy ghi nhớ lời Chúa nói với tôi tớ Người: ”Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về”(Is 43,1) để với tình bác ái, chúng ta biết trao tặng những lời nói làm vững dạ an lòng và giúp người khác nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương họ như những người con.

Lạy Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse xin đồng hành với chúng con trong Mùa Chay Thánh này. Amen.

 

16.Mùa Chay 2022, mùa trở về--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

(Mt 6, 1-6; 16-18)

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta được nghe lại Thiên Chúa qua miệng ngôn sứ Giôen vang lên nghe thật tha thiết. Lời đầy yêu thương ấy phát xuất từ trái tim đầy của một Vì Thiên Chúa tình yêu kèm theo cánh tay mở rộng vẫy mời: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van”(Ge 2,12). Phải chăng chúng ta lầm đường lạc lối làm phiền lòng Chúa và đã đi quá xa khiến Thiên Chúa xót thương cho thân phận con người vì tình yêu vấn vương tạo dựng mà cất lời kêu gọi con người trở về?

Biết bao lần, vì khô khan biếng trễ xưng tội, rước lễ, bỏ đọc kinh, lười đi nhà thờ, bỏ lễ Chúa Nhật, hay viện cớ bận rộn, thờ ơ mà thưa với Chúa: “Lạy Chúa, sau này con sẽ đến với Chúa, xin Chúa đợi con… Hôm nay con không thể, nhưng ngày mai con sẽ bắt đầu cầu nguyện và làm điều gì đó cho người khác”. Và cứ thế, hết lần này, đến lần khác. Tuy nhiên, ngay bây giờ Chúa vẫn đang cất tiếng kêu gọi chúng ta “Hãy hết lòng trở về với Ta”(Ge 2,12). Trong đời sống thường này nơi dương thế, mỗi người chúng ta luôn có những việc phải làm và chúng ta có những lý do để thoái thác, nhưng hôm nay là lúc để trở về với Chúa.

Mùa Chay chúng ta bước vào đây không đơn thuần chỉ là ăn chay, cầu nguyện và làm phúc. Nhưng hơn thế nữa cần phải làm một cuộc kiểm duyệt lại đường đi cách sống của chúng ta trong tương quan với Chúa và tha nhân, ngay cả với chính bản thân mình nữa là trọng tâm của Mùa Chay. Chúng ta tự hỏi: lòng tôi đang hướng về đâu? Về Chúa hay quy về tôi? Tôi có sống để làm đẹp lòng Chúa, hay để được chú ý, khen ngợi, ưa thích, được chỗ nhất, v.v.? Tôi có tiến một bước, rồi lại lùi một bước không? Lúc tôi yêu Chúa và lúc khác tôi yêu thế gian. Tôi có hài lòng với thói đạo đức giả của mình không, hay tôi đang đấu tranh để giải thoát trái tim mình khỏi sự giả tạo và giả dối đang trói buộc tâm hồn tôi?

Mùa Chay là thời gian để giải thoát bản thân khỏi ảo ảnh đuổi theo cát bụi. Mùa Chay giúp chúng ta nhận ra rằng, chúng ta được tạo thành vì Chúa, chứ không phải vì thế gian; vì sự vĩnh cửu của thiên đàng, chứ không phải vì sự tạm thời trần thế; vì tự do của con cái Chúa, chứ không phải để làm nô lệ cho vạn vật.

Chủ đề sứ điệp Mùa Chay năm 2022 được lấy từ Thư Galát, đoạn 6, câu 9 và 10 công bố sáng hôm 24 tháng Hai, với chủ đề là: “Chúng ta đừng nản chí khi làm điều thiện; thực vậy, nếu chúng ta không nản lòng, khi đến giờ chúng ta sẽ gặt được gặt hái. Vậy bao lâu còn cơ hội, chúng ta hãy làm điều thiện cho tất cả mọi người”(x. PHANXICÔ, Sứ điệp Mùa Chay, 2022).

Đức Thánh cha Phanxicô kêu gọi các tín hữu đáp lại ơn gọi trở thành những “cộng tác viên của Thiên Chúa”(1 Cr 3,9) bằng cách tận dụng thời hiện tại để gieo vãi qua việc làm điều thiện cho bản thân và tha nhân.

Dựa vào lời của thánh Phaolô tông đồ. Ngài nhận định rằng: “Trong cuộc sống chúng ta, quá nhiều khi sự tham lam và kiêu hãnh, ham muốn sở hữu, tích trữ và tiêu thụ, như người ngu dại trong dụ ngôn Tin mừng, nghĩ rằng cuộc đời mình được an toàn và hạnh phúc nhờ tích trữ đầy kho lẫm”(x. Lc 12,16-21). Mùa Chay mời gọi chúng ta hoán cải, thay đổi não trạng, nhờ đó cuộc sống có sự thật và được đẹp đẽ không phải để sở hữu nhưng là cho đi, không phải để tích trữ cho bằng gieo vãi điều thiện và chia sẻ.

Đức Thánh cha cũng nhận xét rằng: “Chính khi gieo vãi để mưu ích cho tha nhân, chúng ta tham gia vào lòng đại đảm của Thiên Chúa… Sự gieo vãi mưu ích cho tha nhân giải thoát chúng ta khỏi những tiêu chuẩn hẹp hòi của lợi lộc bản thân và mang lại cho hành động của chúng ta sắc thái nhưng không, quảng đại, tháp nhập chúng ta vào chân trời tuyệt diệu của những kế hoạch từ nhân của Thiên Chúa”(x. PHANXICÔ, Sứ điệp Mùa Chay, 2022).

Đức Thanh Cha kêu gọi các tín hữu kiên trì cầu nguyện, loại trừ sự ác khỏi đời sống, siêng năng lãnh nhận Bí tích giao hòa đề cầu xin Chúa thứ tha, gia sức chống lại sự đam mê và ham muốn thúc đẩy chúng ta đi tới ích kỷ và mọi sự ác khác. Đức Thánh Cha cũng cảnh giác con cái mình về sự nghiện ngập các phương tiện kỹ thuật số làm cho các tương quan giữa con người trở nên nghèo nàn. Ngài viết: “Mùa Chay là mùa thuận tiện để chống lại những cám dỗ vừa nói và vun trồng một sự đả thông toàn diện hơn với con người, bằng những cuộc gặp gỡ thực sự, diện đối diện”(x. PHANXICÔ, Sứ điệp Mùa Chay, 2022).

Sau cùng, Đức Thánh cha khẳng định rằng: “Nếu trọn cuộc sống của chúng ta là thời kỳ gieo vãi điều thiện, chúng ta hãy đặc biệt tận dụng Mùa Chay để chăm sóc những người ở gần, trở nên gần gũi với những anh chị em bị thương tổn trên đường đời”(x. Lc 10,25-37). Mùa Chay là thời điểm thuận tiện để tìm kiếm, và không tránh né những người đang túng thiếu, cần được giúp đỡ, để gọi thăm chứ không làm ngơ đối với người cần được lắng nghe và mong được một lời nói tốt lành, để viếng thăm chứ không bỏ rơi người đang đau khổ vì cô đơn… Hãy dành thời giờ để yêu mến những người bé nhỏ nhất và không được bảo vệ, những người bị bỏ rơi và khinh rẻ, bị kỳ thị và gạt ra ngoài lề (x. Fratelli tuti, số 193).

Sống Mùa Chay với tình yêu, là quan tâm tới những người đau khổ hay cảm thấy bị bỏ rơi và sợ hãi vì chiến tranh và đại dịch. Trong bối cảnh tương lai vô cùng bất ổn, hãy ghi nhớ lời Chúa nói với tôi tớ Người: “Đừng sợ, vì Ta đã chuộc ngươi về”(Is 43,1) để với tình bác ái, chúng ta biết trao tặng những lời nói làm vững dạ an lòng và giúp người khác nhận ra rằng Thiên Chúa yêu thương họ như những người con.

Lạy Mẹ Maria và Thánh Cả Giuse xin đồng hành với chúng con trong Mùa Chay Thánh này. Amen.

 

17.Ăn chay, cầu nguyện và làm phúc--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Để giúp con cái mình lĩnh được nhiều ơn ích. Ngoài những phương thế Giáo hội vẫn đề ra như: ăn chay, cầu nguyện và làm phúc, vị cha chung của Giáo hội là Đức Thánh Cha còn ban hành sứ điệp như là kim chỉ nam để các tín hữu sống trong Mùa Chay Thánh.

Mùa Chay năm nay với chủ đề trích từ Tin Mừng theo thánh Mathêu: “Vì sự ác lan tràn, tình yêu của nhiều người trở nên nguội lạnh”(Mt 24, 12).

Chúa Giêsu nói câu này khi trả lời câu hỏi của các môn đệ. Ngài loan báo sẽ có sự sầu muộn lớn và mô tả tình trạng cộng đồng tín hữu có thể lâm vào: đó là đứng trước những biến cố đau thương, một số tiên tri giả sẽ lường gạt nhiều người đến độ đe dọa làm cho tâm hồn họ bị tắt lịm lòng mến là trung tâm của toàn thể Tin Mừng.

 Đức Thánh Cha giải thích rằng những tiên tri giả lợi dụng cảm xúc của con người để biến họ thành nô lệ.. Bao nhiêu người sống như bị mê hoặc vì tiền bạc, khiến họ trở thành nô lệ lợi lộc nhỏ nhen. Họ sống mà chỉ nghĩ đến mình và rơi vào tình trạng cô độc.

Có những tiên tri giả khác như những “lang băm”, cống hiến những giải pháp đơn giản và tức thời cho những đau khổ, nhưng thực ra những liều thuốc này hoàn toàn vô hiệu: bao nhiêu người trẻ tìm phương dược giả dối trong ma túy, trong những quan hệ “dùng rồi bỏ”, kiếm tiền dễ dàng một cách bất chính..

Bước vào Mùa tập luyện chiến đấu thiếng liêng, ba việc nên làm trong Mùa Chay là: Ăn chay, Cầu nguyện và bố thí. Ba việc ấy diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay.

Trong sứ điệp, Đức Thánh Cha cổ võ các tín hữu trong mùa chay này hãy cầu nguyện, làm phúc bố thí và chay tịnh cho nên, vì đó là những phương dược ngọt ngào trong Mùa Chay Thánh.

Cầu nguyện giúp tâm hồn chúng ta khám phá những gian dối bí mật chúng ta thường dùng để đánh lừa chính mình, để chúng ta đi tìm kiến sự an ủi trong Thiên Chúa là Cha và là Đấng muốn cho chúng ta được sống.

Làm phúc bố thí giải thoát chúng ta khỏi sự ham hố và giúp chúng ta khám phá ra tha nhân là anh chị em chúng ta: điều chúng ta sở hữu không phải chỉ là của chúng ta. Đức Thánh Cha cho biết ngài “ước mong việc làm phúc được biến thành lối sống đích thực của mỗi người”.

Sau cùng là việc ăn chay. Việc giữ chay sẽ giải tỏa bạo lực của chúng ta, và là cơ hội quan trọng để tăng trưởng. Chay tịnh cũng giúp chúng ta cảm nghiệm điều mà nhiều người khác đang thiếu thốn, thiếu những điều cần thiết và bị đói. Chay tịnh biểu lộ tình trạng tinh thần của chúng ta, đang đói khát lòng từ nhân và sự sống của Thiên Chúa. Chay tịnh đánh thức và làm cho chúng ta chú ý hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân, thúc đẩy ý chí vâng phục Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể thỏa mãn sự đói khát của chúng ta.

Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa.

Bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM). Để sống đức ái trọn vẹn, mọi thành phần dân Chúa cần thực hành theo 3 phương thức mà Đức Thánh Cha Phanxicô đề nghị trong Sứ điệp Mùa Chay năm nay. 

Lạy Chúa Thánh Thần xin Ngài ngự xuống, nâng đỡ những quyết tâm của chúng con trong suốt Mùa Chay Thánh này. Amen.

 

18.Suy niệm Thứ Tư Lễ Tro (Mt 6, 1-6; 16-18)-- Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Hôm nay, toàn thể Giáo hội bước vào Mùa Chay Thánh, một khởi đầu mới thúc giục chúng ta hoán cải dẫn đến mục tiêu chắc chắn là Phục Sinh, chiến thắng của Chúa Kitô đối với sự chết. Mùa Chay là mùa thuận lợi để đi sâu vào đời sống thiêng liêng nhờ những phương tiện thánh hóa Giáo hội đã đem đến cho chúng ta: ăn chay, cầu nguyện và bố thí là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay. Những việc chúng ta làm phải xuất phát từ cái tâm sâu thẳm hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: “tự nhịn bất kỳ thức ăn nào”. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình”trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối như tác giả Thánh vịnh nói: ”Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện”( Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: ”Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa”(x. Tl 20, 26); “Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống!”(2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”. (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: “Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”… Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? ”(x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.

Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: ”Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người”(Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vì khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng”(1 Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn, có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì. Vì thế cần phải:

Nghe và thực hành lời Chúa dạy

“Lời Chúa là một hồng ân. Tha nhân là một hồng ân”là chủ đề của Sứ điệp Mùa Chay năm nay 2017. Khi trưng dẫn đoạn Tin Mừng Luca (16, 19-31) để quảng diễn, Đức Thánh Cha viết: Dụ ngôn bắt đầu bằng việc giới thiệu hai nhân vật chính. Người nghèo được mô tả chi tiết hơn: người ấy thật tồi tàn và không đủ sức để đứng lên. Nằm trước cửa nhà người giàu có, anh ăn những vụn bánh từ bàn của người ấy rơi xuống. Thân thể anh đầy lở loét và mấy con chó đến liếm những vết thương của anh (x. c 20-21). Một bức tranh về nỗi khốn cùng; vẽ nên một con người hèn hạ và đáng thương. Chi tiết “người phú hộ vận toàn gấm vóc, lụa là, ngày ngày yến tiệc linh đình”(Lc 16, 19) tương phản với ”anh Lagiarô nghèo”(Lc 16, 20). Cuối cùng cả người giàu và người nghèo đều chết, và phần quan trọng hơn của dụ ngôn này diễn ra ở đời sau. Hai nhân vật bỗng nhiên khám phá ra rằng “chúng ta đã chẳng mang gì vào trần gian này, thì cũng chẳng mang gì ra được”(1 Tm 6, 7).

Đức Thánh Cha kết luận: Gốc rễ của mọi bất hạnh của ông là không chịu nghe lời Chúa. Kết quả là ông không còn yêu mến Thiên Chúa và càng ngày càng khinh miệt người thân cận của mình. Lời Chúa thì sống động và mạnh mẽ, có khả năng biến đổi những cõi lòng và đưa chúng trở về với Chúa. Khi chúng ta đóng cửa lòng mình trước hồng ân lời Chúa, thì rốt cuộc chúng ta cũng sẽ đóng cửa lòng mình trước hồng ân là những anh chị em của chúng ta.

Vậy, để khám phá hồng ân Lời Chúa, được thanh tẩy khỏi tội lỗi đã làm cho chúng ta ra mù loà, và phục vụ Chúa Kitô hiện diện trong những anh chị em của chúng ta đang túng thiếu. Chúng ta hãy xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình hoán cải thật sự, quyết tâm thực hiện sự đổi mới thiêng liêng này bằng cách tham gia các Chiến dịch Mùa Chay được nhiều tổ chức Giáo hội phát động, để thăng tiến nền văn hóa gặp gỡ trong gia đình nhân loại duy nhất của chúng ta

Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.

 

19.Bước vào mùa luyện nhân đức để chiến thắng tội lỗi--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Lễ Tro, khai mạc Mùa Chay Thánh, bằng nghi thức làm phép tro và mỗi người nhận tro trên đầu, cùng lúc đó sẽ nghe được một trong hai câu Lời Chúa: Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng, hoặc: Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi (SLRM).

Mỗi khi Mùa Chay về, chúng ta nghe văng vẳng bên tai lời Chúa mời gọi: “Các ngươi hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van”(Joel 2,12).

Như thế, hai ý tưởng trong Mùa Chay Thánh luôn song hành với nhau, thứ nhất: chúng ta là những con người yếu đuối, tội lỗi; thứ hai: Thiên Chúa là Người Cha giàu lòng thương xót, Ngài luôn yêu thương chúng ta, Ngài sẵn sàng tha thứ và ban cho chúng ta sức mạnh với tình thương. Vì yếu đuối nên cần đến ơn Chúa, vì tội lỗi nên muốn được Chúa thứ tha, nhưng để lãnh nhận được ơn tha thứ thì cẩn phải trở về với Thiên Chúa trong cầu nguyện, trong chay tịnh và nước mắt, hướng tới tha nhân. Đó là ba việc phải làm trong Mùa Chay Thánh.

Ăn chay

Cầu nguyện

Và bố thí

Là ba việc cần phải làm trong Mùa Chay, vì nó diễn tả ba chiều kích, ba mối tương quan giữa đương sự với Thiên Chúa và với anh em. Tương quan với Thiên Chúa là cầu nguyện, với tha nhân là bố thí và với chính mình là ăn chay. Ba tương quan này đồng hành với nhau và thể hiện cùng một lúc trong đời sống thường nhật của người kitô hữu.

Để ba tương quan này gắn kết với nhau, điều kiện đã được Chúa Giêsu nói rõ đó là: nội tâm. Những việc chúng ta làm trong Mùa Chay xuất phát từ sâu thẳm của tâm hồn hướng lên Thiên Chúa và hướng đến anh em, chứ không phải là hình thức bên ngoài. Vì thế, ăn chay, cầu nguyện cũng như bố thì là những việc được làm vì đẹp lòng Chúa, chứ không phải cho người ta thấy.

Trước hết phải khiêm nhường

Ăn chay, tiếng La tinh là jejunium, nghĩa là: “Tự nhịn bất kỳ thức ăn nào”. Khi nhịn chay, con người nhận ra mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, “hạ mình” trước mặt Chúa, vì cảm thấy mình mỏng giòn, yếu đuối  như tác giả Thánh vịnh nói: “Phần tôi, những ngày chúng đau yếu, tôi đã từng khoác áo nhặm vào thân, lại ăn chay để hãm mình phạt xác, lòng tôi ấp ủ câu kinh lời nguyện”( Tv 34, 13).

Khiêm nhường khi ăn chay còn để Chúa thấy rằng chúng ta chẳng là gì nếu không có Chúa và thiết tha kêu cầu Chúa: “Bấy giờ tất cả con cái Ít-ra-en và toàn dân đã lên Bết Ên; họ ngồi khóc tại đây trước nhan Ðức Chúa. Hôm ấy họ ăn chay cho đến chiều. Rồi họ dâng lễ toàn thiêu và lễ kỳ an lên trước nhan Ðức Chúa”(x. Tl 20, 26); “Vua Ða-vít cầu khẩn Thiên Chúa cho đứa trẻ, vua ăn chay nhiệm nhặt, và khi về nhà ngủ đêm thì nằm dưới đất; Vua trả lời: “Bao lâu đứa bé còn sống, ta ăn chay và khóc lóc vì ta tự bảo: “Biết đâu Ðức Chúa sẽ thương xót ta và đứa bé sẽ sống! “(2 S 12, 16.22), nhất là nhận biết mình là tội lỗi, là hư vô và cầu xin ơn Chúa tha: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”. (Dn 9, 3). Việc giữ chay thể xác chỉ có ý nghĩa khi nhịn ăn đi kèm với việc trách xa tội lỗi: “Chúng nói: “Chúng tôi ăn chay, sao Ngài không thấy, chúng tôi hãm mình, sao Ngài chẳng hay?”... Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Ðức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc,trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm?”(x. Is 58, 1-12), nếu không nó chỉ là phô trương.

Đừng phô trương

Chính Chúa Giêsu đã cảnh báo: “Các người hãy cẩn thận, đừng phô trương công đức trước mặt người ta để cho thiên hạ trông thấy…khi các người bố thí, thì đừng thổi loa báo trước, như bọn giả hình làm ở nơi hội đường và phố xá, để cho người ta ca tụng… Các ngươi có bố thì, thì làm sao đừng để tay trái biết việc tay phải làm, để việc ngươi bố thí được giữ kín. Và Cha ngươi, Đấng thấu suốt mọi bí ẩn, sẽ trả công cho người”(Mt 6, 1-6).

Trong Kinh Thánh, Chúa tố cáo mạnh nhất cái vẻ bề ngoài, hay là giả hình. Vì khi giả hình, con người giáng cấp Thiên Chúa, họ đặt Ngài xuống hàng thứ hai, đặt tạo vật, công chúng lên chỗ nhất: “Người phàm chỉ thấy điều mắt thấy, còn Đức Chúa thí thấy tận đáy lòng”(1Sm 16, 7). Trau dồi dáng vẻ bên ngoài của chúng ta hơn tâm hồn chúng ta có nghĩa là coi người phàm trọng hơn Thiên Chúa.

Như vậy, vẻ bề ngoài hay sự giả hình tự bản chất là một sự thiếu đức tin: nhưng đó cũng là một sự thiếu đức bác ái đối với tha nhân theo nghĩa nó có xu hướng qui những con người thành những kẻ say mê. Sự giả hình không công nhận phẩm giá thích đáng của họ, nhưng thấy họ tùy thuộc hình ảnh của chính mình. Thiếu đức tin và thiếu đức bác ái, việc làm sẽ trở nên vô ích, nên không có được công phúc gì.

Thực hành bác ái

Sống mùa Chay Thánh, ngoài việc ăn chay, cầu nguyện, chúng ta còn phải thực hành bác ái. Ăn chay để giảm bớt những chi tiêu, giảm bớt những ham muốn của xác thịt… Cầu nguyện để gặp được Chúa, để hướng về hạnh phúc đời sau. Làm việc bác ái để cảm nhận, để xót xa và để làm xoa dịu những nỗi thống khổ vất vả nơi những mảnh đời thật sự đau thương cần ta trợ giúp.

Tóm lại, mùa Chay hàng năm là dịp để ta hướng lòng lên Thiên Chúa và mở lòng ra với tha nhân trong tình yêu thương. Như vậy ăn chay mà lòng không hướng về Chúa, không cầu nguyện thì chưa phải là ăn chay đúng ý hướng của Giáo hội. Vừa ăn chay vừa cầu nguyện mà không làm việc bác ái thì thiếu đi tình người, thiếu đi lòng thương xót đối với những mảnh đời đang thật sự cần ta trợ giúp. Vì thế, chủ đề của sứ điệp Mùa Chay năm nay lấy từ thư của thánh Phaolô gởi giáo đoàn Rôma: “Muôn loài thọ tạo những ngong ngóng đợi chờ ngày Thiên Chúa mặc khải vinh quang của con cái Người.”(Rm 8,19). Đức Giáo hoàng Phanxicô dạy: “Chay tịnh, nghĩa là học cách thay đổi thái độ của chúng ta đối với người khác và tất cả những loài thọ tạo, học cách từ bỏ cám dỗ “nuốt chửng”mọi thứ để thỏa mãn lòng khao khát tham lam của chúng ta và sẵn sàng chịu đựng cho tình yêu, là điều có thể lấp đầy sự trống rỗng trong con tim chúng ta. Lời cầu nguyện dạy chúng ta từ bỏ thói thờ ngẫu tượng và sự tự mãn của bản ngã, giúp ta nhìn ra rằng chúng ta cần đến Chúa và lòng thương xót của Ngài. Việc bố thí, nhờ đó chúng ta thoát khỏi sự điên rồ của việc tích trữ mọi thứ cho bản thân với niềm tin viễn vông rằng chúng ta có thể bảo đảm cho mình một tương lai không hề thuộc về chúng ta. Và như thế, chúng ta có thể tái khám phá niềm vui trong chương trình của Chúa dành cho sáng tạo và cho mỗi người chúng ta, đó là yêu mến Người, anh chị em của chúng ta, và toàn bộ thế giới, và tìm thấy nơi tình yêu này hạnh phúc đích thực của chúng ta”(Trích Sứ Điệp Mùa Chay 2019).

Vào cuối sứ điệp, Đức Giáo hoàng khuyên chúng ta rèn nhân đức để chiến thắng tội lỗi: “Chúng ta hãy bỏ lại sau lưng tính ích kỷ và sự tự hấp thụ vào chính mình, nhưng hướng đến sự Phục sinh của Chúa Giêsu. Chúng ta hãy đứng bên cạnh những anh chị em đang túng thiếu của chúng ta, chia sẻ những của cải tinh thần và vật chất của chúng ta với họ. Nhờ thế, khi chào đón vào cuộc sống của chúng ta một cách cụ thể chiến thắng của Chúa Kitô trên tội lỗi và cái chết, chúng ta cũng sẽ phản chiếu ánh quang rạng rỡ quyền năng biến đổi của chiến thắng ấy cho tất cả các tạo vật”(Trích Sứ Điệp Mùa Chay 2019).

Xin Chúa Thánh Thần nâng đỡ những quyết tâm của chúng ta trong suốt hành trình của Mùa Chay Thánh này cho nên. Amen.

 

20.Hãy xé lòng, chứ đừng xé áo--Lm Đan Vinh

Ge 2,12-18 ; 2 Cr 5,20-6,2 ; Mt 6,1-6.16-18

I. HỌC LỜI CHÚA

1. TIN MỪNG: Mt 6,1-6.16-18

(1) Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời ban thưởng. (2) Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (3) Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, (4) để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (5) Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: Chúng đã được phần thưởng rồi. (6) Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh. (16) Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: Chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. (17) Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, (18) để không ai thấy là anh ăn chay, ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh.

2. Ý CHÍNH:

Đức Giê-su đòi môn đệ phải làm các việc đạo đức như bố thí, cầu nguyện và ăn chay theo tinh thần mới của Người:

Điều quan trọng là phải làm các việc này trong sự khiêm tốn: Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để được khen có lòng bác ái; Tránh cầu nguyện ở chỗ đông người để được đánh giá là có lòng đạo đức; Tránh ăn chay với vẻ mặt thiểu não để được ca tụng có tinh thần hy sinh hãm mình.

3. CHÚ THÍCH:

- C 2-4: + Bố thí: Thời Đức Giê-su, bố thí là việc công chính bậc nhất (x. Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới thái độ phô trương bề ngoài, nhằm để được người khác ca tụng. + Đừng có khua chiêng đánh trống: Rất có thể những người Pha-ri-sêu thời bấy giờ dùng chiêng trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để khuyến cáo môn đệ phải khiêm tốn khi làm các việc đạo đức. + Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm khoe khoang. Do đó, họ sẽ không được công phúc thiêng liêng trước mặt Thiên Chúa sau này. + Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm”: Là một kiểu nói có nghĩa là cần phải giữ kín, không cho người khác biết việc tốt mình đang làm.

- C 5-6: + Cầu nguyện: Chính Đức Giê-su đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo Người thì lời cầu nguyện phải có những đặc tính sau: Phải khiêm tốn trước Thiên Chúa và người đời (x. Lc 18,10-14; Mt 6,5-6); Phải chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x. Mt 6,7); Phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa (x. Mt 6,8 ; 7,7-11) và phải kiên trì nài xin (x. Lc 11,5-8; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được nhận lời khi cầu xin với lòng tin mạnh (x. Mt 21,22), cầu xin nhân danh Đức Giê-su (x. Mt 18,19-20), và cầu xin những ơn thực sự ích lợi cho phần rỗi đời đời (x. Mt 7,11). + Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giê-su không đả kích việc cầu nguyện công khai và cộng đồng (x. Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ trích ý đồ của người cầu nguyện là muốn phô trương công đức để được người đời ca tụng. + Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giê-su gợi lại cách thức của ngôn sứ Ê-li-a cầu nguyện khi làm phép lạ (x. 2V 4,33).

- C 16-18: + Ăn chay: Đã từ rất lâu, dân Ít-ra-en có tục ăn chay mỗi khi có tang chế (x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2Sm 12,16). Ăn chay theo luật Mô-sê là nhịn ăn uống vào ban ngày. Trong thời gian ăn chay, người ta không được tắm rửa, phải để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo bằng vải thô đặc biệt. Thời Đức Giê-su, dân Do thái chỉ buộc phải ăn chay trong ngày lễ Xá tội (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), và trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá hoặc trong những lúc gặp thiên tai. Riêng các người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay thêm mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12). + Còn anh, khi ăn chay...: Đức Giê-su muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự khiêm tốn: thay vì rắc tro lên đầu, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn...như người Biệt phái thường làm, thì họ cứ rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm như mọi ngày khác, để cho người ta không biết mình đang ăn chay.

4. CÂU HỎI: 

1) Hãy cho biết ba việc đạo đức người Do thái đạo đức quen làm là những việc gì? 2) Theo Đức Giê-su: cầu nguyện đúng đắn phải có những đặc tính nào? Muốn đạt được hiệu quả thì lời cầu nguyện phải có những điều kiện nào? 3) Luật Mô-sê dạy dân Do thái ăn chay như thế nào? 4) Thời Đức Giê-su, dân Do thái buộc ăn chay những ngày nào? Và người Pha-ri-sêu thì ăn chay những ngày nào? 5) Đức Giê-su dạy môn đệ phải ăn chay cách nào để làm đẹp lòng Thiên Chúa?

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Còn anh khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”(Mt 6,4).

2. CÂU CHUYỆN:

1) ĂN CHAY LÀ QUẢNG ĐẠI BỎ TIỀN GIÚP ĐỠ NGƯỜI NGHÈO:

Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê. Một hôm nó đi lang thang trong nhà thờ để kiếm cái gì ăn cho đỡ đói. Bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn như nó. Thế là hai con chuột liền làm quen với nhau và hỏi thăm chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong ngôi nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ!”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn và nói: “Vậy thì bồ hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị người ta quấy rầy!”Chuột thứ nhất ngạc nhiên hỏi: “Có một chỗ ở như thế thật ư? Vậy bạn hãy cho tớ biết là chỗ nào vậy? “. Chuột thứ hai liền đáp: “Đó là trong thùng quyên góp giúp người nghèo. Nó nằm ngay tại cuối nhà thờ này đấy!”

2) ĂN CHAY LÀ HÀNH ĐỘNG BÁC ÁI BIẾT NGHĨ ĐẾN THA NHÂN:

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.

Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và khát nước, nhưng theo luật ăn chay nghiêm ngặt nên không ai dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai của mình ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi để tỏ lòng cám ơn thày. Thày ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì mình đã không hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà lại có đến hai ngôi sao sáng cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương người khác của thày, Chúa đã cho thêm một ngôi sao nữa.

3) ĂN CHAY LÀ THÀNH TÂM SÁM HỐI VÀ GIÚP TỘI NHÂN HOÁN CẢI:

Thời ngôn sứ Gio-na, Đức Chúa truyền cho ông hãy đi loan báo cho dân thành Ni-ni-vê đang sống bê tha tội lỗi về các tai ương mà Ngài sắp giáng xuống trên cả thành nếu họ không cấp thời sám hối. Lúc đầu Gio-na chạy trốn Đức Chúa nên con thuyền ông đi trốn Chúa đã gặp bão lớn. Khi ông bị các người trên thuyền quăng xuống biển thì cơn bão mới yên. Sau đó một con cá lớn đã đớp lấy ông nuốt vào bụng và ba ngày sau nó nhả ông ra nằm trên bãi biển. Tỉnh dậy ông biết mình đang nằm trên bãi cát thuộc địa giới thành Ni-ni-vê. Ông đã tuân phục ý Chúa và bắt đầu sứ mạng rao giảng kêu gọi dân thành Ni-ni-vê ăn năn sám hối. Nghe ông rao giảng và chứng kiến phép lạ ông ở trong bụng cá ba đêm ngày, thì từ vua đến dân đều ăn năn sám hối: “Vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô và ngồi trên tro”(Gn 3, 6). Nhờ đó thành Ni-ni-vê đã được Đức Chúa xá tội và không giáng phạt.

4) ĂN CHAY LÀ TÍCH CỰC GÓP PHẦN XÂY DỰNG HOÀ BÌNH:

Ngày 22/01/2008, O-mar O-sa-ma Bin La-den, người con trai thứ tư của ông trùm khủng bố O-sa-ma Bin La-den đã nhắn tin yêu cầu cha hãy chấm dứt bạo động mà ông là người xướng xuất. Loại bạo động của Al-Qaeda là thực hiện hàng loạt vụ khủng bố trên khắp thế giới. Các vụ khủng bố này đã giết chết rất nhiều thường dân vô tội, bao gồm cả trận tấn công nổi tiếng ngày 11-9-2001 bằng việc cướp phi cơ và buộc phi công lái đâm vào toà nhà Trung Tâm Thương Mại Thế Giới tại Hoa Kỳ.

O-mar nói rõ: “Bom là không tốt để sử dụng với bất cứ ai. Cha hãy thay đổi cách hành động”. Ðó chính là thông điệp mà con trai của ông trùm khủng bố O-sa-ma Bin La-den muốn gửi đến cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này tiếp tục nhuốm máu người dân vô tội. Anh muốn cha anh hãy cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá làm người.

3. THẢO LUẬN: Trong kinh “cải tội bảy mối có bảy đức”, bạn thấy mình thường hay sai phạm mối tội đầu nào nhất? Bạn sẽ làm gì để chừa bỏ thói xấu ấy trong Mùa Chay năm nay?

4. SUY NIỆM:

Hội thánh cử hành nghi thức làm phép và xức tro để khai mạc Mùa Chay Thánh. Trong nghi lễ xức tro, Hội Thánh nhắc nhở mọi tín hữu: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro. Một mai người sẽ trở về bụi tro”. Khi lãnh tro lên đầu là chúng ta nhận mình chỉ là tro bụi như tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã cầu nguyện với Đức Chúa: ”Con chỉ là thân tro bụi”(St 18, 27), đồng thời chúng ta cũng bày tỏ lòng sám hối và tin vào Tin Mừng của Đức Giê-su như lời Người dạy: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1, 14).

1) BA VIỆC NÊN LÀM MÙA CHAY LÀ BỐ THÍ, CẦU NGUYỆN VÀ ĂN CHAY:

a) Bố thí kín đáo:

- Các việc đạo đức cần phải đi đôi với lòng mến Chúa yêu người mới có giá trị trước mặt Thiên Chúa như lời thánh Phao-lô: ”Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(1 Cr 13,3).

- Bố thí là chia sẻ cơm bánh vật chất cho những người nghèo đói. Nhưng cần tránh phô trương, mà làm cách kín đáo: ”Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”.

b) Cầu nguyện âm thầm:

- Cầu nguyện là dấu hiệu của đức tin. Bao lâu người ta còn cầu nguyện thì còn chứng tỏ họ đang có đức tin. Khi thôi không cầu nguyện nữa cho thấy đức tin của họ đã chết như lời thánh Gia-cô-bê dạy: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”(Gc 2,17).

- Lời cầu nguyện cần mang đặc tính khiêm tốn, chân thành, tin tưởng vào lòng nhân từ của Thiên Chúa và với sự kiên trì. Lời cầu nguyện chỉ được Chúa chấp nhận nếu cầu xin kèm theo đức tin mạnh, cầu xin nhân danh Đức Giê-su và cầu xin các ơn lành hồn xác thực sự mang lại ích lợi cho phần rỗi đời đời (x. Mt 7,11).

c) Ăn chay hãm mình:

- Ngay từ thời các vua, dân Ít-ra-en đã có thói quen ăn chay mỗi khi có tang chế (x. 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá hoặc trong những lúc gặp thiên tai. Đến thời Chúa Giê-su, các người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12).

- Về cách thức ăn chay: Luật Mô-sê quy định ăn chay là tự nguyện nhịn ăn uống vào ban ngày. Trong thời gian ăn chay, người ta không được tắm rửa, phải để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo đặc biệt bằng vải thô. Luật buộc ăn chay trong ngày lễ Xá tội (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9). Đức Giê-su dạy môn đệ phải ăn chay trong sự khiêm hạ: thay vì rắc tro lên đầu, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn...như người Biệt phái thường làm, thì hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm như các ngày khác, để người ngoài không biết mình đang hãm mình đền tội. Chỉ cần Thiên Chúa thấu suốt và sẽ ban ơn cứu độ đời đời cho chúng ta.

2) CHÚNG TÔI PHẢI LÀM GÌ?

a) Tránh ăn chay hình thức vụ luật và phô trương:

- Có những người ăn chay vụ luật hoặc vì sợ bị Chúa phạt: Những người này ăn chay để khỏi mắc tội. Do đó nếu trong ngày chay lỡ quên ăn vặt, ăn không đúng giờ... thì đâm ra lo lắng áy náy. Họ tính toán: Ngày mai ăn chay thì hôm nay sẽ ăn uống no say như thói tục “Thứ Ba Béo”của một số dân các nước Âu châu.

- Cũng có người trong ngày giữ chay tuy không ăn thịt, nhưng lại ăn đồ hải sản, tôm hùm, cá hồi… còn mắc tiền hơn thịt. Họ tuy giữ luật ăn chay nhưng thiếu tinh thần chay là hãm mình đền tội, nên việc ăn chay của họ không đẹp lòng Thiên Chúa.

b) Hãy thực thi công bình bác ái:

- Ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm lời Đức Chúa: “Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em?

- Nếu ngươi loại khỏi nơi ngươi ở gông cùm, cử chỉ đe doạ và lời nói hại người, nếu ngươi nhường miếng ăn cho kẻ đói, làm thoả lòng người bị hạ nhục, thì ánh sáng ngươi sẽ chiếu toả trong bóng tối, và tối tăm của ngươi chẳng khác nào chính ngọ. Đức Chúa sẽ không ngừng dẫn dắt ngươi, giữa đồng khô cỏ cháy, Người sẽ cho ngươi được no lòng; xương cốt ngươi, Người sẽ làm cho cứng cáp. Ngươi sẽ như thửa vườn được tưới đẫm, như mạch suối không cạn nước bao giờ”(Is 58,6-11).

3) MỘT SỐ VIỆC LÀM THIẾT THỰC:

a) Trong ngày Thứ Tư Tro, hãy đến nhà thờ để NHẬN TRO TRÊN ĐẦU. Trong nghi thức xức tro, Hội Thánh nhắn nhủ: “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi một mai người sẽ trở về bụi tro”; Hoặc: “Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin mừng”.

Nhận tro trên đầu như vậy là để bày tỏ lòng sám hối và quyết tâm cải tà quy chánh: Hãm dẹp các đam mê bất chính, các thói hư tật xấu, loại bỏ những hành vi ám muội làm mất lòng Chúa và phiền lòng anh em.

b) Luật Hội Thánh quy định việc ăn chay mỗi năm còn hai ngày là Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Không phải Hội Thánh coi thường việc ăn chay, nhưng muốn các tín hữu chú trọng nhiều hơn đến TINH THẦN CHAY TỊNH như sau:

Nhịn ăn một chén cơm không bằng nhịn nói một lời xúc phạm người khác.

Nhịn ăn một miếng thịt không bằng nhịn một cử chỉ khinh thường anh em.

Nhịn ăn một bữa cơm ngon không bằng nhường nhịn, tha thứ, sẵn sàng làm hòa với nhau.

Kiềm chế cơn đói không bằng kiềm chế cơn nghiện rượu, nghiện ma túy, nghiện cờ bạc, nghiện chơi games trên máy tính...

Kiềm chế cơn khát không bằng kiềm chế các dục vọng, loại bỏ thói tham lam và tính tự ái kiêu ngạo, tính thích gây hấn với người khác.

c) Ngôn Sứ Giô-en kêu gọi dân Do thái: “HÃY XÉ LÒNG CHỨ ĐỪNG XÉ ÁO”. Người Do-thái có tục lệ xé áo để biểu lộ lòng thống hối khi ăn chay. Người tín hữu hôm nay cần ý thức:

- Xé áo bề ngoài không bằng xé lòng khỏi thói tham lam, ăn ở bất công.

Xé lòng ra khỏi sự lười biếng, khô khan, nguội lạnh.

Xé lòng khỏi những dính bén danh lợi thú trần gian.

Xé lòng khỏi thói gian dối, đạo đức giả như người Biệt Phái.

Chỉ khi thực sự xé lòng như thế, ta mới gạt bỏ được những chướng ngại ngăn cản ta đến với Chúa; Mới đến gần Chúa, sống thân mật với Chúa và hưởng được tình thương bao dung của Chúa.

d) Ngoài ra, chúng ta hãy biến việc ăn chay thành HÀNH ĐỘNG BÁC ÁI CỤ THỂ. Mỗi ngày trong Mùa Chay, hãy bớt chi tiêu để gửi tiền giúp những nơi nghèo khổ, vùng bị thiên tai lũ lụt, vùng bị cách ly do dịch cúm Covid-19, đồng bào dân tộc vùng sâu vùng xa… Nhờ thế, việc ăn chay của ta sẽ không chỉ dừng lại ở hình thức bề ngoài, nhưng là những hy sinh hãm mình và những việc bác ái cụ thể phục vụ tha nhân.

5. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Cùng với toàn thể Hội thánh, chúng con đã bước vào Mùa Chay. Chúng con xin tạ ơn Chúa đã ban cho chúng con một thời kỳ thuận tiện để duyệt xét cuộc đời chúng con, hầu bù đắp những thiếu sót, sửa chữa những lệch lạc nơi con người chúng con. Xin Chúa hãy chiếu ánh sáng của Chúa trên chúng con, để chúng con quyết tâm đổi mới nên môn đệ đích thực của Chúa.- AMEN.

 

21.Lễ Tro--Làm việc lành trong khiêm hạ--Lm Đan Vinh

 (Ge 2,12-18; 2Cr 5,20-6,2; Mt 6,1-6,16-18)

I. HỌC LỜI CHÚA

Ý CHÍNH:

Sau khi trình bày về sự công chính mới trong việc tuân giữ các giới răn, Đức Giê-su đề cập tới một nền đạo đức mới là phải làm các việc lành thế nào cho phù hợp với tinh thần mới của Người. Điều cốt yếu khi làm các việc đạo đức là phải khiêm tốn và theo thánh ý Chúa Cha: Tránh làm các việc đạo đức như cầu nguyện để được người ta ca tụng; Tránh khua chiêng đánh trống khi bố thí để tìm tiếng khen nơi người đời; Tránh làm bộ mặt rầu rĩ thiểu não khi ăn chay để cho thiên hạ nể phục.

CHÚ THÍCH:

- C 1-2: + Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng. Chớ có phô trương cho thiên hạ thấy: Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ của Người phải tránh thói đạo đức giả hình của các người Pha-ri-sêu (Biệt Phái), là những kẻ “nói mà không làm”, “làm mọi việc cốt để cho thiên hạ thấy”(x Mt 23,3.5). + Bố thí: Thời Đức Giê-su, bố thí là việc công chính bậc nhất (x Hc 7,10). Hình như người ta ưa làm việc bố thí công khai, nên dễ đưa tới sự phô trương bề ngoài để được người khác ca tụng. + Đừng có khua chiêng đánh trống: Rất có thể những người Pha-ri-sêu thời bấy giờ dùng chiêng trống để loan báo cho người ăn xin nghèo khó tập trung lại nhận quà. Tuy nhiên, không thấy bản văn nào nói đến việc này. Do đó, ta có thể coi đây chỉ là một ví dụ có tính phóng đại để làm nổi bật đòi hỏi tinh thần khiêm tốn, mà Đức Giê-su muốn các môn đệ của Người phải có, khi làm các việc đạo đức. + Chúng đã được phần thưởng rồi: Lời khen của người đời chính là phần thưởng dành cho những ai làm việc bố thí chỉ nhằm mục đích tự nhiên. Do đó, họ sẽ không được hưởng công phúc thiêng liêng trước mặt Chúa Cha trên trời.

- C 3-4: + Đừng “cho tay trái biết việc tay phải làm”: Là một kiểu nói có nghĩa là phải giữ kín, đừng nói cho người khác biết việc mình đang làm. Người môn đệ Đức Giê-su không những phải tránh cho mọi người hay biết việc bố thí của mình, nên cần thực hiện trong âm thầm khiêm tốn.

- C 5-6: + Cầu nguyện: Chính Đức Giê-su đã làm gương và dạy các môn đệ về sự cầu nguyện (x. Mt 14,23). Theo các huấn thị của Người rải rác trong các Tin Mừng thì lời cầu nguyện phải như sau: Phải cầu nguyện cách khiêm tốn trước mặt Thiên Chúa (x Lc 18,10-14) và người đời (x Mt 6,5-6); Phải chân thành, phát xuất tự đáy lòng (x Mt 6,7); Phải tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa Cha (x Mt 6,8; 7,7-11) và kiên trì nài xin (x Lc 11,5-8; 18,1-8). Lời cầu nguyện sẽ chỉ được Chúa chấp nhận khi cầu nguyện với lòng tin (x Mt 21,22); Khi cầu nguyện nhân danh Đức Giê-su (x. Mt 18,19-20); và khi xin Chúa ban những điều tốt lành (x Mt 7,11). + Chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư cho người ta thấy: Ở đây Đức Giê-su không đả kích việc cầu nguyện công khai và có tính cộng đồng (x Mt 18,19-20), nhưng Người chỉ muốn tránh ý đồ phô trương công đức để được ca tụng. + Hãy vào phòng đóng cửa lại mà cầu nguyện cùng Cha của anh: Đức Giê-su gợi lại cách thức của ngôn sứ Ê-li-a khi ông cầu nguyện để làm cho đứa bé mới chết được sống lại (x 2 V 4,33). Cách thức cầu nguyện kín đáo này trái với cách phô trương của những kẻ giả hình. Cầu nguyện là gặp gỡ Thiên Chúa. “Vào phòng”là hồi tâm, đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa nhờ đức tin. Thiếu điều này sẽ không còn là sự cầu nguyện đích thực nữa.

- C 16-18: + Ăn chay: Đã từ rất lâu, dân Ít-ra-en có tục lệ ăn chay mỗi khi có tang chế (x 2 Sm 3,35), khi cầu xin Chúa một ơn đặc biệt (2 Sm 12,16). Ăn chay theo luật Mô-sê là nhịn ăn uống vào lúc ban ngày. Sự nhịn ăn uống này sẽ kéo dài trong một thời gian lâu hay mau tùy trường hợp. Trong thời gian ăn chay, người ta sẽ không tắm rửa, để râu tóc mọc dài, và mặc một loại quần áo vải thô đặc biệt. Thời Đức Giê-su, dân Do Thái chỉ buộc phải ăn chay trong lễ Xá Tội vào mùng mười tháng Bảy, tức khoảng cuối tháng Chín dương lịch (x. Lv 16,29-31; Cv 27,9), trong ngày kỷ niệm Đền thờ bị tàn phá và những lúc gặp thiên tai. Việc ăn chay này sẽ do các đầu mục quyết định. Riêng người Pha-ri-sêu còn tự nguyện ăn chay mỗi tuần hai lần (x. Lc 18,12), nhưng việc chay tịnh chỉ mang tính bề ngoài nhằm phô trương (x Mc 2,18), nên Đức Giê-su đã không chấp nhận sự khổ chế này của họ (x Mc 2,19-20). + Còn anh, khi ăn chay…: Đức Giê-su muốn cho các môn đệ của Người phải ăn chay trong sự kín đáo khiêm tốn: thay vì rắc tro lên mặt, để râu tóc bù xù, quần áo dơ bẩn… thì họ phải rửa mặt, chải dầu thơm giống như họ vẫn thường làm mỗi khi đi ra đường để người khác không biết họ đang ăn chay.

HỎI ĐÁP:

- HỎI:

1) Khi Đức Giê-su nói: “Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả công cho anh”(c. 4b.6b.18b), phải chăng Người muốn cổ võ một thứ luân lý vụ lợi: Cho đi để được nhận lại? 2) Muốn có giá trị trước mặt Thiên Chúa và xứng đáng được Ngài ban nhiều ơn lành, thì việc chay tịnh cần tránh những gì và cần làm những gì?

- ĐÁP:

1) Thực ra không phải vậy. Vì nếu có ý khích lệ người ta làm việc thiện để được lợi cho mình, thì Người đã hứa những lợi ích có tính thế tục như tiền của, sức khỏe, thành công… Nhưng ở đây Người không nói rõ phần thưởng Chúa Cha sẽ ban cho là gì. Nơi nhiều đoạn khác, phần thưởng được hứa hầu như luôn là Nước Trời tương lai hoặc một trong những hoa trái thiêng liêng của nó là sự sống muôn đời (x. Mt 25,46; Mc 10,30). Các môn đệ sẽ được tham dự vào quyền bá chủ của Người (x. Lc 22,28-29), được xét xử mười hai chi tộc Ít-ra-en trong ngày tận thế (x. Mt 19,28). Ở đây, phần thưởng Đức Giê-su hứa cho những kẻ làm việc lành phải được hiểu theo nghĩa Cánh Chung, và có tính cách vô thường, nghĩa là: được Chúa ban cho, không vì việc làm đáng thưởng, nhưng chỉ vì tình thương và lòng nhân hậu vô biên của Người (Dụ ngôn đầy tớ vô dụng: Lc 17,7-10). Hơn nữa, phần thưởng ở đây còn được hiểu là chính Thiên Chúa. Những ai làm việc thiện trước mặt Thiên Chúa, với ý hướng muốn làm đẹp lòng Ngài và để tôn vinh Ngài, thì sẽ được gặp Ngài, được xem thấy Ngài và sẽ tìm thấy hạnh phúc cho bản thân.

2) Muốn cho việc ăn chay có giá trị trước mặt Thiên Chúa, thì cần tránh cách ăn chay hình thức về ngoài đã bị Đức Chúa quở trách, và còn phải kèm theo những việc tốt lành để xứng đáng được Đức Chúa chấp nhận, như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: “Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn…”. Nào, cách ăn chay mà Đức Chúa ưa thích chẳng phải thế này đó sao: “Mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm… Chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ. Thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục”. Bấy giờ ánh sáng ngươi sẽ bừng lên như rạng đông, vết thương ngươi sẽ mau lành. Đức công chính ngươi sẽ mở đường phía trước, vinh quang Đức Chúa bao bọc phía sau ngươi. Bấy giờ ngươi kêu lên Đức Chúa sẽ nhận lời, ngươi cầu cứu Người liền đáp lại: “Có Ta đây!”(Is 58,6b-9a).

II. SỐNG LỜI CHÚA

1. LỜI CHÚA: “Khi bố thí đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”(Mt 6,3).

2. CÂU CHUYỆN:

1) Chỗ nào trong nhà thờ loài chuột ít bị quấy rầy nhất

Có một con chuột cống sống trong một ngôi nhà thờ cổ ở miền quê nước Pháp. Một hôm khi đi lang thang trong nhà thờ kiếm cái gì ăn cho đỡ đói, bỗng nó gặp một con chuột khác cũng đang đi tìm thức ăn. Hai con chuột làm quen và hỏi thăm về chỗ ở của nhau. Con thứ nhất tâm sự: “Tớ đang sống chui rúc dưới gầm tòa giải tội trong nhà thờ này, nhưng chẳng mấy khi được yên thân. Vì lúc nào cũng có người đến xưng tội làm mất giấc ngủ của tớ!”. Nghe vậy, chuột thứ hai tỏ ra thông cảm với bạn liền nói: “Vậy thì bạn hãy dọn đến ở chung với tớ. Chỗ tớ đang ở vừa ấm áp sạch sẽ, lại vừa yên tĩnh và ít bị quấy rầy!”Chuột thứ nhất ngạc nhiên nói: “Có một chỗ ở như thế trong nhà thờ thật ư? Hãy cho tớ biết chỗ đó là chỗ nào vậy?”. Chuột thứ hai đáp: “Đó là thùng quyên góp giúp đỡ người nghèo ở cuối nhà thờ này đấy!”.

2) Bác ái chia sẻ là phương cách ăn chay đẹp lòng chúa hơn cả:

Một vị ẩn tu sống đơn độc trên ngọn núi cao. Ngày đêm ông ăn chay cầu nguyện. Ông ăn chay rất nghiêm ngặt và cầu nguyện rất tha thiết. Ðể thưởng công, Chúa cho xuất hiện một ngôi sao trên đầu núi. Khi nào ông ít ăn chay và không cầu nguyện thì ngôi sao bị lu mờ đi. Khi ông gia tăng ăn chay cầu nguyện thì ngôi sao lại rực sáng lên.

Một hôm ông muốn leo lên đỉnh cao nhất của ngọn núi. Khi ông chuẩn bị lên đường thì một bé gái trong làng đến thăm và ngỏ ý muốn đi cùng với ông lên núi. Thày trò hăng hái lên đường. Đường càng lên cao thì càng dốc và khó đi. Mặt trời mỗi lúc càng nắng gắt. Hai thày trò đều bị ướt đẫm mồ hôi và khát nước, nhưng theo luật ăn chay nghiêm ngặt nên không ai dám uống nước. Vị ẩn tu không dám uống vì sợ phá chay mất công phúc trước mặt Chúa. Nhưng khi thấy em bé mỗi lúc mệt thêm, vị ẩn tu thương hại em nên mở chai nước ra uống. Lúc ấy em bé mới dám mở chai của mình ra uống. Uống nước xong, em cảm thấy khỏe hơn và mỉm cười rất tươi để tỏ lòng cám ơn thày. Thày ẩn tu ngước mắt nhìn lên ngôi sao trên đỉnh núi vì sợ ngôi sao kia biến mất vì mình đã không hãm mình. Nhưng lạ thay, trên đầu núi thày thấy không phải một mà lại có đến hai ngôi sao sáng cùng xuất hiện. Thì ra, để thưởng công lòng bác ái yêu thương người khác của thày, Chúa đã cho thêm một ngôi sao nữa.

3. SUY NIỆM:

+ Yêu thương là cho đi: Cho nhiều là dấu hiệu yêu nhiều. Thánh Phao-lô đã khuyên các kỳ mục ở Ê-phê-xô như sau: “Và phải nhớ lại lời Chúa Giê-su đã dạy: Cho thì có phúc hơn là nhận”(Cv 20,35). Thánh Gia-cô-bê dạy các tín hữu phải có đức tin hành động như sau: “Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hàng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích gì?”(Gc 2,15-16).

+ Bố thí chia sẻ: Một việc đạo đức ta cần quan tâm thực hiện trong Mùa Chay là sự bố thí chia sẻ cơm bánh cho người nghèo đói. Việc bố thí này tuy khó thực hiện, nhưng sẽ mang lại nhiều hữu ích cho tâm hồn ta:

** Khó thực hiện vì “Đồng tiền liền khúc ruột”: Chỉ những người có lòng hy sinh và quảng đại mới có thể thực hiện được tốt công việc chia sẻ này.

** Việc bố thí giúp ta ý thức giá trị tương đối của đồng tiền: Giúp ta biết dùng đồng tiền trong việc làm vinh danh Thiên Chúa và vì phần rỗi tha nhân, giúp ta bớt đi lòng dính bén với của cải vật chất như Đức Giê-su đã khuyên chàng thanh niên giàu có muốn nên trọn lành như sau: “Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà chia cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời, rồi hãy đến theo tôi”(Mc 10,21).

** Bố thí còn là cách đền tội hữu hiệu: Sứ thần Raphaen đã khuyên bảo hai cha con nhà Tô-bi-a như sau: “Bố thí đi đôi với đời sống công chính, thì tốt hơn có của mà ở bất công. Làm phúc bố thí thì đẹp hơn là tích trữ vàng bạc. Việc bố thí cứu cho khỏi chết và tẩy sạch mọi tội lỗi. Những người làm phúc bố thí sẽ được sống lâu”(Tb 12,8-9).

4. HỎI ĐÁP:

HỎI: Trong Mùa Chay, ta nên làm thêm một số việc đạo đức nào? 2) Ta cần phát hiện ra mình có mối tội đầu tức là thói hư tật xấu nào và phải làm gì để tu sửa lại?

ĐÁP:

1) Việc đạo đức: Dự lễ và rước lễ hằng ngày, mỗi ngày cố gắng làm vài ba việc hãm mình hay việc bác ái để đền tội, quyết tâm tu sửa một thói hư như: Chửi thề tục tĩu, lười biếng đọc kinh tối gia đình…

2) Tập làm các việc tốt đối lập với thói hư tật xấu, kèm theo một lời nguyệt tắt như: “Lạy Chúa, xin cho con chừa bỏ được tội nói xấu kẻ mà con không ưa, bằng cách thành thật khen ngợi ưu điểm của họ với người khác, để con được mỗi ngày một nên giống Chúa hơn”.

5. NGUYỆN CẦU:

- Lạy Chúa Giêsu. Cùng với toàn thể Hội Thánh, con được bước vào Mùa Chay. Con tạ ơn Chúa đã cho con có được một thời gian thuận lợi để duyệt xét lại cuộc đời con, hầu phát huy điều tốt và chấn chỉnh những sai lỗi thiếu sót nơi bản thân con. Xin chiếu dọi ánh sáng Lời Chúa để con nhận ra con người yếu hèn của con. Nhất là xin đổ Thần Khí Chúa nâng đỡ con. Chỉ nhờ ơn Chúa giúp con mới có thể mau mắn chỗi dậy trở về làm hòa với Chúa sau mỗi lần vấp ngã và ngày một nên người mới như ý Chúa muốn.

- Lạy Chúa. Trong cuộc sống hằng ngày, con thường tỏ ra ích kỷ, khép kín cửa lòng trước tha nhân. Đôi lúc con cũng làm được một vài việc tốt, nhưng con lại muốn nhiều người biết và khen ngợi con. Hôm nay xin giúp con biết ăn ở khiêm tốn theo lời Chúa dạy: “Đừng cho tay trái biết việc tay phải làm”, để những việc con làm luôn đẹp lòng Chúa và xứng đáng được Chúa ban Nước Trời đời sau.

X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con.

 

22.Hãy thay đổi cách hành động--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền

Ngày 22/01/2008, Omar Osama Bin Laden, con trai thứ tư của ông trùm khủng bố, nhắn cha hãy tìm con đường khác. Anh công khai nói ra ý muốn chấm dứt bạo động mà thân phụ của anh kích động. Loại bạo động của al-Qaeda đã tàn sát thường dân vô tội trong hàng loạt vụ khủng bố khắp thế giới, gồm trận tấn công tại Hoa Kỳ ngày 11-9-2001.

Omar nói rõ "Bom là không tốt để dùng với bất cứ ai. Hãy thay đổi cách hành động". Ðó chính là thông điệp mà người con của Bin Laden muốn nhắn gửi cha mình. Anh không muốn chiến tranh. Anh không muốn thế giới này cứ tiếp tục nhuốm máu bởi lối sống quá khích của cha mình. Anh muốn cha mình hối cải và cải tà quy chính để sống đúng với phẩm giá con người là "nhân chi sơ tính bản thiệt".

Thế nhưng nhiều người vẫn còn tiếp tục hành động như Bin Laden. Người ta thường dùng roi dòn để đè bẹp người khác. Người ta dùng quyền bính để chèn ép người khác. Ở đời có mấy khi tìm được tiếng nói chung. Tiếng nói của cảm thông. Tiếng nói của tôn trọng nhân quyền, của sự tôn trọng lẽ phải. Người ta thường ỷ lớn bắt nạt bé. Người ta thường chà đạp lên nhau theo kiểu "cá lớn nuốt cá bé". Người ta thường xuyên tạc tả đột hữu xung để lừa dối dư luận, để lấn át kẻ yếu, kẻ cô thế cô thân. Nếu cuộc đời không còn tiếng nói của lẽ phải, của công bằng thì chỉ còn tiếng than khóc của lầm than, của ai oán cơ hàn. Nếu ở đời người ta không còn lắng nghe nhau, không còn phân biệt phải trái, đó là nỗi bất hạnh cho kiếp người chúng ta.

Hôm nay chúng ta bước vào mùa chay với 40 ngày chay thánh, chúng ta lại được nghe những lời mời gọi tương tự: "Hãy sám hối". Hãy sửa lại lỗi lầm. Hãy canh tân đời sống. Lời mời gọi đó không chỉ là tiếng gọi mời của Chúa hay của Giáo hội mà còn là tiếng gọi mời của những người thân thương nhất của mình. Ðừng vì lối sống ẩu thả, lười biếng, tội lội của mình mà gây nên đau khổ cho cha mẹ, cho anh em, bạn bè. Ðừng vì những đam mê bất chính của mình để rồi phá hoại hạnh phúc gia đình của mình. Ðừng vì lối sống thiếu trách nhiệm của mình mà chồng chất những gánh nặng khổ đau cho chồng, cho vợ, cho con cái của mình. Ðừng vì lợi ích cá nhân hay băng nhóm của mình mà chà đạp kẻ yếu, mà gây nên oán than bởi công lý và nhân phẩm bị chà đạp. "Hãy thay đổi cách hành động”cho xứng với nhân tính của một con người. Hãy thay đổi cách sống theo đúng với phẩm giá của những người mang danh là kytô hữu. Ðừng hành động mà không ý thức về hậu quả tai hại do việc làm của mình gây nên. Ðừng hành động nông nổi nhất thời, thiếu suy nghĩ để rồi làm khổ bản thân và gia đình của mình.

Vâng, có thể chúng ta không thảm sát người vô tội như Bin Laden, nhưng có thể vì đời sống phóng túng, vô nại, lười biếng của mình đã phá huỷ cuộc sống hạnh phúc của biết bao con người. Có thể chúng ta không quá khích như Bin Laden nhưng với lối sống độc tài, bảo thủ, gian ác của mình cũng là nỗi sợ hãi của những người đang sống bên cạnh chúng ta. Có thể chúng ta không huấn luyện một đội binh hùng hậu chuyên đi giết người, nhưng có thể vì gương xấu của chúng ta đã lôi kéo biết bao tâm hồn trong trắng, thơ ngây thành mồi ngon cho ma quỷ dẫn dắt. Tại sao mỗi ngày chúng ta đều cầu nguyện "xin gìn giữ chúng ta khỏi mọi sự dữ", thế mà sự dữ ấy lại do chính chúng ta gây nên cho anh em? Tại sao sự dữ lại là chính chúng ta? Chính chúng ta đã giết hại anh em của mình. Chính chúng ta đã gieo khổ đau cho anh em của mình. Chính chúng ta đã và đang nuôi dưỡng sự dữ trong lòng chúng ta là những hận thù, ghen ghét, nói hành, bỏ vạ cáo gian anh em của mình. Phải chẳng chúng ta phạm tội mà chúng ta chẳng hay biết? Phải chăng vì phạm tội thành thói quen đến nỗi đánh mất ý thức về tội? Như vậy chúng ta phải cầu nguyện "xin gỡ chúng con ra khỏi sự dữ". Sự dữ không ở ngoài chúng ta. Sự dữ ở trong chính tâm hồn chúng ta.

Giờ đây, khởi đầu cho hành vi sám hối, Giáo hội mời gọi chúng ta hãy xức tro trên đầu để nhớ rằng mình là cát bụi. Cát bụi cuộc đời chẳng đáng là gì, chỉ "một cơn gió thoảng cũng đủ làm biến tan đi". Thế nên, hãy khiêm tốn để sống đúng với thân phận thọ tạo phải vâng phục Ðấng Tạo Hoá. Là hạt bụi nhưng được Chúa yêu thương tạc vẽ nên hình hài một con người giống hình ảnh Thiên Chúa, thế nên, hãy sống đúng với phẩm giá cao quý của mình. Xức tro trên đầu còn là hành vi sám hối ăn năn, vì những tham vọng kiêu căng, sống bất tuân lệnh Chúa đã gây nên biết bao sự dữ cho nhân gian. Xức tro trên đầu là nhìn nhận sự yếu hèn của mình để cần đến tình thương và ân sủng của Chúa gìn giữ hồn xác chúng ta luôn trong sạch vẹn tuyền. Xin đừng để chúng ta tan biến đời mình bằng đời sống tội lỗi và bán rẻ linh hồn của mình cho danh lợi thú trần gian. Nhưng xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh thoát khỏi những quyến luyến tội lỗi trần gian. Amen.

 

23.Buông bỏ tham sân si--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Con người ta thường mệt mỏi là do tâm phiền muộn mà sinh ra nhiều hơn. Cái tâm chứa đầy tham sân si nên dễ mệt mỏi, thất vọng khi không thỏa mãn điều mình muốn. Càng tham ái, sân si nhiều càng mỏi mệt… Chỉ khi con người biết buông bỏ những tham sân si lúc ấy mới thấy tâm bình an và hạnh phúc.

Có một tỷ phú sống trong căn biệt thự xa hoa. Rồi một ngày kia mắc bệnh hiểm nghèo, ông chợt nhận ra rằng tất cả những gì là danh vọng, tiền tài và vật chất, thực ra đều hư vô như mây khói.

Vì lo sợ sẽ không sống được bao lâu nữa, ông bèn tìm đến một vị danh y để xin lời khuyên. Sau khi bắt mạch, danh y nói với ông rằng: “Bệnh của ông ngoài cách này ra thì không thuốc nào có thể chữa khỏi. Tôi sẽ kê cho ông ba đơn thuốc, ông cứ theo đó mà làm, hết đơn thứ nhất thì chuyển sang đơn tiếp theo. Ba đơn thuốc đó là: Nghỉ ngơi, cho đi và buông xuống.

Nghỉ ngơi cho tâm hồn thanh thản. Cho đi để tâm hồn hạnh phúc và buông xuống để tâm hồn không còn lệ thuộc bởi danh lợi thú trần gian.

Nhưng xem ra muốn nghỉ ngơi, hay muốn cho đi thì con người phải biết buông xả mới có tâm bình an và lòng quảng đại. Con người cần phải buông đi những lợi danh, buông đi những hận thù tranh chấp, những toan tính nhỏ nhoi thì lòng mới thanh thoát bình an. Lòng buông xả thì tâm bình an. Con người còn cần buông đi những đam mê mù quáng, buông đi những thói hư tật xấu mới tìm được hạnh phúc của tự do tâm hồn.

Nguồn gốc của tội lỗi là con người luôn chất chứa những tham sân si. Con người luôn giữ cho mình những toan tính tham lam, những nóng giận cuồng điên và những mê muội cuồng si.

  Khởi đầu mùa chay Giáo hội nhắc nhở chúng ta thân phận con người chỉ là bụi tro, một mai rồi cũng trở về tro bụi. Lợi danh, quyền quý cũng chỉ là phù vân. Không có chi tồn tại. Không có chi vững bền. Tất cả đều mong manh tan vỡ theo thời gian. Vậy tại sao chúng ta phải bận lòng với những hư vô ấy? Tại sao lòng ta lại chất chứa những tham sân si để mang phiền não cho cuộc đời? Tại sao chúng ta cứ theo đuổi phù vân mà gây nên những bễ dâu cho cuộc đời?

Hãy nhìn nhận tất cả chỉ là tro bụi để can đảm buông lòng mình cho Chúa gột rửa khỏi những toan tính trần thế, những hư danh phù phiềm, những đam mê thế tục. Hãy buông bỏ những danh lợi thú để trở về với Chúa trong chay tịnh khiêm tốn ăn năn. Khi con người buông bỏ những tham ái, sân si thì cuộc đời ta mới thanh thản, hạnh phúc, tươi vui. Khi con người buông bỏ những toan tính của danh lợi thú thì cuộc đời ta sẽ không còn những tháng ngày tranh chấp, ganh đua, bon chen giành giật lẫn nhau...

Hôm nay ngày Lễ Tro, từng đoàn người lũ lượt lên xức tro, nhưng liệu có mấy ai đã dám buông bỏ mọi sự để trở về với Chúa? Có mấy ai thực sự không bận lòng trước những bon chen danh vọng, quyền chức, tiền tài? Có mấy ai thực sự buông bỏ những đam mê tội lỗi, những cuồng si thấp hèn?

 Xức tro là biểu hiện lòng sám hối. Xức tro chỉ đem lại sự tươi trẻ tâm hồn khi chúng ta quyết tâm từ bỏ tội lỗi, tránh xa cám dỗ và làm lại cuộc đời. Xức tro lên đầu nói lên thân phận yếu đuối của con người và cần đến lòng thương xót của Chúa. Chúng ta nại đến lòng thương xót của Chúa để được ơn thứ tha, đồng thời nhờ nguồn ân thánh của Chúa sẽ làm mới lại cuộc đời chúng ta.

Ước gì tâm hồn chúng ta sẽ tràn ngập niềm vui khi biết sám hối ăn năn. Xin đừng ở lì trong tội khiến tâm hồn chúng ta già nua, thiếu sức sống. Xin đừng vì lối mòn tội lỗi mà đánh mất sự tươi trẻ trong tâm hồn. Xin Chúa giúp chúng ta can đảm trở về tắm gội trong đại dương bao la tình Chúa. Amen.

 

24.Giữ chay thế nào cho đẹp lòng Chúa?-- Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa tập luyện thiêng liêng bằng việc xức tro và ăn chay để khởi đầu Mùa Chay Thánh. Mùa Chay được bắt đầu từ thứ Tư Lễ Tro và kết thúc vào thứ Sáu Tuần Thánh. Mùa Chay kéo dài năm tuần lễ để chuẩn bị tâm hồn mừng đại lễ Phục Sinh là đỉnh cao của niềm tin Kitô Giáo.

Tuy nhiên, ý nghĩa của việc xức tro và ăn chay nhiều khi chúng ta chỉ dừng lại ở hành vi bên ngoài, mà không có tâm tình bên trong.

Nhân ngày thứ tư Lễ Tro, chúng ta hãy làm mới lại tinh thần về ngày lễ này.

1. Xức Tro

Việc xức tro lên đầu nhắc chúng ta về thân phận hữu hạn, tro bụi của kiếp người. Vì thế, Tổ Phụ Abraham đã thưa với Chúa: “Con chỉ là thân tro bụi”(St 18, 27).

Thật vậy, con người được hiện hữu trên trần gian này là do tình thương của Thiên Chúa. Nhưng tiếc thay, tình thương ấy đã bị con người lạm dụng và hướng chiều về tội lỗi thay vì biết ơn! Mỗi khi xức tro, Giáo Hội nhắc chúng ta: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”(Mc 1, 14) để được Thiên Chúa tha thứ.

Những ý nghĩa này được khởi đi từ những câu chuyện trong Kinh Thánh Cựu Ước, điển hình như: tiên tri Giêrêmia kêu gọi sám hối: “Thiếu nữ dân tôi ơi, hãy quấn vải thô vào mình và lăn trên tro bụi”(Gr 6, 26). Không chỉ dừng lại ở lời khuyên, tiên tri Đanien xin Chúa cứu dân Itrael, và nêu gương cho họ khi nói và hành động: “Tôi ăn chay, mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van”(Đn 9, 3). Đến thời Giona, Đức Chúa truyền cho ông loan báo về tai ương mà Người sẽ giáng xuống trên dân, nếu dân không ăn năn sám hối. Ông đã loan báo công khai, mãnh liệt, ráo riết, nên: “Tin báo đến cho vua Ninivê; vua rời khỏi ngai, cởi áo choàng, khoác áo vải thô, và ngồi trên tro”(Gn 3, 6).

Sang thời Tân Ước, Đức Giêsu vẫn giữ nguyên giá trị và ý nghĩa của việc xức tro. Tuy nhiên, Ngài hối thúc và cảnh báo sự chai lỳ cứng cỏi của dân khi nói: “Khốn cho các ngươi, hỡi Khoradin! Khốn cho ngươi, hỡi Bétxaiđa! Vì nếu các phép lạ đã làm nơi các ngươi mà được làm tại Tia và Xiđon, thì họ đã mặc áo vải thô, rắc tro lên đầu tỏ lòng sám hối. Vì thế, Ta nói cho các ngươi hay: đến ngày phán xét, thành Tia và thành Xiđon còn được xử khoan hồng hơn các ngươi”(Mt 11, 21 - 22; x. Lc 10, 13).

Như vậy, hành động xức tro lên đầu ngoài việc công khai nhận mình là người có tội và tỏ lòng sám hối chân thành, để xin ơn thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn thể hiện sự quyết tâm trở về với Chúa, đổi mới tâm hồn để xứng đáng là con Chúa.

Một trong những điều thể hiện sự trở về, đó là việc chay tịnh. Tuy nhiên, giữ chay thế nào mới đúng với tinh thần mà Chúa mong muốn?

2. Ăn Chay

Ăn chay khởi đi từ tinh thần thờ phượng Thiên Chúa và làm đẹp lòng Người (x. Ds 29, 7; Cv 13, 2), (x. Tl 20, 26; Gđt 8, 6). Ăn chay còn có ý nghĩa nữa là thể hiện lòng đạo đức để được Thiên Chúa nhận lời (x. 2Sm 12, 16-22; Er 8, 21; để đền tội, xin Thiên Chúa tha thứ (x. Lv 23, 27; Hc 34, 26; Đn 10, 2); hỗ trợ việc trừ Quỉ... (x. Mt 17, 21).

Ăn chay còn nói lên tính vị tha là thực hiện công lý và tình thương (x. Is 58, 6-7), thánh hóa bản thân, siêu thoát tinh thần để được hưởng sự sống đời đời. Không bám vúi vào của cải, sức riêng cách thái quá, vì: “Người ta sống không nguyên bởi bánh, nhưng bởi mọi lời do miệng Thiên Chúa phán ra”(Mt 4, 4).

Thật vậy, nếu không ăn chay với những mục đích đã kể trên thì sẽ trở thành công dã tràng! Điều này đã được thánh Phaolô nói: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi”(1Cr 13, 3).

3. Cách giữ chay của người Công Giáo hiện nay

Ngày nay, tinh thần ăn chay của người Công Giáo xem ra đã bị lạm dụng, hay hướng chiều về những hành vi tiêu cực.

Có những người ăn chay, bố thí... chỉ vì mục đích được khen là đạo đức, họ ủ dột, thê lương, cốt để làm sao cho mọi người biết mình là người nghiêm chỉnh giữ chay.

Lại có những người ăn chay chỉ vì vụ luật hay sợ Chúa phạt! Vì thế, nếu trong ngày, lỡ cách nào đó mà phạm luật, họ hoang mang đến bất an chỉ vì trót ăn vặt, không đúng giờ, đúng bữa...

Cũng có những người tính toán đến độ ngày mai ăn chay, hôm nay ăn uống cho đã để ngày mai đỡ thèm, hoặc ăn trực nằm chờ cho qua thời gian luật định, tức là qua 24h, sau đó nhậu nhẹt hả hê. Họ làm như thế và an tâm vì đã giữ trọn ngày chay theo đúng luật. Vì thế, không lạ gì khi có những người mỉa mai cách thức ăn chay của chúng ta rằng: “thứ ba béo”; “thứ năm sung sướng”.

Đáng buồn hơn nữa là: có nhiều gia đình ngày chay kiêng thịt thì lại đi mua những thứ cao lương mỹ vị như: hải sản, tôm hùm hay những thứ khác đắt tiền hơn thịt nhiều... mà không hề nghĩ rằng: tiền bớt chắt được trong ngày chay là để chia sẻ bác ái, đóng góp cho công cuộc truyền giáo và các nhu cầu khác của Giáo Hội!

Tinh thần ăn chay như thế, hẳn chúng ta thua xa nơi anh chị em các tôn giáo khác về việc giữ chay! Mặt khác, điều chúng ta dè bỉu người Pharisêu hình thức khi xưa, khi họ lo giữ cho sạch chén bát bên ngoài, còn trong lòng toàn sự hận thù, ghen ghét, ích kỷ, kiêu ngạo (x. Mc 7, 1-8a.14-15.21-23), thì nay, chúng ta lại đi vào chính vết xe đổ của họ. Như vậy, chúng ta chỉ là cỗ máy không hồn, hay giống chiếc thùng kêu to, nhưng thực chất nó rỗng, và đôi khi chúng ta trở thành “danh hài”hay “con hề”trên sân khấu.

Thái độ khiển trách nặng nề những người Pharisêu của Đức Giêsu: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”(Mc 7, 6), không chừng cũng chính là lời trách móc nặng nề cho những ai hôm nay giữ chay hình thức, hời hợt.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta: "Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”(Ge 2, 12-18); “Hãy làm hoà cùng Thiên Chúa... vì bây giờ là cơ hội thuận tiện”(x. 2 Cr 5, 20 - 6, 2).

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống tinh thần của ngày lễ hôm nay đó là: “Xé tâm hồn chứ đừng xé áo". Amen.

 

25.Hãy tự biết mình-- Giuse Vinhsơn Ngọc Biển SSP

(Ge 2, 12-18; 2 Cr 5, 20. 6, 2; Mt 6, 1-6. 16-18)

Mahatma Gandhi, vị lãnh tụ tinh thần của người Ấn Độ đã tự thuật một câu chuyện liên quan đến cuộc đời của ngài lúc còn nhỏ như sau:

“Hồi ấy, mới 15 tuổi, tôi đã lấy trộm một chiếc vòng vàng của cha tôi và đem bán để lấy tiền trả nợ. Lấy được vàng, có tiền trả nợ, lòng tôi lúc bấy giờ nhẹ nhõm và sung sướng vì đã giải quyết được một việc qua trọng! Tuy nhiên, niềm vui chỉ đến trong chốc lát, vì ngay sau đó, nó đã nhường lại cho sự áy náy, mất bình an ngự trị.

Sau đó, tôi quyết định làm một cuộc cách mạng, đó là viết tội lên một tờ giấy và trình lên cha tôi. Kết quả, sau khi đọc những lời thú tội của tôi, trong thinh lặng, ông đã xé tờ giấy đó thành nhiều mảnh nhỏ và nói với tôi: ‘Biết mình là điều rất tốt’”.

1. Hãy tự biết mình

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh bằng việc cử hành nghi thức xức tro trên đầu. Nơi nghi thức này, Giáo Hội mời gọi mỗi người: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”; hoặc: ”Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi”.

Qua lời mời gọi ấy, Giáo Hội hướng chúng ta về một thực tại, đó là: ý thức thân phận mỏng manh của đời người với những yếu đuối, tội lỗi của kiếp nhân sinh. Vì vậy, cần phải trở về với Chúa.

Trở về với Chúa để được đón nhận ơn tha thứ. Trở về với Chúa để làm lại cuộc đời.

Tuy nhiên, để trở về với Chúa cách thực sự và ý nghĩa, điều quan trọng, đó là hãy ”tự biết mình”.

Bao lâu ta không biết mình, bấy lâu lòng ta tự mãn, tự kiêu, và, sẽ không cần phải sám hối.

Thật vậy, dù trong trần gian này, chúng ta có là tổng thống, chủ tịch nước, vua chúa, quan quyền hay thường dân; giàu có hay nghèo hèn; khỏe mạnh hay đau yếu; đẹp trai, xinh gái hay xấu xí, già hay trẻ; được trọng vọng tôn vinh hay bị coi thường, khinh bỉ; hoặc đang nổi danh như cồn hay âm thầm chốn lao tù…Tất cả phải thuộc nằm lòng bài học quan trọng này, đó là: thân xác ta từ bụi tro mà ra, thì một mai sẽ trở về cát bụi. Cuộc sống của ta như hoa kia sớm nở tối tàn, vắn vỏi tựa bóng câu. Vì thế, cái chết nó có thể đến với hết mọi người và bất thình lình như một tên trộm hay như ông chủ đi ăn cưới về lúc đêm khuya.

Chính vì vậy, mỗi khi lãnh nhận tro xức trên đầu, Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy biết mình và nghiêm túc để nghĩ đến thân phận, giới hạn của con người, đồng thời cần phải biết sám hối, ăn năn trở về với Chúa để xin Người xót thương.

Tuy nhiên, sám hối không thôi thì chưa đủ, Lời Chúa còn mời gọi chúng ta hãy ra khỏi sự kiêu ngạo, ích kỷ, an thân để đi đến hành động cụ thể, đó là: cầu nguyện, ăn chay và thi hành bác ái.

2. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo

Lời ngôn sứ Giôen nhắc cho chúng ta về cách thức sám hối, ngài kêu gọi: ”Hãy xé lòng, đừng xé áo”(Ge 2,13 ),

Khi kêu gọi như thế, tiên tri Giôen muốn dân chúng hãy có tinh thần sám hối thực sự, tinh thần ấy phải phát xuất tự đáy lòng của mình chứ không chỉ hình thức bên ngoài như ủ rũ héo hon, sầu lo, đau đớn…, mà là thay đổi từ ánh mắt, cách nhìn, tư tưởng trong niềm tin và hân hoan.

Sự sám hối ấy phải luôn luôn diễn tiến ngang qua chính bản thân của mỗi người. Tuy nhiên, vì chúng ta là dân Thiên Chúa, là một cộng đoàn, nên mọi thành phần đều có sự liên kết mật thiết với nhau và đều có can hệ với nhau trong các việc tốt cũng như xấu, phúc cũng như tội. Vì vậy, ngoài việc chúng ta làm một cuộc hoán cải nội tâm cá nhân với Chúa, mỗi người còn phải thể hiện sự quyết tâm thay đổi đời sống ấy bằng những hành vi cụ thể như cầu nguyện, ăn chay, hy sinh, hãm mình, từ bỏ và thi hành việc bác ái với tha nhân.

Trước tiên là cầu nguyện âm thầm và kín đáo:

Khi nói đến cầu nguyện ân thầm và kín đáo: Đức Giêsu muốn nói đến sự khiêm nhường thẳm sâu phải có lúc cầu nguyện. Khi con người đến với Thiên Chúa, nếu không khiêm nhường, ắt sẽ không thể đi vào mối tương quan với Người được. Hình ảnh và thái độ của người Pharisêu và người Thu Thuế lên đền thờ cầu nguyện cho ta thấy hệ quả sự kiêu ngạo và khiêm nhường khi hai người trở về!

Mặt khác, âm thầm và kín đáo còn có ý nói đến một tâm hồn với đời sống nội tâm sâu xa. Khi có một chiều sâu tâm linh, người ta không cần phải lải nhải lắm lời mới hy vọng Thiên Chúa nhận lời, mà ngược lại, điều quan trọng, đó là chiêm ngắm, lắng nghe và nhạy bén với Thánh Ý Thiên Chúa để mau mắn thi hành.

Thứ đến là ăn chay: ngay sau khi dạy cho các môn đệ về thái độ cầu nguyện, tiếp theo, Đức Giêsu đã chỉ ra cho các ông việc cần làm, đó là ăn chay. Ở đây, Đức Giêsu không hướng dẫn xem ăn chay như thế nào cho đúng theo nghĩa đen, mà Ngài nhấn mạnh đến tinh thần của sự việc:

“Khi các ngươi ăn chay thì chớ sầm mặt lại như bọn giả hình (….) Còn ngươi ăn chay thì đầu hãy xức dầu, và mặt mày hãy lau rửa…”(x. Mt 6, 16-18).

Đức Giêsu không thể chấp nhận việc ăn chay của người môn đệ giống như những người Pharisêu và những người Dothái đương thời, đó là mỗi khi họ ăn chay, họ tỏ ra rầu rĩ, thiểu não, tang thương.

Ngược lại, Ngài muốn người môn đệ phải hân hoan khi ăn chay, vì ăn chay là để đón chờ chàng rể đến. Thế nên tránh nhũng thứ chè chén say sưa hay khuôn mặt rầu rĩ…

Cuối cùng, đó là thi hành bắc ái: nếu cầu nguyện là để gặp gỡ Thiên Chúa; ăn chay là để hy sinh hãm mình đền tội, thì việc chia sẻ bác ái chính là điều kiện để hoàn thiện hai điều trên, vì: mến Chúa mà không yêu người thì nói dối; yêu người trên đầu môi chóp lưỡi thì thật là đáng khinh bỉ. Nhưng mến Chúa thì luôn gắn liền với yêu người.

Khi Đức Giêsu kêu gọi chia sẻ cho người nghèo, Ngài muốn chúng ta hãy mở rộng tấm lòng của mình cách đặc biệt, cụ thể, để Chúa đến với cõi lòng chúng ta ngang qua những hành vi chia sẻ cho người nghèo.

Tuy nhiên, ngay cả việc bác ái, Đức Giêsu dạy chúng ta phải ý tứ khi chia sẻ, Ngài nói: đừng gõ trống khua chiêng, đừng để tay trái biết việc tay phải làm. Nếu không thi hành trong lòng mến và vô vị lợi như thế, thì việc bác ái của chúng ta sẽ chỉ là công dã tràng mà thôi.

Mong sao, khi Mùa Chay đến, mỗi người chúng ta hãy làm mới lại mối tương quan với Đấng thấu suốt sự kín nhiệm qua việc năng kết hiệp mật thiết và sâu lắng trong đời sống cầu nguyện để được Người nhận lời. Đồng thời, hãy “tự biết mình”là con người mỏng dòn, yếu đuối và đầy rẫy tội lỗi, nên rất cần một hành động sám hối để xin ơn tha thứ và quyết tâm quay trở về với Thiên Chúa. Cuối cùng, đó là thi hành việc bác ái qua hành vi tha thứ cho người xúc phạm đến mình; hay một nghĩa cử bao dung, liên đới với những người mà họ không ưa mình, đồng thời, hãy rộng tay giúp đỡ vật chất cho những anh chị em túng nghèo chung quanh chúng ta.

Được như thế, chúng ta bước vào Mùa Chay Thánh đúng với tâm tình mà Chúa và Giáo Hội mong muốn. Ngược lại, nếu chỉ giữ đạo cách hình thức, hời hợt, lễ nghi bề ngoài, mà tâm hồn không một chút rung động, tâm trí không một chút suy tư và liên đới, thì hết Mùa Chay này đến Màu Chay khác đến rồi lại đi, nhưng tâm hồn và đời sống của chúng ta vẫn chỉ trơ trơ như gỗ đá, hay như một cỗ máy biết nói.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban ơn trợ lực, để trong suốt Mùa Chay này, chúng con biết sống theo tinh thần Chúa đã dạy để được hưởng ơn cứu chuộc của Chúa mang lại. Amen.

 

26.Hoa và rác--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Những ngày gần Tết, hoa và cây cảnh được bày bán khắp mọi nẻo đường phố thị. Đủ mọi loại hoa kiểng, lắm màu hương sắc. Gia đình nào cũng mua hoa chưng Tết. Tôi cũng mua cây mai nhiều nụ và mấy chậu hoa hồng hoa cúc để làm đẹp phòng khách. Nâng niu, chăm sóc thật kỹ lưỡng. Đến Mồng Ba Tết, hoa đã héo rụng đầy phòng. Phải quét rác thôi, gom cả mai cả hoa đi đốt. Ôi Hương sắc của hoa! Hôm qua tươi đẹp, hôm nay héo tàn rụng úa. Hôm qua “nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa”, hôm nay quét bỏ như rác rưởi.

Thứ Tư Lễ Tro, nghĩ về hoa và rác như nghĩ về thân phận tro bụi của kiếp người theo lời Thánh Vịnh 102:

Đời sống con người giống như hoa cỏ

Như bông hoa nở trên cách đồng

Một cơn gió thoảng đủ làm nó biến đi

Nơi nó mọc không còn mang vết tích.

Đời người cũng tựa đời hoa. Khi tươi nở, hoa rực rỡ khoe sắc, hoa ngào ngạt toả hương, ai cũng yêu cũng quý. Khi ủ rũ héo tàn, hương sắc của hoa rụng úa tàn tạ, chỉ mau vứt vào thùng rác. Hôm trước nâng niu, hôm sau vứt bỏ. Một đời hoa chóng tàn phai như lời sách Giảng viên:

 “Phù hoa nối tiếp phù hoa,

chi chi chăng nữa cũng là phù hoa”(Gv 1, 2).

Mùa Chay được khởi đầu bằng nghi thức xức tro trên đầu. Linh mục đọc "Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro”và xức tro trên trán tín hữu. Đây là lời Thiên Chúa báo cho Ađam biết khi ông vừa phạm tội. Giáo Hội cũng sẽ lặp lại những lời ấy trong phần xức tro đễ nhắc nhở về thân phận cát bụi của con người.

Nghi thức xức tro bắt nguồn từ truyền thống xa xưa của dân Do thái. Trong Cựu ước, mỗi khi muốn tỏ lòng ăn năn hối cải, người Do thái thường xức tro trên đầu, ngồi trên đống tro và mặc áo vải thô hoặc xé áo ra. Việc xức tro và xé áo trước hết nói lên sự buồn phiền đau đớn vì đã phạm nhiều tội lỗi. Việc xức tro và xé áo cũng làm cho tội nhân ý thức thân phận con người bọt bèo, cuộc đời mau chóng tàn phai như giấc mộng. Đời người như một nắm tro bụi, chỉ một làn gió nhẹ thoảng qua đủ xoá sạch vết tích.

Sách Giảng Viên viết rằng: "Tất cả chỉ là phù vân". Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân. Văn chương Việt nam khi nói tới cái gì bấp bênh, vô định, chóng tàn, thường dùng hình ảnh bọt bèo:

"Chút thân bèo bọt dám phiền mai sau"(Nguyễn Du).

Bọt là bong bóng nước mong manh, tan trong chốc lát. Hình ảnh bọt diễn tả cái vắn vỏi của cuộc đời. Bèo gợi lên ý tưởng về sự lênh đênh, trôi nổi, vô định:

”Lênh đênh duyên nổi phận bèo.

 Tránh sao cho khỏi nước triều đầy vơi”(Ca dao).

“Bèo dạt, mây trôi đành với phận”(Chu Mạnh Trinh)

Cuộc đời làm sao mà không bi đát khi nó là phù vân, khi nó vừa là bọt chóng tan, vừa là bèo trôi nổi, dật dờ không bến?

Cuộc đời tuy có là bèo bọt. Phận người dù phù hoa, mau chóng tàn phai trở về bụi đất. Con người bởi đất nhưng con người không bằng đất, con người có sinh khí, có hơi thở. Con người là hoạ ảnh và hình ảnh của Đấng dựng nên mình. Sự cao cả của con người là bắt nguồn từ chính Đấng là Sự Sống, Đấng Hằng Sống, con người là hình ảnh và hoạ ảnh của Đấng vô thuỷ vô chung, nên sự sống con người mang hình thái bất diệt, vượt xa các loài được tạo dựng. Lòng thương xót của Thiên Chúa không dựng nên con người, theo cái bên ngoài của Thiên Chúa, nhưng cho con người mang hoạ ảnh và hình ảnh của Người. Theo quan niệm của Nho Giáo, con người là sự tích tụ của tinh thần và khí chất nên con người có sự sáng suốt để hiểu các sự vật. Là hoạ ảnh và hình ảnh của Thiên Chúa, con người có một phẩm giá trổi vượt trên các loài được tạo dựng, con người một phần giống Thiên Chúa bởi quyền cai quản trên vạn vật và bởi con người có trí khôn, tự do.

Ba việc đạo đức được nhắc nhở rất nhiều trong mùa chay là: Bố thí, ăn chay và cầu nguyện. Đây là ba vũ khí tuyệt hảo để chống lại sự tấn công của ma quỷ và đền bù tội lỗi mình. Những việc lành phúc đức này, khi được thi hành thì hãy làm với tất cả tấm lòng của mình; không làm để khoe khoang. Chỉ cần Thiên Chúa thấu hiểu và biết cho chúng ta là đã đủ rồi. Đừng làm để được người đời khen và vì thế mà chúng ta mất đi lời khen tặng của Thiên Chúa. (x.Mt 6, 1-6).

Ăn chay và kiêng thịt, chịu tro chỉ là hình thức bên ngoài mà thôi. Canh tân nội tâm vẫn là trọng tâm của mùa chay. Kiêng bớt các tội là điều mà Thiên Chúa mong muốn. Sửa đổi tính nết để trở thành người tốt hơn, đạo đức hơn, thánh thiện hơn. Bớt nói hành, nói xấu, lười biếng việc đạo đức là điều phải thực hành.

Nói một cách hình tượng, thì con người của Mùa Vọng là một con người ÐI, con người hành hương, lòng tràn trề hy vọng đang tiến về cùng đích tối hậu của cuộc đời; con người của Mùa Phục Sinh là một con người ÐỨNG, tự do, chủ động và tự tín đối diện với thế giới, còn con người của Mùa Chay thì NGỒI trong thái độ chiêm nghiệm, trầm tư. (Đức Cha Giuse Vũ Duy Thống).

Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: "Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi". Ý nghĩa của lời đó quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui..., anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng v.v. nhưng khi chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?

Có ba quan niệm sống có thể tạo ra một thái độ tiêu cực trước cuộc đời.

Một là cho rằng chết là hết, không còn gì tồn tại. Nếu quả thực mọi sự sẽ chấm dứt với cái chết, nếu số phận người tốt kẻ xấu đều sẽ như nhau sau khi chết, thì người ta sẽ có lý mà lập luận rằng: Ta hãy ăn uống, vui chơi, hãy hưởng thụ giây phút hiện tại cho thoả thích, vì chết rồi sẽ chẳng còn gì!

Hai là tin vào thuyết định mệnh, nghĩa là tin rằng mọi sự đã được an bài sẵn và số phận của mỗi người đã được thần thánh định đoạt. Nếu thế thì con người chẳng cần và chẳng có thể làm gì nữa, mọi cố gắng đều vô ích.

Ba là tin vào thuyết luân hồi, cuộc sống là một vòng luân chuyển, hết kiếp này qua kiếp khác. Nếu kiếp này chưa đạt cõi phúc thì sẽ chờ kiếp sau, khi được đầu thai lại, luân hồi theo vòng nghiệp chướng. Dĩ nhiên thuyết luân hồi không đương nhiên dẫn tới tiêu cực, nhưng dù sao cũng không dành cho cuộc sống hiện tại một giá trị và tầm quan trọng quyết định đối với số phận mỗi người.

Khác với ba quan niệm trên, Kitô giáo dạy rằng: Thiên Chúa thực sự giao cho ta chịu trách nhiệm về thế giới này và về sự thành công của cuộc đời chúng ta. Thời gian hiện tại là thời gian quyết định đối với số phận đời đời của con người. Mỗi giây phút qua đi là không bao giờ trở lại. Thời giờ Chúa cho ta sống ở trần gian là vô cùng quý báu, đây là lúc gieo mầm cho đời vĩnh cữu. Chúa Giêsu khuyên chúng ta “phải lo làm giàu trước mặt Thiên Chúa”bằng cách “Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá”.

Chúa Giêsu đưa ra hai dụ ngôn minh hoạ bài học tỉnh thức của Mùa Chay.

Dụ ngôn người đầy tớ đợi chủ về: tỉnh thức như người đầy tớ đợi chủ đi ăn cưới không biết về lúc nào. Thái độ tỉnh thức là “thắt lưng cho gọn”và “thắp đèn cho sẵn”. Luôn sẵn sàng để khi chủ về thì mở cửa và ân cần phục vụ. Tỉnh thức để đợi chủ về. Người Kitô hữu chờ đợi Chúa đến trong vinh quang ngày quang lâm, chờ đợi Chúa đến trong giờ sau hết đời mình. Vì thế người Kitô hữu sống cuộc đời hiện tại một cách rất nghiêm chỉnh, họ cố gắng làm phận sự ở đời một cách hết sức tích cực vì biết rằng đó là Thánh ý của Chúa và vì biết rằng hạnh phúc đời đời của mình đang được chuẩn bị ngay bây giờ. Dụ ngôn người quản gia trung thành. Quản gia chỉ là quản lý mà “ông chủ đặt lên coi sóc gia nhân, cấp phát thóc gạo đúng giờ đúng lúc”. Mỗi người chúng ta là người quản lý của Thiên Chúa. Sự sống, tài năng, trí thông minh, sức khoẻ, sắc đẹp…tất cả đều là do Chúa ban tặng. Những gì mà ta có đều là của Chúa. Người quản lý khôn ngoan phải biết nhìn xa, làm sao cho sự sống, trí tuệ, tài năng… giúp ta hướng tới những giá trị vĩnh cửu.

Tỉnh thức là thái độ của một gia nhân trung thành. Tỉnh thức và đợi chờ với niềm hy vọng là chủ sẽ trở về.

Kitô giáo là tôn giáo của hy vọng vì dựa trên lời hứa của Thiên Chúa. Thiên Chúa hứa và Ngài sẽ thành tín thực hiện lời hứa.Thiên Chúa thực hiện từng giai đoạn và ngày càng trọn vẹn hơn.Vì thế người Kitô hữu luôn hướng về tương lai chờ đợi lời hứa cứu độ đã được thực hiện trong lịch sử và sẽ hoàn tất sau lịch sử.

Chờ đợi hướng về tương lai tức là hy vọng. Hy vọng luôn gắn liền với lòng tin. Không có đức tin hy vọng chỉ là ảo tưởng. Không có hy vọng đức tin sẽ chết khô. Nhờ đức tin chúng ta chọn đúng hướng. Nhưng chỉ có hy vọng mới làm cho ta đi tới cùng đường.

Biết mình đang đi về đâu, người có lòng tin không vì thế mà đương nhiên hết còn cảm nhận tính bi đát của cuộc đời “phù vân, bèo bọt”vì họ vẫn là con người như mọi người, nhưng họ có một niềm hy vọng giúp họ giữ được thái độ lạc quan và an bình.

Biết rằng mình được cứu chuộc bằng giá máu Chúa Kitô, người Kitô hữu luôn có đựơc điểm tựa an toàn cho hạnh phúc đích thực.

Con người là “hoa”và cũng là “rác”, nhưng với tình yêu Chúa Kitô, con người không còn là bèo bọt, không là phù hoa mà là con người của thần khí, trổ sinh những hoa quả của Thánh Linh (Gal 5, 22). Làm việc thiện, luôn bình an, thư thái, tự chủ. Nhờ đó, chúng ta sống một Mùa Chay thánh thiện.

 

27.Cát bụi tuyệt vời--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nhạc Trịnh Công Sơn rất triết lý. Mùa Chay lại về, tôi thích nghe bài ca “Cát Bụi”:

Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai vươn hình hài lớn dậy.

Ôi cát bụi tuyệt vời, mặt trời soi một kiếp rong chơi.

Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi.

Ôi cát bụi mệt nhoài, tiếng động nào gõ nhịp không nguôi.

Bao nhiêu năm làm kiếp con người, chợt một chiều tóc trắng như vôi

Lá úa trên cao rụng đầy, cho trăm năm vào chết một ngày.

Cát bụi, con người chỉ là cát bụi. Hạt bụi tuyệt vời khi hoá kiếp thân tôi. Hạt bụi mệt nhoài khi tôi trở về làm cát bụi. Khi dùng hình ảnh hạt bụi để nói về thân phận con người, Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã lấy nguồn cảm hứng trong Thánh Kinh Sáng Thế: Thiên Chúa dùng bùn đất tạo dựng Ađam, sau khi Ađam phạm tội bất phục tùng, Thiên Chúa phạt ông và con cháu sau này cũng sẽ trở về với cát bụi. (x. St 1, 26-3, 24).

Nghĩ cho cùng, tất cả mọi người cũng chỉ là những hạt bụi hoá thân thành kiếp nhân sinh, sớm muộn cũng sẽ tàn lụi với thời gian.Do đó nỗi khắc khoải ngàn đời của con người là tìm kiếm ý nghĩa của sự hiện hữu, ý nghĩa của đau khổ, ý nghĩa của giải thoát, ý nghĩa của cuộc sống.Vấn nạn mà con người chưa tìm được câu trả lời chính là:

Hạt bụi nào hoá kiếp thân tôi?

Hạt bụi nào hoá kiếp thân bạn?

Và Hạt bụi nào hoá kiếp thân xác chúng ta?

Một vòng quay, một trăm năm, một kiếp người có là mấy! “Chợt một chiều tóc trắng như vôi”. Không phải là trắng như bông, trắng như mây hay trắng như tuyết mà là như vôi đổ xuống huyệt mồ. Trịnh Công Sơn không bi quan, ông chỉ nói lên điều ông cảm nghiệm thấm thía về sự mong manh của kiếp người. Cuộc đời đẹp biết bao, sự sống cao quý biết dường nào, nhưng nó cũng như “đoá hoa vô thường”. Xét cho cùng, đã là con người sinh ra trên đời, mặc dù có sống lâu trăm tuổi, có vẫy vùng ngang dọc cách mấy, từ bụi tro hóa kiếp nhân sinh, cuối cùng rồi cũng trở về bụi tro. Đó là một thực tế, nhìn nhận và đối diện với nó cách can đảm để có thể đưa tới một cuộc sống tốt đẹp hữu ích và có ý nghĩa.

Mùa Chay muốn nhắc nhở chúng ta quay về với sự thật của thân phận con người “Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai rồi sẽ trở về bụi tro…”. Phụng vụ Giáo Hội muốn diễn tả rằng: cuộc đời này mong manh vắn vỏi, bởi thế nó rất hệ trọng.Số phận đời đời của mỗi người được quyết định trong thời gian tạm bợ này. Người theo Đạo Phật thì tin ở sự đầu thai kiếp sau, luân hồi nghiệp báo. Đối với Kitô hữu thì vĩnh cữu được gieo mầm trong hiện tại. Không để thời gian trôi qua cách phung phí. Đời người chỉ có một lần. Được mất chỉ có một cơ hội.

Thân phận mỏng dòn mà Phụng vụ Mùa Chay nhắc cho chúng ta đừng quên, không phải chỉ có liên quan đến phần xác hay chết của phận người mà còn cả về mặt tinh thần cũng mong manh yếu đuối.Thánh Phaolô đã diễn tả kinh nghiệm đó trong thư Rôma “Điều tôi muốn làm thì tôi lại không làm, nhưng điều tôi không muốn làm thì tôi lại cứ làm …Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi lại cứ làm…Tôi khám phá ra luật này là khi tôi muốn làm sự thiện thì lại thấy sự ác xuất hiện ngay.Theo con người nội tâm tôi vui thích vì luật của Chúa, nhưng trong các chi thể của tôi, tôi lại thấy một luật khác: luật này chiến đấu chống lại luật của lý trí và giam hãm tôi trong luật của tôi…tôi thật là một người khốn nạn. Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân xác hay chết này?”( Rm 7, 15.19.21-24).

Ý thức về sự yếu đuối và tội lỗi của mình, về khuynh hướng xấu, sự bất lực nơi bản thân để mỗi người nổ lực giải thoát khỏi sự thống trị khắc nghiệt của tội lỗi và đó là khởi đầu cho ơn hoán cải và ơn cứu độ.

Mùa Chay mời chúng ta vào sa mạc với Chúa Giêsu.Sa mạc là nơi hoang vu trơ trọi, mênh mông. Ở đó người ta mất hết mọi điểm tựa, không còn chi để “chia trí, lo ra”, chẳng hạn như ngoại cảnh ồn ào, các hoạt động, các thú vui, các quan hệ xã hội. Chỉ còn ta với ta và buộc ta phải quay về với mình trong sự đơn độc của chính mình.Trong sự quay về đó ta có cơ may nhìn thấy những điều cốt yếu nhất khi đối diện với chính lòng mình.

Con người chúng ta thường sống hời hợt bên ngoài, tan loãng ra trong trăm thứ linh tinh hay phụ thuộc khác. Mùa Chay mời gọi chúng ta đi vào sa mạc, nghĩa là tạo một sự trống vắng nào đó, một sự thinh lặng của các giác quan của trí khôn và của cõi lòng, một sự rút lui vào trong tâm khảm mình để có thể phân định đâu là cái chính cái phụ, đâu là cái cùng đích và cái phương tiện. Đây chính là lúc hồi tâm.

Biềt mình mỏng dòn, nhưng con người theo Phụng vụ Mùa Chay lại không phải là con người mềm yếu, uỷ mị, ngã nghiêng theo mọi lời mời mọc cám dỗ. Con người Mùa Chay dũng cảm chiến đấu. Như Chúa Giêsu bắt đầu cuộc đời hoạt động công khai. Chúa vào sa mạc và tuyên chiến với Satan tức là với mọi mãnh lực của sự ác một cách không khoan nhượng và Ngài đã chiến thắng. Người Kitô hữu là người biết nói không với tội lỗi, là người dám bơi ngược dòng “Giữa một thế hệ gian tà sa đoạ, anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”( Pl 2, 15). Người Kitô hữu không cố ý sống lập dị khác người, song đứng trước điều xấu, dù là khi cả xã hội đều làm điều xấu đó, họ vẫn không được ngã theo. Họ phải can đảm từ chối một cơ hội làm giàu bất chính, một liên minh bất công, một mối quan hệ tội lỗi….Dĩ nhiên điều đó không dễ chút nào nhưng đã là môn đệ Đức Giêsu, họ không có chọn lựa nào khác.

Con người theo Phụng vụ Mùa Chay biết mình tự thân chỉ là cát bụi, nhưng là “cát bụi tuyệt vời”. Nó vẫn tuyệt vời ngay khi trở về với cát bụi trong một chiều “lá úa trên cao rụng đầy”, chứ không phải chỉ tuyệt vời khi “vươn hình hài lớn dậy”mà thôi.

Đức tin dạy cho chúng ta biết rằng “Hạt bụi”là chúng ta, được tình yêu Thiên Chúa gọi vào hiện hữu và chia sẽ sự sống bất diệt của Người. Kiếp người cho dù có đau thương, có bi đát, đôi lúc tưởng chừngbóng tối lấn lướt ánh sáng, nhưng cuối cùng sự sống, chân lý, tình thương vẫn mạnh hơn tất cả.

Ước gì mỗi người Kitô hữu đều có bản lãnh của Đức Giêsu để chiến thắng sự nặng nề, nhỏ mọn của bản thân; luôn luôn cậy dựa vào Thiên Chúa, sống Mùa Chay thánh thiện để đón nhận nhiều Ơn Phúc Chúa ban.

 

28.Công lý đời sau--Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Sứ điệp Mùa Chay năm nay là một bài suy niệm sâu sắc về dụ ngôn “người phú hộ và Ladarô”(Lc 16,19-31). Lời đầu của Sứ điệp viết: “Mùa Chay là mùa thuận lợi để đi sâu vào đời sống thiêng liêng nhờ những phương tiện thánh hoá Giáo hội đã đem đến cho chúng ta: ăn chay, cầu nguyện và bố thí. Nền tảng của mọi sự là Lời Chúa, mà trong mùa này, chúng ta được mời gọi chuyên chăm lắng nghe và suy ngẫm”.

Suy tư về Lễ Tro và đời sau, trong số 3 của thông điệp, Đức Thánh Cha Phanxicô viết: Phụng vụ Thứ Tư Lễ Tro mời gọi chúng ta đến với một kinh nghiệm gần giống với kinh nghiệm của người giàu có. Khi linh mục xức tro trên đầu chúng ta, ngài lặp lại những lời này: “Hãy nhớ mình là tro bụi, và sẽ trở về bụi tro”. Quả vậy, cả người giàu và người nghèo đều chết, và phần quan trọng hơn của dụ ngôn này diễn ra ở đời sau. Hai nhân vật bỗng nhiên khám phá ra rằng “chúng ta đã chẳng mang gì vào trần gian này, thì cũng chẳng mang gì ra được”(1Tm 6,7).

Dụ ngôn phú hộ và Ladarô cho thấy có một khoảng trống không thể kết nối ở đời này và đời sau; có sự công bằng và công lý ở đời sau. Chính niềm tin vào đời sau được biểu hiện trong hành trình thiêng liêng của Mùa Chay.

Sống ở đời này, phú hộ dư ăn dư mặc, Ladarô nghèo nàn đói lả. Người phú hộ mặc toàn lụa là gấm vóc, Ladarô rách nát tả tơi. Phú hộ nhà cao cửa rộng, Ladarô lê lết bên cổng ăn xin. Phú hộ ngày ngày yến tiệc linh đình, Ladarô không có một chút bánh để ăn. Người sống chốn thiên đàng dương thế, kẻ chịu cảnh hoả ngục trần gian.

Cái chết đến và tất cả đều đảo ngược. Đời sau, Ladarô được đưa lên mây trời, phú hộ bị đày xuống vực thẳm. Ladarô được hưởng phúc thiên đàng, phú hộ phải trầm luân hoả ngục. Có một khoảng cách nghìn trùng giữa hai người mà bên này muốn qua bên kia không được và bên kia muốn qua bên này cũng không thể. Ladarô hạnh phúc trong cung lòng tổ phụ Abraham. Phú hộ chịu cực hình nài xin với Abraham “sai Ladarô nhúng đầu ngón tay vào nước nhỏ trên lưỡi con cho mát vì ở đây bị lửa thiêu đốt”. Khi chết, Ladarô đã tìm được những người bạn hữu: các thiên thần, Abraham tổ phụ, những người có đức tin. Ngược lại, phú hộ chẳng có bạn bè, chẳng có trạng sư biện hộ cho hoàn cảnh của ông ta: hỏa ngục, chính là nỗi cô đơn. Nhất là ông vĩnh viễn xa lìa Thiên Chúa, vì đã sống xa cách anh em. Ðây là một cực hình khủng khiếp nhất. Vực thẳm ngăn cách con người ở đời sau là do con người đã tạo ra ở đời này. Sau khi chết, không còn có thể thay đổi được số phận. Địa ngục là do con người tự tạo ra từ đời này.

Xét cho cùng, ông phú hộ bị trầm luân địa ngục vì tội vô tâm, hững hờ, sống dửng dưng trước nỗi cùng khốn của tha nhân. Ông không có tình thương.

Vì Tình thương là căn tính của con người, nên thiếu Tình thương là sự nghèo khó thảm hại và nguy hiểm nhất. Nó tác động đến bản chất, nó làm cho con người ra thoái hóa, bần tiện và vong thân. Nó hủy diệt con người từ tâm hồn đến dung mạo, nó hạ thấp con người. Thánh Phaolô viết: “Giả như tôi được nói tiên tri, được thông hiểu mọi điều bí nhiệm và mọi lẽ cao siêu nhưng không có lòng mến, thì tôi chẳng là gì”(1Cr 13, 2). Ðó là tình cảnh của những người độc ác, những kẻ giết người, những tên tội phạm chiến tranh, những người nặng óc kỳ thị, thù oán, vu khống, ích kỷ, vụ lợi, tham ô, làm giàu trên xương máu của người khác. Sự nghèo thiếu căn tính này càng gia tăng khi nó xuất phát từ những bè phái, những băng đảng, những nhóm lợi ích, những tập đoàn chỉ biết nghĩ đến quyền lợi của phe nhóm mình mà chà đạp trên nhân phẩm, nhân quyền, sự sống và hạnh phúc của người khác hay của những dân tộc khác.

Ðối diện với những người hay những tập đoàn giàu có đầy quyền lực và quyền bính nhưng thiếu tình thương này là hàng triệu và có khi cả tỷ người cùng khốn, cô đơn, tàn tật, bệnh hoạn, bị bỏ rơi, bị xã hội khai trừ. Họ đang khao khát tình yêu, lòng thương xót, sự chia sẻ, sự cảm thông như người hành khất Ladarô không được chiếu cố, yêu thương và nâng đỡ.

“Ở đời sau, một loại công bằng được phục hồi và những bất hạnh trong đời được đền bù bằng những điều tốt lành”(Sứ điệp số 3). Tội của những người giàu là sống trong dư dật mà không biết nghĩ đến những người túng quẫn. Sự giàu sang thừa thãi làm cho người ta không còn nhạy cảm với những đau khổ của những con người sống bên cạnh họ, làm cho người ta thành đui mù điếc lác trước nhu cầu của người khác. Mùa Chay cảnh giác chúng ta: đừng bao giờ để mình trở nên giống như ông phú hộ keo kiệt, vô cảm trước nhu cầu của người lân cận.

Hành trình thiêng liêng của Mùa Chay phải bắt đầu từ tình thương: cầu nguyện, chay tịnh để sống đức ái chia sẻ.

Có một người nhà giàu nằm mơ thấy một đám rất đông những người nghèo và những người bệnh tật đang kêu xin giúp đỡ. Cảnh tượng ấy khiến ông xúc động và hạ quyết tâm sẽ đi tìm để giúp những người ấy. Sáng hôm sau ông lên xe đi tìm. Vừa ra khỏi cửa nhà, ông gặp ngay một người ăn mày đang ngửa tay xin tiền. Ông định dừng xe lại, nhưng tự nghĩ hãy đi thêm để biết thêm. Chiếc xe chạy qua những con đường, những khu chợ, những quãng trường… Càng đi ông càng thấy những người nghèo khổ đông quá. Trong đầu ông bắt đầu vẽ ra rất nhiều dự án để cứu giúp rất nhiều hạng người. Nhưng ông bối rối chưa biết phải bắt đầu từ đâu. Đến chiều, ông quay xe về nhà, và gặp lại người ăn mày trước cổng, với cũng một tư thế ấy và những lời van xin ấy. Tối hôm đó ông lại nằm mơ và lại nghe thấy những tiếng kêu xin cứu giúp. Nhưng lần này những tiếng ấy không xuất phát từ đám đông, mà từ chính người ăn mày nằm trước cổng nhà ông. Và ông hiểu ra: phải bắt đầu từ chính người ăn mày ấy.

Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta nói: “Tôi luôn nghĩ rằng tình thương phải bắt đầu từ gia đình mình trước, rồi đến khu xóm, đến thành phố… Yêu thương những người ở xa thì rất dễ, nhưng yêu thương những người đang sống với mình hoặc đang ở sát cửa nhà mình mới là khó. Tôi không đồng ý với những cách làm ồn ào. Tình thương phải bắt đầu từ một cá nhân: muốn yêu thương một người, bạn phải tiếp xúc với người đó, gần gũi với người đó”. Ngài còn kể: “Lần kia tôi đi dự một hội nghị ở Bombay về việc cứu giúp những người nghèo. Đến cửa phòng hội, tôi thấy một người đang hấp hối. Tôi đưa người ấy về nhà, sau đó người ấy chết, chết vì đói. Đang lúc đó bên trong phòng hội, hàng trăm người đang hăng hái bàn luận về nạn đói và về vấn đề lương thực: làm thế nào để có lương thực, để có cái này, để có cái kia… Đang lúc họ vạch ra kế hoạch cho cả 15 năm, thì người này phải chết vì đói”. Ngài nói tiếp: “Tôi không bao giờ nhìn những đám đông như là trách nhiệm của tôi. Tôi chỉ nhìn đến những cá nhân, bởi vì mỗi lần tôi chỉ yêu thương được một người, mỗi lần tôi chỉ nuôi được một người. Tôi đã đưa một người về nhà, nhưng nếu tôi không đưa một người ấy về nhà thì tôi đã không đưa 42.000 người về nhà. Toàn thể công việc của tôi chỉ là một giọt nước trong đại dương. Nhưng nếu tôi không góp một giọt nước ấy thì đại dương sẽ thiếu đi một giọt”.

Người giàu thật là người biết cho, người nghèo thật là người chỉ biết nhận. Người giàu thật là người có rất ít nhu cầu nên luôn cảm thấy đủ, người nghèo thật là người có quá nhiều nhu cầu nên luôn cảm thấy thiếu. Sự giàu có thật là giàu trong tâm hồn, sự nghèo nàn thật là một tâm hồn trống rỗng. Bởi vậy cái giàu vật chất thường hay đi đôi với cái nghèo tâm hồn.

Ngay đầu Mùa Chay, Phụng vụ đã nhắc nhở ta cần phải trầm tư để chiêm niệm về thân phận: “Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro và sẽ trở về tro bụi”. Ý nghĩa của Lời Chúa quá rõ ràng: mọi người sẽ phải chết. Vậy anh lao tâm khổ trí, vất vả ngược xuôi, ganh đua tranh dành để tìm kiếm của cải, danh vọng, thú vui…, anh nỗ lực học hỏi, tìm tòi, phát minh, xây dựng… nhưng khi cái chết đến, anh mang theo được thứ gì, tất cả có nghĩa gì cho anh? Cuối cùng thì cái gì là đáng quan tâm nhất trong đời? Ðâu là bậc thang giá trị đời anh?

Xin đừng sống dửng dưng, thờ ơ, khép kín trước người nghèo, mà luôn chạnh lòng xót thương như Chúa Giêsu đã thương những người cùng khốn.

Hãy sống quảng đại cho đi, vui vẻ chia sớt, không chỉ của cải vật chất mà có khi chỉ là một nụ cười thân thiện, một cái bắt tay khích lệ, một lời nói an ủi đở nâng, một lần viếng thăm, một cuộc gặp gỡ kiến tạo sự hiệp nhất bình an. Khi chia nụ cười, ta sẽ nhận về vô số niềm vui. Khi chia vòng tay, ta sẽ nhận về mênh mông ấm áp. Khi chia quan tâm, ta sẽ nhận về bao la yêu thương. Khi chia yêu thương, ta sẽ nhận về rất nhiều hạnh phúc.

Mùa Chay năm nay, hãy siêng năng đến với Chúa Giêsu, nhận lãnh tình thương để chúng ta chân thành trao ban tình thương cho anh em. Làm việc bác ái giúp chúng ta thêm lòng yêu mến Chúa. Luôn nghĩ đến người khác giúp chúng ta biết từ bỏ mình. Biết chạnh lòng thương trước những cảnh đời nghèo khổ sẽ giúp chúng ta thăng tiến trên đường nên thánh.

 

29.Thân phận người--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Bước vào Mùa Chay, nghe ca khúc “Thân phận người” của nhạc sĩ Tuấn Kim như một tâm sự để suy niệm. Giai điệu và lời ca thiết tha ngân nga những thao thức, nhắc nhở mỗi người về thân phận của mình, về cõi nhân sinh: “Phù du là phận người, trăm năm như chớp mắt thôi. Công danh như nước trôi qua cầu, đời con trôi về đâu?”

Phù du là phận người. Mọi sự chỉ là phù vân. Sách Giảng Viên viết rằng: “Tất cả chỉ là phù vân.”  Phù là trôi nổi, huyền ảo. Vân là mây. Phù vân là bèo dạt mây trôi, là hay thay đổi, mau qua, tàn phai. Mọi của cải vật chất trên trần gian này, kể cả cuộc sống của mỗi người đều là phù vân.

Phù du, phù vân diễn tả thân phận bụi tro: “Người ơi hãy nhớ, mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về tro bụi.”  Con người, dù trẻ hay già, dù giàu hay nghèo, dù sang hay hèn, dù quyền thế hay dân thường, dù tài giỏi hay bình thường… thì một mai cũng lìa khỏi  thế gian này trở về cát bụi. Đó là định luật muôn thuở!

Trong nghi thức khai mạc Mùa Chay, các tín hữu từ giáo hoàng, giám mục, linh mục, tu sĩ đến giáo dân, mọi người đều khiêm hạ nhận lấy một chút tro trên đầu. Người giàu cũng như người nghèo, người già cũng như người trẻ, ai cũng nhận mình là thân phận bụi đất. Nghi thức xức tro thật cảm động, vừa diễn tả lòng sám hối, vừa nói lên nguồn gốc tro bụi của đời người.

 

Lần lượt mỗi người, từ cụ ông cụ bà đến trẻ nhỏ bước lên để thừa tác viên rắc tro trên đầu. Nghi thức và cử chỉ ấy giúp con người ý thức thân phận mong manh và giới hạn của mình. “Hãy nhớ ngươi được tạo dựng từ bụi tro, và sẽ trở về với bụi tro.”  Đó là lời Thiên Chúa đã phán với Ađam Evà. Đó là lời Chúa nói với từng người khi lên xức tro.

Ý thức thân phận giới hạn mong mong của mình, để làm gì?

Để biết rằng tôi không sống mãi trong cuộc đời này, sớm muộn gì cũng đến lúc tôi trở về với Chúa, và tôi sẽ phải trả lời trước mặt Chúa về cuộc đời của mình. Con người có sinh có tử, có hợp có tan, có khởi đầu sẽ có kết thúc.

Nghĩ về sự chết để mà sống sao cho “đẹp” đời trần thế. Làm sao để tôi sống cuộc đời này cách ý thức hơn, với tinh thần trách nhiệm hơn, để khi đến trước mặt Chúa tôi có thể đến trong niềm vui, chứ không phải trong sự sợ hãi!

Vì thế, cử chỉ xức tro còn hàm chứa một lời mời gọi: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”; hãy nhìn nhận những tội lỗi thiếu sót, những bất tất trong cuộc đời của mình, và hãy cố gắng để sửa đổi những gì còn thiếu sót đó để sống hợp với thánh ý Thiên Chúa hơn.

Đó là lời mời gọi mà Chúa gởi đến từng người qua nghi thức xức tro rất đơn sơ nhưng giàu ý nghĩa và thật xúc động.

Thứ Tư Lễ Tro mở cửa vào Mùa Chay Thánh 40 ngày. Đây là thời gian giúp chúng ta ý thức về sự mong manh giới hạn của đời người, sống lời mời gọi sám hối và trở về với Tin mừng. 40 ngày Chay Thánh nhằm chuẩn bị cho chúng ta sống mầu nhiệm cuộc Thương khó của Chúa Giêsu, đón nhận cái chết, và mừng ngày Phục sinh của Người.

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân.

Tiên tri Gioel đã kêu gọi :“Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng họa” (Ge 2,13). “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo… Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta!”  Đó là ý nghĩa cơ bản và sâu xa nhất của sự hoán cải. Cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ thói quen xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái tập thế quân bình giữa hồn và xác.

Thứ Tư Lễ Tro khởi đầu Mùa Chay Thánh, mỗi người cố gắng thực hành những việc đạo đức như Giáo Hội mời gọi.

– Hòa giải với Chúa và với nhau.

Do tội lỗi, con người bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống, và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Thiên Chúa mời gọi con người trở về với Ngài, giao hòa trong tình con thảo và sống trong niềm vui ân sủng.

Sự giao hoà phải là một lời cầu nguyên khiêm tốn : “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa.”  Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa, diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Theo gương Thánh Giuse sống thinh lặng nội tâm và đón nhận Bí Tích Hòa Giải. Cần rút lui vào thinh lặng của tâm hồn, hãy sống kín đáo với Chúa trong tâm hồn mình. Đó là mục đích của những cuộc tĩnh tâm Mùa Chay. Có một người lâu năm không xưng tội, bỗng một ngày kia anh cho vợ con đi về nhà ngoại chơi một tuần; một mình anh ở nhà, xét mình để chuẩn bị xưng tội. Anh đến tòa giải tội với một cuốn tập viết đầy từ đầu chí cuối. Chỉ trong thinh lặng, người ta mới thấy mình được rõ hơn.

Hòa giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết : “Nếu người dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hòa với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của người.”  Bởi vậy, xin ơn giải hòa với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xóa đi những xích mích, bất hòa hờn giận với người khác.

– Hy sinh hãm mình.

Truyền thống Giáo Hội từ xa xưa giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy, tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ suất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh“. (Tu luật Biển Đức).

Mùa Chay là một thời gian thuận tiện để rèn luyện tâm hồn. Chúa Giêsu đưa ra cho chúng ta chương trình ba điểm để rèn luyện trong Mùa Chay. Đó là ăn chay, cầu nguyện và làm việc bác ái.

Ăn chay là một phương thế hữu hiệu để rèn luyện tâm hồn. Cầu nguyện càng sâu xa chúng ta càng thân thiết với Chúa, ai siêng năng cầu nguyện sẽ được sức mạnh cần thiết để chiến thắng các cơn cám dỗ. Làm việc bác ái, tình yêu Chúa thực sự sẽ được thể hiện trong tình yêu mến anh em đồng loại.

Mùa Chay là những ngày thánh: “Đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ.”  Thiên Chúa lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận.

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giúp chúng con trong Mùa Chay Thánh này, biết ý thức thân phận của mình, thực thi việc phải làm là được hòa giải với Thiên Chúa, với chính mình và với anh em.

Xin Thánh Giuse hướng dẫn chúng con trong cuộc hành trình này, để chúng con có thể hoán cải bản thân và nghiệm thấy ân sủng của Thiên Chúa luôn tuôn đổ trên mỗi người chúng con, giúp chúng con được biến đổi nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Amen!

 

30.Sứ điệp của TRO--Lm. Đaminh Nguyễn Ngọc Long

Lễ Tro mọi người tín hữu tiếp nhận tro xức trên trán, trên đỉnh đầu. Ðây là tập tục tôn giáo đạo đức có từ thời xa xưa trong Cựu ước.

Nhưng tro nói lên dấu chỉ ý nghĩa gì cho đời sống niềm tin đạo giáo?

1. Sau buổi lửa trại một đống củi được đốt thắp sáng lên lúc chiều tối, sáng hôm sau chỉ còn lại một nắm tro tàn nguội.

Ngày tháng đời sống con người cũng như vậy. Những lời chân tình trao cho nhau như than hồng nồng cháy, những ước vọng nhiệt huyết hăng say làm sưởi ấm lòng người, sau cùng cũng biến thành tro tàn.

Lời kinh Thánh nhắn nhủ: Hỡi người hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro!

2. Tro tàn còn lại sau trận hỏa hoạn

Tro tàn từ đống sách báo bị thiêu đốt hủy diệt.

Tro tàn sau trận chiến chém giết nhau bên Sarajevo, bên Irak, bên Haiiti, bên Congo, bên Hiroshima, bên Afghanistan...

Tro tàn gắn liền với lịch sử đời sống con người: tro tàn của tội lỗi.

Và tro tàn cũng do tội lỗi, thiếu xót của lịch sử từng cá nhân còn lưu lại: một tâm hồn tan hoang chán chường thất vọng, đổ vỡ không còn muốn nhìn về đằng trước. Vì niềm tin, niềm hy vọng đã cạn, như lời Ðức Mẹ Maria nói với Chúa Giêsu: Họ hết rượu rồi!

Lời kinh Thánh nhắn nhủ. Hỡi người hãy nhớ mình là người tội lỗi. Tội lỗi là đống tro tàn trong tâm hồn đời sống.

3. Sau mùa gặt hái, rơm rạ cây khô cỏ dại ngoài đồng ruộng được đốt cháy chỉ còn lại tro bụi. Bụi tro đó thẩm thấu xuống lòng đất, và biến thành chất phân bón sức sống cho cây lúa, cho hạt giống nẩy mầm đời sống mới của mùa gieo trồng kế tiếp.

Trong lò lửa, than củi bị đốt cháy, tạo nên sức nóng cực mạnh làm nung chảy vàng bạc kim loại và từ đấy lọc tẩy ra, đúc thành khuôn mẫu hình thù mới.

Ðời sống con người cũng bị thử thách trôi luyện như vậy, để trở thành một „người mới khác”.

Hỡi người hãy biết mình được tạo dựng sinh ra cho sự sống, cho tốt lành thiện hảo. Hãy trở về với niềm tin và đặt tin tưởng vào Thiên Chúa, Ðấng là nguồn sự sống đời mình!

 

31.Mầu tím trong phụng vụ mùa chay--Lm. Đaminh Nguyễn ngọc Long

Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.

Suốt năm tuần lễ mùa chay bắt đầu từ thứ Tư lễ Tro đến Chúa nhật lễ Lá, trong các lễ nghi phụng vụ đều dùng mầu tím từ khăn phủ bàn thờ đến áo lễ linh mục mặc.

Mầu tìm có ý nghĩa gì trong đời sống đức tin chúng ta?

Mầu tím là hỗn hợp pha trộn của hai mầu đỏ và xanh chung nhau.

Mầu tím nói về sự ăn năn thống hối trở về đường ngay lối chính.

Mầu tím dùng trong Phụng vụ cho mùa Vọng chuẩn bị đón mừng lễ Chúa Giáng sinh nhập thể làm người, cho mùa chay chuẩn bị đón mừng lễ Chúa sống lại từ cõi chết, cho nghi lễ cử hành bí tích hòa giải thống hối, cho lễ nghi rước kiệu cầu mùa ba ngày trước lễ Chúa Giêsu lên trời, và cho nghi lễ an táng người qua đời.

Trong mùa chay, phẩm phục phụng vụ dùng mầu tím muốn diễn tả: đời sống cũ của con người sụp tàn qua đi, và đời sống mới trong con người nẩy mầm mọc lên.

Đúng như vậy, mầu tím diễn tả sâu xa khía cạnh sụp đổ suy tàn, sự qua đi, sự cởi bỏ của con người cũ, nó khơi lên sự sầu buồn, nhớ nhung mong chờ.

Nhiều người nghĩ rằng mầu tím gợi lên tâm tưởng bất an, gây suy nghĩ bối rối. Có người cho rằng mầu tím đóng vai trò trung gian trình bày giữa trời và đất, giữa đam mê khát vọng và thông minh của trí khôn, giữa tình yêu mến và sự khôn ngoan.

Giáo Hội nhìn nơi mầu tím là mầu nối kết giữa mầu xanh và mầu đỏ. Mầu xanh nói chỉ về trời, còn mầu đỏ nói chỉ về con người.

Mầu tím dùng trong phụng vụ mùa chay muốn nói lên ý nghĩa: Thần linh Thiên Chúa liên kết với con người, cùng tìm cách thấm nhập vào thân xác máu mủ của họ.

Mùa chay không chỉ nguyên là thời thời gian hãm mình kiêng khem, nhưng còn là thời gian tinh luyện tẩy rửa cho trở nên tinh ròng thanh sạch, thân xác hướng về Thiên Chúa nơi trời cao, như mầu đỏ hoà lẫn chung hợp với mầu xanh.

Trong lễ an táng người qúa cố vị chủ tế mặc phẩm phục lễ nghi mầu tím muốn nói lên niềm hy vọng, người qúa cố với cả thân xác linh hồn đi về với Thiên Chúa, trời và đất liên kết lại với nhau, đất được cất nhắc đưa lên trời cao.

Mầu tím trong phụng vụ mùa chay nói lên ý nghĩa cánh cửa mầu nhiệm chết, sự đau buồn mở sang nếp sống mới: sự sống lại của Chúa Giêsu là ơn cứu chuộc cho con người.

 

32.Ý nghĩa của lửa và tro--Lm. Giuse Vũ Tiến Tặng

Lửa và tro là hai biểu tượng ghi dấu để bước vào Mùa Chay. Nhúm tro tàn một cách bột phát gợi lên sự sầu khổ thiêng liêng, sự điêu tàn. Nhưng ở đây, người ta thấy sự khởi đầu một sự bắt đầu lại, một sự sám hối. Đó là nội dung bài chia sẻ của Đức Hồng Y Pierre Eyt cho các bạn trẻ về ý nghĩa Mùa Chay tại nhà thờ chính tòa Thánh Anrê, giáo phận Bordeaux, Pháp.

Thứ Tư lễ Tro không phải chỉ là ngày hôm sau của Thứ Ba Béo. Trước tiên, nó không phải là một ngày mang nét dân gian. Thứ Tư lễ Tro đối với các Kitô hữu là dịp bước vào Mùa Chay. Nó diễn tả một con đường thiêng liêng, được biểu hiện và hỗ trợ bởi những dấu chỉ, những biểu tượng như lửa và nhúm tro xức trên trán.

Hình ảnh lửa mà chúng ta sẽ lại thấy trong đêm Vọng Phục Sinh có ý nghĩa là chúng ta muốn thiêu đốt những gì cản bước chúng ta, và rồi chúng ta muốn hủy diệt tội lỗi vốn làm cho con người bị tổn thương và dị dạng. Thánh Phaolô nói rằng cần phải phá bỏ trong chúng ta con người cũ để mang lấy con người mới (x. Col 3, 1-11). Lời gọi thật rõ ràng. Nó chứa đựng lời rao giảng đầu tiên của Chúa Giêsu là: « Hãy sám hối ». Điều này còn có nghĩa là thay đổi tinh thần, thay đổi tâm hồn, thay đổi não trạng. Tất cả những ích kỷ, lười biếng, lề mề, tham lam, giận dữ, bạo hành, kiêu ngạo là những thứ cần phá hủy và thiêu rụi.

Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm về tội. Làm thế nào để dũ bỏ nó? Chúa Giêsu dạy bảo trong Tin Mừng rằng chúng ta sẽ là những kẻ chiến thắng tội lỗi khi biết thay thế lửa của sự xấu bằng lửa của Tình Yêu. Bởi vì, trước tiên lửa ở đây bừng cháy để thiêu hủy, nhưng cùng lúc nó còn chiếu sáng, sưởi ấm, củng cố, hướng dẫn và động viên. Như một ngọn lửa sống động, Đức Kitô là ánh sáng, là hơi ấm, là tiếng gọi, là sự an ủi. Ước chi ngọn lửa này tiếp tục bừng cháy trong tâm hồn chúng ta.

Tro được xức trên trán đối với chúng ta còn minh nhiên kêu gọi sám hối, nói cách chính xác là bằng con đường khiêm nhường. Nắm tro là những gì còn lại sau khi ngọn lửa thiêu rụi chất liệu mà nó đã chiếm lĩnh hoàn toàn. Chúng ta nhận thấy rằng khi có những nắm tro tàn, điều đó hẳn là không còn gì nữa từ cái mà đã bị lửa thiêu hủy. Đó còn là hình ảnh về sự nghèo khó của chúng ta. Nhưng tro cũng còn có thể làm cho đất đai màu mỡ, giúp tái tạo thiên nhiên và sự sống có thể tái sinh dưới đống tro tàn.

Khi chúng ta lưu ý đến những gì mang ý nghĩa từ tro tàn là chúng ta được dẫn vào bí tích giao hòa và thống hối. Nói rằng mình có tội là để được đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa. Nói rằng chúng ta hung bạo và hối tiếc về điều ấy, rồi ăn năn hối lỗi là để đến lượt mình chúng ta cũng biết bắt chước Thiên Chúa trong việc tha thứ. Bí tích giao hòa định hướng nội tâm, cũng giống như ngọn lửa có thể soi tỏ cho chúng ta từ bên ngoài trước bóng đêm tội lỗi. Do đó, con đường Phục Sinh nhìn bề ngoài gồm sáu tuần lễ và bốn mươi ngày của Mùa Chay, nhưng cách đặc biệt còn là con đường của trái tim, con đường của nội tâm, con đường của sám hối.

Lửa, tro, thống hối…nói lên sự phá bỏ và thiêu rụi « con người cũ », nhưng một điều rất rõ ràng, người ta chỉ hủy bỏ và thiêu rụi để thay thế bằng cái khác. Vậy thì tất cả nghĩa cử, hành động, và dấn thân mà Giáo Hội đề nghị thực hành cho Mùa Chay mà trong Tin Mừng chính Đức Giêsu đã giảng giải cho chúng ta về tính khẩn thiết như: bố thí, cầu nguyện, ăn chay. Điều này đề cập đến việc xây dựng lại những gì đã bị phá hủy. Đó chính là xây dựng bằng ân sủng của Đức Kitô, và bằng cách đưa bàn tay của mình cho Ngài dẫn dắt. Đó còn là xây dựng bằng Thần Khí của Đức Kitô tác tạo nên con người mới. Ở đó hội tụ ba phương hướng mà Tin Mừng nói với chúng ta: bố thí, cầu nguyện và chay tịnh.

 

33.Tro nhắc ta ý thức thân phận mình--Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Năm nào cũng thế, Giáo Hội dành cả một Mùa Chay dài để mời gọi chúng ta ý thức thân phận nhỏ nhoi mỏng dòn nơi bản tính con người của mình, vốn dễ bị tội lỗi thống trị. Nghi thức xức tro chính là nghi thức khai mạc Mùa Chay. Nó là hành động hữu hiệu và cụ thể nhất nhắc nhỡ ta về thân phận và kiếp người nhỏ nhoi mỏng dòn ấy. Để khi cúi đầu nhận lãnh một chút tro từ tay Thừa Tác Viên, bạn và tôi hiểu rằng: Thân phận này chỉ là bụi tro, Bởi thế, nghi thức xức tro là một nghi thức sám hối ý nghĩa nhất.

Nếu ta xức tro bằng một ý hướng ngay lành, bằng một tâm hồn thành thật, nghi thức này sẽ cho ta sự khiêm tốn cần thiết để đón nhận bài học của một sự thật rất quý giá: xuất phát từ tro bụi, thân phận được hoàn trả cho bụi tro. Chỉ cầm một lần xuôi tay nhắm mắt là đủ để tất cả tan biến.

Đồng thời Mùa Chay còn giúp ta có đủ thời gian chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh, đón mừng vị thủ lãnh của ta vượt qua sự chết, sự đau khổ đưa ta vào nguồn sống thật. Dẫu chỉ là tro bụi, nhưng nhờ Chúa Ki-tô, thân phận bụi tro không mất đi, không tan biến đời đời, nhưng lại được mặc lấy sự sống vĩnh cửu, sự sống phục sinh huy hoàng của chính Chúa Ki-tô.

Với hai tâm tình chính của Mùa Chay: ý thức thân phận của bản thân và chuẩn bị tâm hồn đón mừng mầu nhiệm Phục Sinh như thế, Giáo Hội mời gọi ta ăn năn sám hối, mời gọi ta trở về với Chúa bằng nỗ lực nên thánh của mình. Bài học của sự trở về và nên thánh của các thánh sẽ là bài học cụ thể cho ta noi gương bắt chước. Tôi muốn nói với bạn về cuộc trở lại của thánh Phao-lô Tông Đồ.

Sách Công Vụ Tông Đồ cho biết, thánh Phao-lô là một thanh niên Do-thái nhiệt thành và rất sùng đạo. Phao-lô không thể chấp nhận giáo thuyết quá mới mẻ của ông Giê-su, một thứ giáo thuyết dường như đi ngược lại mọi lề luật, mọi truyền thống của cha ông. Chính bản thân ông Giê-su đã bị các bậc lãnh đạo trong đạo Do-thái và chính quyền đế quốc giết chết nhục nhã và thảm hại trên thật giá. Cuộc đời Giê-su đã chấm hết từ đó, vậy mà những người tự xưng là môn đệ của Giê-su lại rao giảng ở khắp nơi rằng Giê-su đã sống lại, không những vẫn sống cho đến nay, mà sẽ sống đời đời. Đám môn đệ khờ dại ngu ngốc còn cho rằng: Giê-su là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu thế mà trần gian này chỉ có một. Mỉa mai thay! Làm sao một người đạo đức như Phao-lô, rất mực tôn thờ Chúa như Phao-lô lại có thể chấp nhận những điều ấy. Phạm thượng đến thế là cùng!

Chưa hết, đám môn đệ đáng thương đó còn hăng say gieo rắc cái lý thuyết đầy tội lỗi ấy khắp nơi. Bây giờ lũ người mê muội ấy càng lúc càng đông. Phải chặn đứng. Phải tiêu diệt. Phải bảo vệ tôn giáo và truyền thống của cha ông.

 

Và cuộc tử đạo đầu tiên bắt đầu. Một người thanh niên cũng ngoan đạo không kém gì Phao-lô: Stê-pha-nô. Khác một điều, Stê-pha-nô lại trung thành với Giê-su quá mức, sẵn sàng chết để tuyên xưng niềm tin vào Giê-su. Tội của Stê-pha-nô đáng chết lắm. Ngày tử hình Stê-pha-nô, Phao-lô đã làm chứng nhân cho cuộc hành huyết này. Từ đó chàng trai Phao-lô càng hăng say bảo vệ Do-thái giáo. Anh đã lên Giê-ru-sa-lem, xin các bậc lãnh đạo chứng minh thư để đi Đa-mát bắt hết bọn người ngu ngốc tin tưởng vào Giê-su, đem về Giê-ru-sa-lem mà xử tội.

Phao-lô lầm to. Các môn đệ của Chúa Giê-su không hề ngu ngốc, chỉ có Phao-lô là không hiểu biết gì. Phao-lô không hề là đối tượng thù ghét của Giê-su. Chỉ có Phao-lô là thù ghét Giê-su và bắt bớ môn đệ Ngài mà thôi. Phao-lô đâu có ngờ rằng, chính khi ra sức bảo vệ đạo giáo, bảo vệ truyền thống của cha ông, Phao-lô đã kịch liệt chống đối Thiên Chúa, phạm thượng đến mức quá sức tưởng tượng và tàn nhẫn vô song khi đổ máu các môn đệ.

Chính Giê-su chẳng những không thù ghét mà còn muốn Phao-lô trở lại làm môn đệ cho Ngài. Buổi trưa hôm ấy, tiếng của Chúa Giê-su uy hùng trong ánh sáng huyền diệu siêu phàm: “Sao-lô, Sao-lô sao người bắt bớ Ta?”đã xô Phao-lô ngã ngựa trong cơn khiếp sợ kinh hoàng. Từ đó Phao-lô đã đổi đời. Chàng trai Sao-lô ngày nào hăng say chống phá Đạo Mới của thủ lãnh Giê-su bao nhiêu, giờ đây trở nên thánh Phao-lô hăng say gìn giữ và bảo vệ giáo huấn của Giê-su bấy nhiêu. Chúa Giê-su đã không lầm khi chọn một kẻ thù nghịch với mình làm môn đệ. Bởi kẻ thù nghịch ấy bây giờ đã trở thành một trong những môn đệ hàng đầu trong số các môn đệ. Phao-lô nguyện suốt đời tôn thờ Chúa Giê-su, suốt đời trung thành với giáo huấn của Ngài. Thánh Phao-lô đã nên giống Thầy Giê-su cho đến mức, cuối đời, sau những năm tháng dài vất vả bôn ba khắp nơi để rao giảng giáo huấn của Thầy, đã hiến dâng dòng máu, hiến dâng mạng sống của mình làm chứng tá cho giáo huấn đó.

Thánh Phao-lô là tấm gương cho sự quyết tâm trở về và trung thành với Chúa của Chúng ta. Cuộc trở về của ngài là bài học của sự dứt khoát từ bỏ quá khứ mà ta cần học lấy cho chính mình, để dù có tội lỗi đến đâu, có bất xứng cách mấy, ta vẫn có thể nhìn vào đó mà đứng lên, làm một cuộc đổi đời như thánh Phao-lô.

Không chỉ là tấm gương tuyệt hảo cho ta, trong Bài Đọc Hai của Lễ Tro hôm nay, bài trích thư gửi giáo dân thành Cô-rin-tô, thánh Phao-lô còn mời gọi: “Nhân danh Chúa Ki-tô, tôi năn nỉ anh em hãy làm hòa cùng Thiên Chúa”. “Tôi năn nỉ anh em!”Lời mời gọi sao mà tha thiết quá, đáng yêu quá. Từ một con người quá xa lạ với Đạo Chúa, xa lạ đến mức như là tội ác, vậy mà giờ đây lại có những lời chân thành thấm thía đến thế. Con người đó rất đáng để bạn và tôi khâm phục. Cả con người và lời “năn nỉ”đó rất đáng cho ta học lấy và nghe theo để cả đời ta cũng sẽ tốt lành thánh thiện như ngài.

Có ai ngờ một kẻ chống đạo lại trở thành thánh nhân. Thánh Phao-lô, một bầu trời hy vọng cho ta. Ngay cả một lần chối Chúa cũng chưa từng, và sẽ không bao giờ dám có một ý nghĩ nào manh nha như thế, đừng nói chi đến chống đối Thiên Chúa, chúng ta tin tưởng điều mà thánh Phao-lô đã đạt được hôm nay, nhờ tình yêu của Chúa, ta cũng sẽ đạt được trọn vẹn như thế.

Mùa Chay, rắc một chút tro tàn lên đầu để mỗi ngày ý thức thân phận bé nhỏ của mình mà cảm nhận lòng thương xót của Chúa, mà nỗ lực cộng tác với ơn Chúa. Nhờ đó ta dám hy vọng chính bản thân ta có thể bước ra từ thân phận tội nhân để trở thành thánh nhân.

 

34.Suy niệm thứ tư lễ tro--Lm. Anthony Trung Thành

Lời Chúa ngày Thứ Tư Lễ Tro hôm nay nhắc nhở chúng ta về ba nhiệm vụ chính của Mùa Chay, đó là: ăn chay, cầu nguyện và làm phúc bố thí.

Ăn chay: Giáo hội chỉ buộc các kitô hữu từ 18 tuổi trọn đến bắt đầu tuổi 60 giữ chay 2 ngày trong năm, đó là Thứ Tư lễ Tro và Thứ Sáu Tuần Thánh. Cách thức ăn chay: Ăn một bữa no, còn hai bữa khác chỉ ăn một chút. Thông thường chúng ta lấy bữa trưa làm bữa ăn chính (ăn no), bữa sáng nhịn hoặc ăn một chút gọi là lót lòng, còn bữa tối ăn 1/3 phần ăn chính. Ngoài các bữa ăn trên, trong ngày giữ chay chỉ được dùng thức uống lỏng như nước, trà…chứ không được dùng thức ăn đặc. Giáo hội còn khuyến khích các kitô hữu ăn chay mỗi khi có thể hoặc để cầu nguyện cho một ý nguyên nào đó. Chẳng hạn, ngày 23/03 sắp tới, Đức Giáo Hoàng Phanxicô mời gọi tất cả các tín hữu ăn chay để cầu nguyện cho Hòa bình. Ngoài ra, người kitô hữu cũng được mời gọi giữ chay theo các cách thức khác như: Giữ chay thánh thể trước khi rước lễ; giữ chay tự nhiên như kiêng ăn kiêng uống; giữ chay luân lý như hãm bớt những vui thú.

Khi giữ chay, người kitô hữu không chỉ giữ luật mà còn đem lại nhiều lợi ích khác. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Việc chay tịnh giải tỏa bạo lực của chúng ta, và là cơ hội quan trọng để tăng trưởng. Một đàng chay tịnh cũng giúp chúng ta cảm nghiệm điều mà nhiều người khác đang thiếu thốn, thiếu những điều cần thiết và bị đói. Chay tịnh biểu lộ tình trạng tinh thần của chúng ta, đang đói khát lòng từ nhân và sự sống của Thiên Chúa. Chay tịnh thức tỉnh và làm cho chúng ta chú ý hơn đối với Thiên Chúa và tha nhân, thúc đẩy ý chí vâng phục Thiên Chúa, là Đấng duy nhất có thể thỏa mãn sự đói khát của chúng ta.”(Sứ điệp Mùa Chay 2018)

Ăn chay thường đi liền với kiêng thịt. Luật kiêng thịt buộc các kitô hữu từ 14 tuổi cho đến chết.

Cầu nguyện: Đức Giêsu đã từng nói với các Tông đồ rằng: “Các con hãy cầu nguyện luôn kẻo sa chước cám dỗ.”(Mc 14,38). Ngài cũng dạy các Tông đồ cầu nguyện bằng Kinh Lạy Cha. Vì thế, cầu nguyện là bổn phận của người kitô hữu. Cầu nguyện để liên kết với Thiên Chúa là Cha. Cầu nguyện để xua trừ ma quỷ. Cầu nguyện để xin ơn. Cầu nguyện để cám tạ, chúc tụng và ngợi khen Chúa. Cầu nguyện cần thiết cho linh hồn như hơi thở cần cho sự sống phần xác. Người kitô hữu có thể cầu nguyện ở khắp mọi nơi và bất cứ thời gian nào trong ngày: cầu nguyện chung, cầu nguyện riêng, cầu nguyện tại tư gia, cầu nguyện tại nhà thờ, cầu nguyện tại nơi làm việc, cầu nguyện sáng mai, chiều hôm hay ban tối.

Ước gì chúng ta luôn biết dành nhiều thời gian trong ngày để cầu nguyện. Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói: “Khi dành nhiều thời giờ hơn cho kinh nguyện, chúng ta sẽ để cho tâm hồn mình khám phá những gian dối bí mật chúng ta thường dùng để đánh lừa chính mình, để tìm kiếm sự an ủi trong Thiên Chúa là Cha và là Đấng muốn cho chúng ta được sống.”(Sứ điệp Mùa Chay 2018)

Bố thí: Tin mừng Mathêu cho chúng ta biết, đến ngày tận thế, vị thẩm phán sẽ dựa vào việc chúng ta làm phúc bố thí hay không để thưởng hay phạt chúng ta (x. Mt 25, 31-46). Như vậy, đối với các kitô hữu, việc làm phúc bố thí là một bổn phận. Nếu ai không làm thì sẽ mắc tội thiếu sót. Chúng ta nhớ dụ ngôn nhà phú hộ và ông Lazarô: Nhà phú hộ vì thiếu lòng bác ái đối với ông Lazarô nên khi chết phải sa hỏa ngục (x. Lc 16, 19-31).

Trong sứ điệp Mùa chay năm nay, Đức Giáo Hoàng Phanxicô cũng đề cập đến việc làm phúc bố thí, Ngài nói: “Việc thực hành làm phúc bố thí giải thoát chúng ta khỏi sự ham hố và giúp khám phá tha nhân là anh chị em chúng ta: điều chúng ta sở hữu không phải chỉ là của chúng ta. Tôi ước mong việc làm phúc được biến thành lối sống đích thực của mỗi người!”(Sứ điệp Mùa Chay 2018).

Nhưng bố thí không chỉ bằng tiền bạc, của cải mà còn bằng nhiều cách thế khác nữa. Câu chuyện sau đây cho chúng ta thấy điều đó.

Một ngày nọ, có người đàn ông chạy đến trước mặt lão hòa thượng, vừa khóc vừa kể lể: “Thưa ngài, vì sao con làm việc gì cũng đều không thành? Số con thật khổ!”

Lão hòa thượng điềm tĩnh trả lời anh rằng: “Đó là vì con không học được cách bố thí mà thôi.”

Người đàn ông nước mắt giàn giụa, nói: “Nhưng thưa ngài, con chỉ là một kẻ nghèo đói, ngày ăn không đủ bữa, lấy gì để bố thí đây ạ!”

Lão hòa thượng nghe xong, mỉm cười hiền từ nói với anh ta rằng: “Không phải thế! Này con, một người dù chẳng giàu sang, không tiền bạc, dù nghèo khổ mấy cũng vẫn có thể cho người khác được 7 thứ này. Để ta giảng cho con nghe. Đó là:

Thứ nhất, bố thí bằng vẻ mặt. Con có thể tặng người khác vẻ mặt tươi cười, niềm nở.

Thứ hai, bố thí bằng lời nói. Con có thể cho người khác những lời cổ vũ, an ủi, động viên, lời khiêm tốn và lời ấm áp.

Thứ ba, bố thí bằng tấm lòng. Con hãy mở rộng lòng mình và đối xử chân thành với người khác.

Thứ tư, bố thí bằng ánh mắt. Con hãy dùng ánh mắt trìu mến, cái nhìn thiện lương dành tặng mỗi người mà con gặp trên đường đời.

Thứ năm, bố thí bằng hành động. Con hãy thật lòng giúp đỡ người khác, làm điều tốt cho người.

Thứ sáu, bố thí bằng chỗ ngồi. Khi đi xe hay thuyền, có thể đem chỗ ngồi của mình tặng cho người khác.

Thứ bảy, bố thí bằng nơi ở. Con có thể đem phòng trống, không sử dụng để cho người khác nghỉ nhờ một đêm.

Dù giàu hay nghèo, bất luận là ai, chỉ cần học được 7 loại bố thí ấy thì cuộc đời của con sẽ mãi ngập tràn hạnh phúc, có đâu còn đau khổ, buồn bực nữa đây con của ta!”.

Người đàn ông nghe xong chợt như bừng tỉnh cơn mê, cúi rạp người xuống, run rẩy nói: “Thưa đại sư, giờ thì con đã hiểu. Trên đời, người cho đi nhiều nhất chính là người hạnh phúc nhất!.”(Sưu tầm)

Xin cho tất cả chúng ta biết siêng năng cầu nguyện, ăn chay và làm phúc bố thí. Và khi làm những việc đó hãy làm trong tinh thần âm thầm, khiêm tốn chứ không làm để phô trương cho người ta thấy.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết chu toàn bổn phận ăn chay, cầu nguyện nhất là luôn biết làm phúc bố thí cho những người xung quanh. Amen.

 

35.Đừng chỉ chăm sóc thân xác mà lãng quên linh hồn--Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Bụi tro mà chúng ta rắc lên đầu hôm nay nhắc nhở chúng ta nhớ rằng mai đây thân xác chúng ta sẽ là tro bụi. “Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi, mai đây người sẽ trở về bụi tro.”

Trong những ngày tết, nhiều người bỏ ra khá tiền để tậu cho gia đình mình một cành mai, một chậu hoa thật rực rỡ trong nhà. Nhưng qua mấy ngày sau, những cành mai đó, những chậu hoa tươi đẹp rực rỡ đó phải úa tàn và phải bị ném vào thùng rác. Hôm nay là hoa, mai là rác.

Tương tự như thế, hôm nay đời chúng ta đang lên, đang giàu sang phú quý, đang huy hoàng như chậu hoa rực rỡ trong nhà, nhưng mai đây, kẻ trước người sau, mỗi người chúng ta chỉ còn là nắm xương, là lọ tro, nếu người nhà mang xác đi thiêu.

Không lẽ đời người lại kết thúc bi thảm thế sao!

Vậy thì chúng ta phải liệu cách nào để cuộc đời chúng ta không kết thúc cách bi đát?

Nhà kia có hai đứa con, một đứa thì được cha mẹ chăm sóc tối đa: cho ăn cho mặc, cho tiêu xài, cung cấp cho đủ thứ, không từ chối nó bất cứ điều gì nó muốn, thậm chí nó đòi hỏi những điều trái luân thường đạo lý thì cũng cho luôn.

Còn đứa con thứ hai thì không được cha mẹ đoái hoài: không cho ăn, không cho mặc, không cho thuốc men, không cho bất cứ gì nó cần.

Làm cha mẹ như thế có công bằng không?

Làm cha mẹ như thế có đáng bị lên án không?

Bản thân tôi cũng có hai đứa con: linh hồn và thân xác. Bao nhiêu năm qua tôi quá chú trọng thân xác mà quên mất linh hồn. Châm ngôn sống của tôi là: Tất cả cho thân xác, tất cả cho cuộc sống đời nầy.

24 giờ của một ngày, tôi đều dành trọn cho thân xác.

168 giờ của một tuần, tôi cũng đều dành trọn cho thân xác.

720 giờ của một tháng cũng được dành trọn cho thân xác.

Và cứ thế, từ ngày nầy trải qua ngày khác, hết tháng nầy đến tháng kia, tôi chỉ biết chăm lo cho thân xác mà thôi.

Còn linh hồn thì bị bỏ rơi, không được đoái hoài. Suốt 24 giờ của mỗi ngày, 168 giờ của mỗi tuần, 720 giờ của một tháng… tôi chẳng dành cho linh hồn một phút nào.

Tôi dồn hết thời giờ, tiền bạc, công sức, tài năng, trí tuệ, nghị lực của tôi cho thân xác, y như nhà đầu tư dốc  hết 100% vốn liếng của mình vào một công cuộc kinh doanh lớn.

Thế rồi mai đây thân xác tôi sẽ ra sao?

Lời Chúa vang lên trong nghi thức xức tro nhắc nhở tôi nhớ đến số phận mình:

“Hỡi người, hãy nhớ mình là tro bụi, mai sau người sẽ trở về với bụi tro.”

Những hạt bụi tro li ti rắc trên đầu trong ngày lễ tro hôm nay nhắc nhở chúng ta nhớ rằng mai đây, sớm muộn gì thân xác ta cũng sẽ hóa thành bụi tro như thế. Bụi tro là chung cuộc của thân xác con người. Sống thêm một năm là nhích lại gần nấm mồ hơn một chút. Tăng thêm một tuổi là rút ngắn thêm một chặng nữa tiến trình hóa thành tro bụi của thân xác mình.

Vậy thì chúng ta phải làm thế nào để không phải kết thúc cuộc đời cách bi thảm?

Không lẽ hôm nay tôi đầu tư hết tất cả thời gian, công sức, trí tuệ, tài năng, nghị lực, tiền bạc của mình cho thân xác nầy để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một nắm tro!

Không một nhà đầu tư nào lại dại khờ như thế.

Không lẽ tôi đầu tư 100% vốn liếng của mình cho thân xác và cho cuộc sống tạm bợ đời nầy để rồi cuối cùng chỉ thu hoạch được một nắm xương khô!

Biết như thế để từ nay, chúng ta không mê muội đầu tư tất cả cho thân xác, nhưng biết dành thời giờ để thờ phượng Chúa, để chăm lo cho linh hồn, để yêu thương và phục vụ những người chung quanh… nhờ đó, mai đây, thân xác này có tan thành tro bụi, thì linh hồn chúng ta vẫn được vui hưởng hạnh phúc muôn đời vinh hiển với Thiên Chúa và các thánh trên thiên quốc.

Biết thế thì ta phải công bằng với linh hồn ta. Thân xác nầy nay còn mai mất thì ta chăm sóc vừa đủ, còn linh hồn ta sống mãi muôn đời thì phải được chăm lo chu đáo hơn.

 

36.Cùng chiến đấu với Chúa Giêsu--Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Con người vốn mang xác thịt nặng nề, là mục tiêu cho ma quỷ và dục vọng tấn công và xâu xé. Chỉ một phút yếu lòng, thiếu canh phòng là con người bị sa ngã, bị hư hỏng và ươn thối.

Vua Đa-vít vốn là một vị vua khôn ngoan, sáng suốt, tài năng đức độ được liệt vào hàng thánh vương, thế mà chỉ vì hình ảnh của một phụ nữ xinh đẹp là Bát-sê-ba lọt vào tâm trí cũng đủ làm nhà vua chao đảo, rồi sa ngã, phạm tội cướp vợ người khác và giết luôn cả người chồng là U-ri-gia, đang khi anh ta đang anh dũng chiến đấu ngoài chiến trường để bảo vệ ngai vàng của vua! (II Samuen 11)

Ngay cả Sa-lô-môn, một vị vua có tiếng là khôn ngoan vô tiền khoáng hậu, nhưng cũng vì chiều chuộng các người vợ ngoại giáo nên đã xiêu lòng theo các tà thần của dân ngoại, xây đền thờ cho họ đối diện với núi thánh Giê-su-sa-lem và đã làm sự dữ trước mắt Gia-vê (I Vua 11, 1-13).

Nói chung, dù ở bất cứ địa vị nào, đẳng cấp nào trong xã hội và tôn giáo cũng có những con người danh giá cao trọng đã phải ngã gục thảm thương và hư thối: hư thối vì lòng tham, hư thối vì những bê bối tình dục, hư thối vì lạm quyền, độc đoán…

Thân phận dòn mỏng của con người

Triết gia Platon diễn tả thân phận con người “như cỗ xe có hai ngựa kéo.” Một con ngựa trắng kéo ta về đường lành, đang khi con ngựa đen luôn lôi kéo ta về điều dữ. Thế là con người luôn bị giằng co xâu xé bởi hai thế lực đối kháng nhau.

 Ngay cả thánh Phao-lô là vị tông đồ rất nhiệt thành và thánh thiện cũng cảm thấy những dục vọng đen tối làm xáo trộn tâm hồn của ngài. Ngài than thở: “Điều lành tôi muốn, tôi lại không làm; trong khi tôi lại làm những điều tôi gớm ghét …thật khốn thân tôi!” (Roma 7,16)

Thân phận con người cũng như những viên bi tròn được đặt trên những mặt phẳng nghiêng. Sức nặng của viên bi lôi kéo nó lăn xuống thế nào thì cũng chính sức nặng của xác thịt và bản năng hư hèn cũng thường xuyên lôi kéo chúng ta xuống bùn như thế.

Thân phận con người cũng như thân phận chiếc thuyền bơi ngược dòng nước, nếu không vững tay lái, không mạnh tay chèo thì vô vàn đam mê, dục vọng và tham muốn thấp hèn như những dòng nước ngược chảy xiết sẽ dìm chúng ta vào trong dòng xoáy của chúng và xô đẩy chúng ta xuống vực thẳm.

Hãy cùng chiến đấu với Chúa Giê-su

Sống là tranh đấu. Bao lâu còn chiến đấu, con người mới có thể tồn tại như một con người. Khi ngừng chiến đấu, con người sẽ bị suy thoái và không còn giữ được phẩm chất cao đẹp của mình.

Khi làm người, Chúa Giê-su cũng mang thân phận con người có xác thịt hoàn toàn y như chúng ta. Ngài cũng từng bị cám dỗ y như ta. Những cơn cám dỗ mà hôm nay chúng ta đang phải chịu thì Ngài cũng đã từng chịu, có khác là Ngài đã chiến đấu rất anh dũng, rất kiên cường, không bao giờ lùi bước trước mọi cám dỗ và thử thách. Nhờ đó Ngài luôn luôn chiến thắng và chiến thắng rất vinh quang. Thư Do-thái viết: “Ngài đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội” (Dt 4, 15)

Lạy Chúa Giê-su,

Ý chí chúng con bạc nhược; xác thịt thì ươn hèn; trong khi đó, các đam mê tội lỗi thì mạnh như vũ bão cuồng phong… nên tự sức mình, chúng con không thể nào vượt thắng các thách thức và cám dỗ.

Vì thế, trong mùa chay nầy, xin cho chúng con tìm đến với Chúa nhiều hơn, gặp gỡ Chúa thường xuyên hơn qua việc cầu nguyện và siêng năng lãnh nhận bí tích Sám hối và Thánh thể, để nhờ Chúa ban ơn trợ lực, chúng con khỏi bị ngã gục thảm thương nhưng được vững mạnh chống trả ác thần.

 

37.Hoán cải nội tâm--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta về thân phận mỏng dòn của con người, đồng thời mời gọi chúng ta hoán cải nội tâm trong tương quan với Thiên Chúa và tha nhân. Tiên tri Joel đã kêu gọi: “Hãy xé tâm hồn chứ đừng xé áo”, hãy phản đối lại chính tà dâm của mình. Nói khác đi, cần phải thay đổi cái nhìn, thay đổi tư tưởng và ước muốn sao cho phù hợp với giao ước tình yêu của Thiên Chúa. Sự biến cải nội tâm ấy được biểu lộ bằng những hành động cụ thể, như từ bỏ tập quán xấu, kìm hãm con người xác thịt, thực hành chay tịnh, tất cả là để tái lập thế quân bình giữa hồn và xác.

Do tội lỗi, con người đã bị cắt đứt khỏi nguồn mạch sự sống và bị dìm vào tình trạng bi thảm của sự chết. Màn tang chế đã bao trùm lên con người. Thiên Chúa mời gọi chúng ta trở về với Ngài để Ngài cất khỏi chúng ta tấm màn tang chế ấy và ban cho chúng ta niềm hoan lạc giao hoà. Sự giao hoà này trước tiên phải là một lời cầu nguyện khiêm tốn: “Lạy Chúa, xin thương xót con, vì con đã xúc phạm đến Chúa”. Đó là lời cầu nguyện đẹp lòng Chúa vì diễn tả tâm tình khiêm tốn tin cậy nơi lòng nhân hậu của Thiên Chúa, và chắc chắn sẽ được Thiên Chúa nhận lời.

Tuy nhiên, người ta không thể giao hoà với Thiên Chúa mà lại không hoà giải với tha nhân. Đó là điều Chúa Giêsu đã xác quyết: “Nếu ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ và ở đó nhớ ra anh em có điều bất bình với ngươi, ngươi hãy đặt của lễ đó trước bàn thờ, đi làm hoà với anh em ngươi trước đã rồi bấy giờ hãy đến mà dâng lễ vật của ngươi”. Bởi vậy, nếu chúng ta cầu mong ơn giải hoà với Thiên Chúa, chúng ta cũng hãy tìm mọi cách xoá đi những xích mích, bất hoà hờn giận với người khác.

Không những là mùa hoà giải, mùa chay còn tưởng niệm 40 ngày Đức Kitô chay tịnh nơi sa mạc trước khi thi hành sứ mệnh cứu độ. Truyền thống Giáo Hội từ lâu vẫn giữ chay 40 ngày, nhưng vì hoàn cảnh và sự yếu đuối của con người, Giáo Hội đã giảm bớt tối đa chỉ buộc giữ chay hai ngày: thứ tư lễ tro và thứ sáu tuần thánh. Dù vậy tinh thần hãm dẹp xác thịt lúc nào cũng không thể bỏ qua được. Do đó “mỗi người hãy cố giữ đời sống hoàn toàn trong sạch, lợi dụng những ngày thánh này để gột rửa những sơ xuất trong các mùa khác, bằng cách chế ngự các thói hư, gia tăng cầu nguyện, siêng năng đọc sách, thành tâm thống hối, để tâm hồn được vui mừng mong đợi Lễ Phục Sinh”. (Tu luật Biển Đức).

Mùa chay là những ngày thánh, vì là thời thuận tiện, là ngày cứu độ. Thiên Chúa lúc nào lúc nào cũng sẵn sàng ban ơn cứu độ với điều kiện con người phải chuẩn bị tâm hồn để đón nhận. Cùng với Giáo Hội, chúng ta hãy dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con bắt đầu cuộc chiến thiêng liêng này bằng ngaỳ chay tịnh hôm nay. Ước gì những kiêng khem, hãm mình của chúng con giúp chúng con nên dũng mạnh để chiến đấu với sự dữ. Amen.”

 

38.Các việc đạo đức--‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’

Tại nhiều nơi, cứ vào mùa tranh cử, người ta lại dễ dàng nhìn thấy những bảng hiệu ghi ơn dân biểu này, nghị sĩ nọ, hoặc loan báo những công trình xây dựng của các nhân vật chính trị. Dĩ nhiên, ai cũng hiểu đó là những vận động gián tiếp, những hứa hẹn với dân chúng để hy vọng được bầu vào những chức vụ công quyền. Tâm thức và lối hành xử thường tình của con người là như thế đó: làm việc tốt để kể công, để được trọng vọng, khen thưởng. Người Kitô hữu cũng dễ bị cám dỗ để có tinh thần khoe khoang kể công như trên vào đời sống đạo đức.

Tin Mừng hôm nay ghi lại những lời dạy của Chúa Giêsu về tinh thần tu đức cần phải có, với nguyên tắc sống đạo: đừng làm việc lành có ý phô trương cho người ta thấy. Theo luật Môsê, bố thí, cầu nguyện, ăn chay là những việc lành cao quý, và người ta thường tổ chức các việc đạo đức đó cách công khai để thúc đẩy nhiều người tham gia.

Chúa Giêsu không phản đối các việc đó, nhưng Ngài chỉ muốn người ta thực hiện chúng với ý hướng mới, đó là làm vì lòng yêu mến và tìm đẹp lòng Chúa hơn là để được người đời khen ngợi. Chẳng vậy, các việc đạo đức ấy có thể chỉ có hình thức, đấy là chưa nói đến trường hợp có nhiều người làm bộ cầu nguyện lâu giờ, ăn chay nhiều ngày, bố thí rộng rãi để dễ lừa gạt người khác.

Chúa Giêsu cảnh giác chúng ta đề phòng thứ đạo đức vụ hình thức. Nhưng việc đạo đức tự nó rất ích lợi cho bản thân, cho tha nhân và đáng được Thiên Chúa ban thưởng, với điều kiện chúng được thực hiện với ý ngay lành.

Chúng ta cần thực hành các việc lành với ý hướng này, vì đó là lẽ sống, là niềm vui và là động lực cho cuộc đời hy sinh phục vụ của chúng ta.

 

39.Hoán cải-- Sợi Chỉ Đỏ

Có hai anh em ruột kia rất thương nhau, thông cảm nhau, và cùng có một mơ ước cao đẹp là sẽ sống một cuộc đời hết sức thánh thiện.

Lớn lên, người anh cưới vợ, sinh con, chăm chỉ làm ăn và cũng không quên những bổn phận đạo đức hàng ngày. Còn người em thì đi tu, thành một thầy dòng ngày ngày đi khắp nơi giảng đạo và giúp đỡ những người nghèo.

Rồi một ngày kia người em làm thầy dòng trở về quê thăm lại anh mình. Hai anh em nói chuyện với nhau thật nhiều về cuộc sống và tâm tư của mình. Người anh khám phá ra rằng ngày xưa hai anh em tâm đầu ý hiệp như thế, mà sao bây giờ lại khác nhau quá xa: người em thì vẫn thích thánh thiện như xưa và còn thánh thiện hơn xưa nữa, còn mình thì sao quá tầm thường không còn chút mơ ước nào về lý tưởng thánh thiện ngày xưa nữa.

Người anh tìm đến một vị ẩn sĩ để hỏi cho biết nguyên do sự khác biệt ấy. Vị ẩn sĩ không trả lời thẳng mà dùng những hình ảnh thiên nhiên để giải thích cho anh:

- Trước tiên là đám mây trên trời: thường thường bầu trời ngày nào cũng có những đám mây, nhưng không có đám mây ngày nào giống đám mây ngày trước. Cũng là mây, nhưng mây ngày nay khác mây ngày hôm qua.

- Kế đến là một cái cây xanh: nó vẫn luôn luôn là cây thông xanh rì, nhưng năm trước nó nhỏ hơn, năm nay nó đã lớn hơn và cao hơn một tí, năm sau nó sẽ lớn và cao hơn tí nữa. Có nhiều cái lá của năm trước mà năm nay không còn, và có nhiều chiếc lá của năm nay sẽ rụng vào năm tới để thay bằng những chiếc lá khác.

- Và sau cùng chính là thân xác con người: các tế bào trong thân xác con người luôn luôn thay đổi: có cái chết đi và có cái sinh ra thêm. Khoa học tính rằng cứ sau 7 năm thì thân xác ta hoàn toàn đổi mới không còn một tế bào nào của 7 năm trước đây nữa: sợi tóc, móng tay, làn da của ta năm nay hoàn toàn không chứa một tế bào nào của sợi tóc, móng tay và làn da của 7 năm trước.

Và tới lúc đó vị ẩn sĩ mới kết luận: tâm hồn con người cũng thế: muốn lớn lên, muốn tươi trẻ mãi, muốn hăng say sinh động thì mỗi ngày cũng phải bỏ những yếu tố xấu và đồng thời thu vào những yếu tố tốt. Không đào thải đi và không thu nhận vào thì nó sẽ chết khô như một thân cây chết cứng chứ không còn là một thân cây sống động vươn lên nữa. Cái diễn trình đào thải và tiếp nhận ấy chính là cuộc hoán cải, cần phải hoán cải liên tục. Sở dĩ người anh cảm thấy mình tầm thường, khô cằn vì anh ta bấy lâu nay đã tự mãn với những cái mình đang có, không muốn bỏ đi cái nào và cũng không mong thu thêm cái nào nữa.

Câu chuyện tới đây kể ra cũng đủ kết thúc. Nhưng người anh còn muốn tìm hiểu rõ ràng hơn nên hỏi tiếp:

- Làm thế nào để loại bỏ những cái xấu trong tôi? Nó nhiều quá và nó đã bám quá chặt vào con người tôi? Vị ẩn sĩ trả lời: quan hệ nhất là đức tin và tư tưởng: tuy đời mình có nhiều tội lỗi, nhưng ta đừng quá chú ý tới nó, đừng để mình bị nó ám ảnh, đừng nghĩ nhiều tới nó. Nếu lỡ phạm tội hãy sám hối, tin tưởng vào sự tha thứ của Chúa, rồi bỏ quên nó đi, phải coi thường nó. Đầu óc mình sẽ được thanh thản khỏi những điều xấu.

- Còn làm thế nào để thu nhận những điều tốt, người anh hỏi tiếp? Vị ẩn sĩ cũng trả lời: cũng quan trọng ở đức tin và tư tưởng: phải quí chuộng những điều tốt, phải luôn nghĩ tới nó, phải để cho nó ám ảnh tâm trí mình và phải mơ ước thực hiện cho kỳ được những điều tốt, và tin rằng Thiên Chúa sẽ giúp mình thực hiện được.

Người anh trong câu chuyện trên phản ảnh tâm trạng của chúng ta:

- Cuộc sống của chúng ta có thể nói là cứ mãi mãi ở thế bình bình: chúng ta không đến nỗi xấu lắm mà cũng không được tốt lắm. Cái thế lình bình đó khiến chúng ta giống như một thân cây bị chai: không chết khô mà cũng không có sức sống vươn lên.

- Tại vì mỗi ngày chúng ta không biết cố gắng loại bớt khỏi ta những gì là xấu, là khuyết điểm, là tội lỗi và đồng thời cũng không cố gắng đón nhận những gì là tốt, là cao, là lý tưởng hơn. Nghĩa là vì chúng ta không chú ý thực hiện sự hoán cải hằng ngày cho nên hết ngày này sang ngày khác cuộc đời của chúng ta vẫn cứ chai lì, tầm thường, vô vị.

- Muốn cho cuộc sống có đà vươn lên thì phải thực hiện sự hoán cải ấy:

Mỗi ngày loại dần những cái xấu bằng cách đừng nghĩ tới nó, đừng tiếp xúc với nó, đừng mơ tưởng tới nó. Mỗi ngày đón nhận thêm những điều tốt bằng cách đi tìm nó, chú trọng tới nó, mơ ước nó và cố gắng chiếm đoạt nó.

Bấy nhiêu thôi xét ra cũng đủ là một chương trình dài hạn cho chúng ta chẳng những trong mùa chay này mà còn trong suốt cả cuộc đời chúng ta.

 

40.Ăn chay thế nào mới đẹp lòng Chúa?--JKN

Câu hỏi gợi ý:

1. Trong các tôn giáo, đặc biệt trong Kitô giáo, ăn chay có những ý nghĩa và tác dụng nào?

2. Ăn chay như thế nào mới đẹp lòng Thiên Chúa? Mới đem lại ích lợi đích thực cho tâm linh ta? Hình thức ăn chay và tinh thần chay tịnh, cái nào quan trọng hơn?

3. Tại sao nên ăn chay và cầu nguyện một cách kín đáo?

Suy tư gợi ý:

1. Ăn chay trong đời sống tâm linh và tôn giáo

Bất kỳ tôn giáo nào cũng đề cao việc ăn chay và cầu nguyện, vì ăn chay và cầu nguyện có nhiều tác dụng tốt đẹp về mặt tâm linh.

a. Trước hết, ăn chay - thường đi đôi với hãm mình - là để tỏ lòng thống hối và đền tội, làm hoà với Thiên Chúa, quyết tâm trở về với đường ngay nẻo chính, với công lý và tình thương. Câu chuyện thành Ninivê là một điển hình (x. Gn 3, 1-10). Đây là một thành phố tội lỗi, Thiên Chúa dự định trừng phạt bằng cách phá huỷ thành. Dân thành biết vậy nên đồng lòng ăn chay và quyết tâm thống hối. Vì thế, Thiên Chúa đã từ bỏ dự định phá huỷ thành ấy.

b. Ăn chay - phối hợp với những việc thực thi công bình và bác ái - là một cách thể hiện lòng yêu mến Thiên Chúa và tha nhân, muốn chia sẻ những nỗi thống khổ mà Đức Giêsu hay người nghèo, người bị áp bức phải chịu. Đây là một việc làm rất đẹp lòng Thiên Chúa. Người ăn chay nên dùng tiền tiết kiệm được do việc ăn chay để thực hành đức ái: giúp đỡ người nghèo túng, ủng hộ những việc làm từ thiện, những công trình cải thiện xã hội hoặc Giáo Hội…

c. Ăn chay - phối hợp với cầu nguyện, tĩnh tâm, chiêm niệm - để có một sức mạnh tâm linh. Khi ăn chay, ta phải chống lại sự đòi hỏi của bản năng thèm ăn, nhờ đó sự tự chủ lên cao, sức mạnh tâm linh cũng tăng lên. Ăn chay cũng lôi kéo ơn Chúa và sức mạnh thần linh xuống trên ta. Nhờ đó ta có thể thực hiện những việc làm hay những tiến bộ về tâm linh. Điều đó được Đức Giêsu đề cập đến qua câu nói: «Giống quỷ này không chịu ra, nếu người ta không ăn chay cầu nguyện» (Mt 17, 21). Vì để trừ quỉ, cần có một sức mạnh tâm linh rất cao, tức sự thánh thiện, và để đạt được sức mạnh ấy, ăn chay cầu nguyện là một phương cách hữu hiệu.

Chính Đức Giêsu đã ăn chay 40 đêm ngày trước khi bắt đầu cuộc đời công khai của mình. Đó là một mẫu gương cho ta: khi bắt đầu thực hiện hay quyết định một việc gì quan trọng về tâm linh, ta nên ăn chay và cầu nguyện để được nhiều ơn Chúa hầu quyết định sáng suốt và thực hiện công việc có hiệu quả.

2. Tinh thần chay tịnh

Cốt yếu của việc ăn chay không hệ tại việc nhịn ăn, kiêng ăn hay ăn ít đi, mà hệ tại tinh thần mà việc ăn chay muốn biểu lộ. Ăn chay chỉ là một hình thức cụ thể để biểu lộ tâm tình bên trong: thống hối, muốn đền tội, quyết tâm trở về với Thiên Chúa, hay muốn thể hiện tinh thần bác ái, thông cảm với những người đau khổ, hay muốn tăng cường sức mạnh tâm linh… Nếu không có những tâm tình bên trong ấy làm nội dung, thì việc ăn chay chỉ là một hình thức trống rỗng, không có giá trị trước mặt Thiên Chúa. Ngôn sứ Giêrêmia cho biết Thiên Chúa không đoái hoài đến việc ăn chay theo kiểu thuần hình thức ấy: «Chúng có ăn chay, cầu khẩn, Ta cũng chẳng thèm nghe tiếng; có dâng lễ toàn thiêu và lễ phẩm, Ta cũng chẳng tỏ lòng xót thương» (Gr 14, 12).

Như vậy ăn chay cốt yếu là một việc làm trong nội tâm, không ai thấy được hơn là việc thể hiện ra bên ngoài ai cũng thấy được. Điều này phù hợp với lời khuyên của Đức Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay: «Khi ăn chay, hãy rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh». Ngôn sứ Giôen trong bài đọc 1 hôm nay cũng nhấn mạnh cái cốt tuỷ bên trong của việc chay tịnh: «Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em» (Ge 2, 13). Điều quan trọng là trở về với Thiên Chúa hơn là ăn chay bên ngoài.

Ngôn sứ Isaia lại nhấn mạnh đến cốt lõi của việc ăn chay là tinh thần yêu thương và tôn trọng công lý, chứ không phải là hình thức khổ chế bên ngoài: «Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng Đức Chúa? Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục?”(Is 58, 3-7). Như vậy, ăn chay bằng những việc làm bác ái, bằng việc lên tiếng cho công lý, để đập tan những bất công, để bênh vực kẻ nghèo khổ, sống ngoài lề xã hội, những kẻ bị áp bức, thì thực tế và đẹp lòng Thiên Chúa hơn là việc nhịn ăn một cách hình thức.

Nói như thế không có nghĩa là không cần ăn chay mà chỉ cần đối xử với nhau cho có tình nghĩa, hay chỉ cần thực hiện công lý và bác ái thôi. Thiên Chúa muốn rằng «các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ» (Mt 23, 23). Vì hình thức và nội dung phải đi đôi với nhau: hình thức đòi buộc phải có nội dung, nhưng nội dung cũng đòi hỏi phải có hình thức. Vì thế, khi ăn chay, chúng ta vừa nhịn ăn hoặc ăn ít để thực hiện mặt hình thức, mà vừa phải có những tâm tình thâm sâu bên trong, được thể hiện cụ thể bằng việc thực thi công bằng và bác ái để thực hiện mặt nội dung. Tuy nhiên, ta cần biết là tâm tình thâm sâu bên trong làm cho hình thức thể hiện bên ngoài có giá trị. Nếu chỉ có hình thức bên ngoài, thì hình thức đó hoàn toàn vô giá trị.

3. Ăn chay và cầu nguyện một mình với Thiên Chúa

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu nhấn mạnh đến sự kín đáo khi ăn chay và cầu nguyện. Ăn chay và cầu nguyện là những hành vi đối thoại với Thiên Chúa, vì thế, nó cần được thực hiện một cách riêng tư, trong thầm lặng với Ngài. Nó củng cố tình thân hay sự thân mật giữa ta với Thiên Chúa. Thật ngược đời và quái dị nếu sự thân mật riêng tư giữa vợ chồng hay bạn bè với nhau lại được phơi bày ra trước mặt mọi người. Cũng vậy, sự thân mật riêng tư giữa ta với Thiên Chúa thì chỉ nên giữa Thiên Chúa với ta biết với nhau, không nên cố ý thực hiện trước công chúng để ai cũng biết. Cố ý ăn chay và cầu nguyện trước mặt mọi người thì đó không còn là sự đối thoại thật sự với Thiên Chúa nữa, mà nó đã bị biến chất thành một hành vi đóng kịch. Như thế có khác gì hai người hôn nhau để người khác chụp hình.

Càng muốn cho mọi người thấy tình yêu riêng tư của mình thì tình yêu ấy chỉ là «tình yêu biểu diễn», «có vẻ yêu thương», mang nặng tính hình thức và giả dối, chứ không phải tình yêu đích thực. Chỉ những người đạo đức giả mới thích biểu diễn việc ăn chay và cầu nguyện của mình trước mặt người khác. Trái với tinh thần giả hình ấy, Đức Giêsu khuyên ta nên cố ý dấu không cho người khác biết mình ăn chay, thậm chí nên đánh lạc hướng để người khác không thể đoán ra hay nghi ngờ mình ăn chay: «Khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo».

CẦU NGUYỆN

Lạy Cha, hôm nay là ngày mở đầu mùa Chay, Cha muốn con ăn chay trong mùa này như thế nào? Suy gẫm lời của ngôn sứ Isaia, con biết rằng lối ăn chay mà Cha thích nhất nơi con, đó là con biết quan tâm đến hạnh phúc và đau khổ của tha nhân, đến những vấn đề xã hội, đến những người nghèo khổ, người bị áp bức chung quanh con. Cha muốn con ăn chay bằng cách làm một điều gì đó thật cụ thể và thực tế để những người đang đau khổ ấy được hạnh phúc hơn, giảm được phần nào đau khổ của mình. Cha muốn con ăn chay bằng cách nỗ lực làm cho xã hội trở nên công bằng và tốt đẹp hơn, bằng sự lên tiếng, can thiệp, hỗ trợ… trong khả năng của mình. Xin cho con quảng đại và can đảm thực thi tinh thần ăn chay ấy trong mùa chay này, để chuẩn bị đón mừng mầu nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu, Con Cha trong những tháng sắp tới. Amen.

 

41.Bố thí, cầu nguyện, ăn chay-- Học viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt

Bố Thí

Bác ái, danh từ làm ta khó chịu khi vừa nghe thấy. Giới thợ thuyền trong một vài trường hợp chấp nhận bác ái, nhưng luôn luôn đề cao quyền lợi, công bình trước. Thái độ đó được hoàn toàn thông cảm. Lần nào cũng thế, Tin Mừng không đề cập đến một vấn đề khác. Chúa Kitô chỉ muốn nói rằng khi thực hành bố thí, hãy thực hành theo tinh thần thích hợp. Đó là một bổn phận bất biến, vì luôn luôn có những kẻ giàu sang, đồng thời cũng có những người nghèo đói. Những ai có nhiều hơn, may mắn hơn, phải tự giúp kẻ ít may mắn. Những lời nói của Chúa Kitô được giải thích theo hai ý nghĩa. Trước hết, theo nghĩa tiêu cực: Chúa Kitô kết án việc thực thi bác ái sai lạc:

“Đừng thổi kèn trước mặt người đời”. Có những việc thiện chỉ là tự kiêu tôn giáo trá hình dưới lớp vỏ đức ái. Chỉ biết dùng hành vi thực hiện thiện hảo như một nhãn hiệu. Có những cử chỉ nhân đức do lòng ích kỷ, chỉ vì mục tiêu tuyên truyền hơn là lòng săn sóc trung thực. Người thực thi bác ái không được rao trên mái nhà, đòi hỏi phải được ghi công, tuyên dương trên báo chí hay tri ân công cộng, nghĩa là nêu lên cho mọi người thấy Sự giúp đỡ càng bí mật lại càng hữu hiệu, Chúa Kitô đã dùng một hình ảnh thỏa đáng: tay trái đừng biết việc tay phải làm. Cũng thế, ngay giữa chi tộc mình, cử chỉ cũng vẫn được giữ kín. Đôi khi, giúp đỡ để cứu trợ một thiệt hại vật chất vẫn chưa đủ, còn cần đến lời an ủi và thái độ thông cảm khi hành động. Trong các công việc, không được chỉ xử trí theo thủ tục, mà còn phải trực tiếp gặp gỡ cá nhân. Thật là trái ngược với Kitô giáo, nếu chỉ muốn khai thác sự khốn nạn của kẻ đồng loại để khoe khoang sự đại lượng cá nhân. Phải thực thi bác ái với sự hạ mình thông cảm, không được thi hành với sự tự mãn kiêu kỳ, hay lên mặt dạy luân lý, hoặc làm ra vẻ thánh nhân giữa các tội nhân. Mọi cách biệt sẽ bị xóa đi, nếu ta quan niệm rằng chỉ có một Cha chung trên trời.

Mặt khác, Thầy chí thánh đã tỏ lộ ý nghĩa thứ hai trong giáo huấn của Người khi tuyên bố. “Chúa Cha nhìn thấy trong bí mật”. Không phải nỗi khốn khổ của đồng loại là căn do nảy sinh lòng bác ái, nhưng chính Thiên Chúa mới là căn do làm phát sinh lòng bác ái của ta. Con người sẽ bị tình cảm chi phối nhiều, và người ta sẽ ưa tiên giúp đỡ những ai khéo léo trình bày sự khốn khổ của mình cách đáng thương và cảm động, mặc dầu họ đã phóng đại. Như thế, có lẽ người ta sẽ giúp đỡ những kẻ nghèo giả tạo, mà quên đi sự khốn khổ thầm kín lớn hơn. Trái lại, nếu người ta hành động cho Thiên Chúa, người ta sẽ tự vấn trước mặt Chúa về những người phải giúp đỡ, và về thời gian thuận tiện. Đức bác ái phải được thực thi cách ý thức, theo thời giờ và cách thức thuận tiện, đối với những kẻ xứng đáng.

Trong tất cả mọi lãnh vực, con người tinh thần được phú ban một loại sáng suốt, với cái nhìn luôn lượng về Chúa, họ học biết cách phục vụ Chúa với sự thận trọng. Những kẻ nào có tâm hồn giống nhóm Biệt phái, sẽ lạm dụng tôn giáo để làm bộ thánh thiện, làm cho Kitô giáo ra một hình ảnh sai lạc và thô kệch. Hãy cẩn thận, đừng thực thi bác ái trước mặt kẻ khác. Vào thời đại chúng ta, lời cảnh cáo của Chúa Kitô không dư thừa chút nào. 

Có nhiều người lấy làm ngạc nhiên rằng Chúa Kitô đã nêu lên một động lực vụ lợi rõ rệt: “Chúa Cha thấy trong bí mật, Ngài sẽ thưởng cho”. Phải chăng luân lý Công giáo là luân lý vì phần thưởng? Hiển nhiên, Chúa Kitô đã tiên báo và chấp nhận không hàm hồ rằng phải thực thi thiện hảo trước mặt Thiên Chúa trước hết. Tuy nhiên, trong một viễn tượng thiêng hứng, họ có thể trở về với bản ngã riêng bằng cách ước mong không đánh mất Thiên Chúa, nhưng luôn luôn tiến gần về Ngài. Phần thưởng của người Công giáo chính là Thiên Chúa, nên trong khi tìm kiếm phần thưởng, tức là họ tìm kiếm Thiên Chúa, như thế, họ đã hành động theo lệnh của Ngài. Đó không phải là lợi ích nhất thời, Chúa Cha sẽ trả lời bằng cách ban chính tình yêu của Ngài. Tìm kiếm Thiên Chúa để thấy hạnh phúc trong ngài đó là một thái độ Công giáo đích thực, được Chúa Kitô chấp nhận và khuyến khích.

Cầu Nguyện

Làm dơ bẩn bác ái bằng cách thực thi theo những mục đích ích kỷ, là làm ngược lại thần linh. Bóp méo kinh nguyện để khoe lòng đạo đức là một phạm thượng. Làm như vậy không còn là một thờ kính thánh thiện nữa, nhưng là bắt Thiên Chúa phục vụ những mục đích trục lợi của ta. Mầu nhiệm bí mật nhất của tâm hồn và tính chất cá biệt thâm sâu nhất bị tục hóa, và hạ xuống như một lối giả hình lấy thái độ bên ngoài cầu nguyện để làm việc ngược lại, đó là trình bày một sự thánh thiện sai lạc, không còn gì thảm hại hơn. Những người sốt sắng nửa mùa thường thích đóng kịch. Còn người cầu nguyện thực sự xa tránh mọi người, không đa ngôn, không gây động đạc ồn ào, để đi vào im lặng và thanh vắng, ở đó, họ sẽ tìm gặp được Thiên Chúa. Kinh nguyện là gì, nếu không phải là nâng tâm hồn lên cùng Chúa. Kẻ giả hình cũng làm vẻ bề ngoài như thế, nhưng thực ra, tâm hồn họ thì hướng về trần giới. Tín hữu cầu nguyện mở tâm hồn ra trước Thiên Chúa, còn kẻ giả hình thì luôn khép kín trước Thiên Chúa. “Khi con muốn cầu nguyện, hãy vào phòng riêng”. Bị cuộc sống bên ngoài luôn thu hút, đôi khi con người cần phải nghỉ ngơi và hồi tâm, giống như một tế bào, họ lui về phòng mình, giữ cho lòng mình khỏi bị lôi kéo vào làn sóng ồn ào huyên náo. Nếu không, họ sẽ chết trong ồn ào Người Công giáo phải tìm nơi kinh nguyện một nguồn mạch không cạn, và một sự tươi trẻ vĩnh viễn cho tâm hồn. Nhưng rất cần phải lui vào thinh lặng, để nghe được tiếng Đấng Tối cao, và trong sự thanh vắng, họ đi sâu vào cuộc đối thoại với Chúa. Những màu sắc sặc sỡ của những tờ bích chương chói sáng chỉ gây những ảo giác. Tiếng động của hàng ngàn loa phóng thanh chỉ làm chúng ta điếc tai: Trong ồn ào, chúng ta không còn nhận biết được giọng nói của Thiên Chúa. Chỉ khi nào ta trở về với im lặng, ta mới sử dụng cách chính đáng những khả năng của ta. Hãy vào phòng riêng cầu nguyện, không phải là một công việc hao phí thời giờ, trái lại, đó là sự tập trung năng lực để hoạt động kết quả. Cầu nguyện để biến thành bình thiên liệu cho cuộc sống. Trong khi cầu nguyện, những bình chứa tinh thần được đổ đầy tràn. Nếu chúng trống rỗng, các động cơ hoạt động sẽ dừng lại, không hoạt động được nữa.

Hình như chúng ta không lấy làm lạ, khi thấy Chúa Kitô đã cầu nguyện trong nơi mình ở, mà không cầu nguyện trong đền thờ hay trong giảng đường. Giữa thời đại tự do hiện nay, trong lúc con người chống lại chủ nghĩa cá nhân quá khích, thì ngược lại, trong lãnh vực tôn giáo, phải cố gắng tự tạo cho mình một đời sống độc lập. Con người ngã về khuynh hướng khinh thường bầu khí thinh lặng, đề cao ồn ào huyên náo, và hạ thấp kinh nguyện cá nhân cũng như những giờ chiêm niệm. Lời Chúa dạy không phải chỉ là lời bênh vực cho kinh nguyện tư riêng cá nhân, nhưng còn là một đòi hỏi phải sử dụng lối cầu nguyện này nữa. Ngoài kinh nguyện cá nhân, con người còn phải sử dụng lối kinh nguyện cộng đồng nữa, vì con người là một con vật có trí khôn và có xã hội tính. Do đó, sự tham gia vào kinh nguyện và hy tế cũng phải có tính cách cộng đồng. Chỉ có lòng đạo đức nào có hai phương diện này mới bảo đảm cho tín hữu sự viên mãn và sung túc tinh thần. Sự thờ kính cộng đồng nếu không sống động nhờ lòng đạo đức cá nhân, sẽ bị lu mờ dần, và biến các nghi thức thành những dấu hiệu bên ngoài trống rỗng. Kinh nguyện chiêm niệm mà không hướng về cộng đồng, sẽ thiếu căn bản và đưa đến cô lập tinh thần. Vậy phải thi hành cả hai tác động, vừa lui mình về phòng nựng, vừa phải đến đền thờ để cầu nguyện. Hai hình thức cầu nguyện này có tính cách bất khả phân ly và bó buộc.

Ăn Chay

Ăn chay đối với người Công giáo hình như là việc tự nhiên. Nhưng khó khăn là khi nói đến tinh thần phải có khi ăn chay.

Khổ hạnh thuyết mà người ta thường khoe khoang đều lố bịch và mâu thuẫn, vì nó biến lòng thống hối thành tội lỗi: con người giả bộ khổ hạnh ngoài mặt, còn thực sự lại khác hẳn. Họ làm bộ để người ta tin rằng họ ăn chay. Thực ra họ giả bộ ăn chay, họ đã tục hóa phương thế thánh hóa siêu nhiên.

Vẻ thống hối bên ngoài đầy nguy hiểm, vì nó trở nên quá lộ liễu che đậy dục vọng mình cách ích kỷ, dưới chiêu bài luân lý và tôn giáo. Đặc tính của mặt nạ là giả, không gì xấu xa hơn mặt nạ về lòng sốt sắng, vì nó làm cho người khác chê cười và hơn nữa, nó còn làm cho họ chế nhạo cả tôn giáo nữa.

Tuy nhiên, cũng không được rơi vào một thái cực khác, đó là chối bỏ tất cả mọi hành động thống hối bên ngoài. Không thể vì thấy một vài lạm dụng mà kết án hành động thống hối. Người ta vẫn ăn chay, nhưng với một ý hướng trong sạch. Người ta sẽ ăn chay để làm vinh danh Chúa, không phải để tôn vinh con người. Kẻ khắc khổ giả tạo không phải là một người từ bỏ, nhưng là một người tham vọng. Tuy họ từ bỏ, nhưng chỉ để thỏa mãn những nhu cầu vật chất, thỏa mãn tính kiêu căng của mình. Họ muốn phô trương sự thánh thiện của mình, họ muốn tô điểm mình bằng tấm áo khiêm tốn giả hiệu, họ để cho lớp vỏ hy sinh giả tạo bao bọc tính nhu nhược yếu đuối. Nguyên động lực của thái độ ấy không phải là Thiên Chúa, nhưng là nhân loại. Người ta chối bỏ Thiên Chúa vì quá yêu mình, trong khi đúng ra, phải chối bỏ mình và chấp nhận tình yêu Thiên Chúa. Chúng ta không thể chinh phục tha nhân được bằng sự nghiêm khắc quá đáng. Phải có nhiều tinh thần trong hành động thống hối, mới lôi cuốn được kẻ khác. Những săn sóc và nếp sống vệ sinh hằng ngày, y phục gọn ghẽ, tác phong đáng yêu thì thường nói lên tinh thần thống hối nghiêm nghị, hơn là sự bừa bãi dưới chiêu bài khinh thường của thế gian. “Hãy xức dầu thơm trên đầu “.

Lòng tự kiêu khoe khoang không thể là lòng thống hối được. Lòng thống hối trung thực là một điều cần thiết và nghiêm trọng, và không được phép giả bộ. Những bộ mặt khô khẳng không thể chứng tỏ một tinh thần tôn giáo, cũng như một thân xác gầy còm cũng không chứng tỏ một tinh thần tiến bộ.

Hướng nhìn về Chúa và thánh ý Ngài sẽ nói lên thái độ phải có. Chúa đã an bài những ngày lễ và mùa thống hối. Mọi người đều hướng về ngài nếu họ chỉ tin vào Ngài. “Cha ngươi sẽ nhìn thấy nơi bí mật”. Người ta có thể đánh lừa con người. Còn Thiên Chúa biết cả những nơi thâm sâu nhất trong tâm hồn; ngài không thể bị đánh lừa. Những người khổ hạnh giả bộ, thích nghe những lời ca ngợi khen lao, đó là những phần thưởng nhân loại. nhưng cuối cùng, họ dấn thân phục vụ kẻ gian dối. Vì vậy Tin Mừng dạy: “Hãy ăn chay, nhưng trong tinh thần chân thành”và “khi con ăn chay, hãy xức dầu thơm trên đầu”.

(Richard Gutzwiller, Suy niệm Tin Mừng Matthêu. Niềm Tin. Tr. 119- 126 và 157- 160).

 

42.Thứ Tư Lễ Tro--Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Đoạn trích Tin Mừng này thuộc phần thứ hai của bài diễn từ trên núi. Đức Giê-su vừa thiết lập một sự đối xứng giữa những giới luật Mô-sê và những đòi hỏi mới mà Ngài đề xuất: ”Anh em đã nghe Luật dạy… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Ngài đặt dấu nhấn trên việc nội tâm hóa luật luân lý. Ở đây, Đức Giê-su đan cử những ví dụ rất thích đáng và đối lập hai thái độ; vì thế, Ngài chọn ba việc thiện của Do thái giáo: bố thí, cầu nguyện và ăn chay.

1. Bố thí

Huấn thị bố thí được ghi trong Lề Luật: ”Anh em đừng có lòng chai dạ đá, cũng đừng bo bo giữ của không giúp người anh em nghèo túng… Anh em phải cho một cách rộng rãi, và khi cho thì đừng miễn cưỡng; thật vậy vì việc đó, Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, sẽ chức phúc cho anh emtrong mọi việc anh em làm và mọi công trình tay anh em thực hiện. Vì trong đất của anh em sẽ không thiếu người nghèo, nên tôi truyền cho anh em: hãy mở rộng tay giúp người anh em khốn khổ, nghèo khó của anh em, trong miền đất của anh em”(Đnl 15: 7-11). Huấn thị này chiếm một chỗ quan trọng trong văn chương kinh sư. Các sách minh triết cũng thường ca ngợi đức hạnh này. Nhờ Tin Mừng Gioan, chúng ta biết rằng Đức Giê-su, dù nghèo, cũng đã thực thi bố thí một cách kín đáo (Ga 13: 29). Bố thí không phải là một cử chỉ phô trương cho thiên hạ thấy, bởi vì Thiên Chúa là ”Cha của anh em, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”.

2. Cầu nguyện

Đối với việc cầu nguyện, Đức Giê-su căn dặn cũng theo một cách thức như vậy: ”Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh em”. Đức Giê-su đã nêu gương. Các tác giả Tin Mừng, đặc biệt thánh Lu-ca tường thuật cho chúng ta rằng Đức Giê-su thường tách riêng một mình để cầu nguyện ”trong nơi vắng vẻ”, “trên núi cao cô tịch”, vào lúc đêm xuống.

Đức Giê-su không khinh thường việc cầu nguyện cộng đoàn, huống chi lời cầu nguyện phụng vụ. Rõ ràng Ngài không bao giờ công bố bất cứ lời nào chống lại hội đường; Ngài đã tham dự phụng tự hội đường, ở đó Ngài đã ngỏ lời; chính Ngài, Ngài đã công khai cầu nguyện trước các môn đệ và trước đám đông. Nhưng việc cầu nguyện mà Ngài lên án là đạo đức giả, chính là cầu nguyện cốt nhằm cho thiên hạ thấy mà ngợi khen mình. Cầu nguyện là đi vào trong mối tương quan thân thiết với Thiên Chúa, Đấng ngự trong cõi thâm sâu của lòng bạn.

3. Ăn chay

Luật Mô-sê chỉ đòi buộc một ngày ăn chay đó là ngày lễ Xá tội. Nhưng cũng có những ăn chay tùy ý, ăn chay tùy hoàn cảnh và ăn chay vì lòng đạo đức. Người Pha-ri-sêu ăn chay vì lòng đạo đức vào ngày thứ hai và thứ năm trong tuần.

Đức Giê-su đòi hỏi một sự biện phân tinh tế trong việc thực hành ăn chay. Khi ăn chay, đừng làm ra vẻ gì là mình ăn chay để không ai thấy là anh ăn chay ngoài trừ ”Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo”. Đây là bài học về lòng khiêm hạ và tôn trọng sự thật. Hành vi tôn giáo có thể không đạt được mục đích nếu ý hướng sai lầm.

Nhưng điều Đức Giê-su đặc biệt muốn mặc khải, được lập lại đến ba lần như điệp khúc, đó là sự hiện diện của Thiên Chúa trong cõi thâm sâu nhất của con người. Đây là tôn giáo ”thờ phượng Chúa Cha trong tinh thần và sự thật”mà Đức Giê-su đã mặc khải cho người phụ nữ Sa-ma-ri.

 

43.Thứ Tư Lễ Tro: Lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu “bụi tro”được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.

1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro

Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: “Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay truớc Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay”(số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.

Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là “Ðầu Mùa Chay”(Caput ieiunii), hay ”Ðầu Mùa ăn chay 40 ngày”(Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Ðức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hòa giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi nguời đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Ðể được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Ðức Giám mục trao cho chiếc áo nhậm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưổi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính tòa, được Ðức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hòa với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Ðại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Ðức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.

Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Ðầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Ðức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.

Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Ðức Giáo Hoàng tập họp các giáo sỹ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Ðức Giáo Hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhậm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Ðức Giáo Hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài “Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵng sàng tha thứ mọi tội khiên”(Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Ðó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Ðức Giáo Hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10,8]).

Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: “Ta là thân cát bụi sẽ trỏ về cát bụi”(St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: “Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1,15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu “tro”đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: “Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Ðức Kitô, Con Một Chúa, Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời”(còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).

2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhậm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3,18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4,13; Is 58, 5; Dn 9,3; Giona 3,6; Giudith 4,16; 9,1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: “Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi”. Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Ðó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tồ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, ttốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải “quay trở lại”một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ “canh tân”trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Ðàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tùy thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thư Tư Lễ Tro.

Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.

Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Ðồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.

Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ

(Theo Tinh Thần)

 

44.Mệnh lệnh Mùa chay--Trầm Thiên Thu

Thời gian trôi chầm chầm mà lại cảm thấy nhanh. Và rồi Mùa Chay lại về… với ba việc cụ thể: trai tịnh, cầu nguyện, và bác ái.

Mùa Chay là thời gian thuận tiện và là mùa cứu độ. Có điều đặc biệt mà ai cũng PHẢI NHỚ luôn luôn: “Memento mori – Hãy nhớ mình phải chết”. Đó là một dạng mệnh lệnh. Có nhiều mệnh lệnh, nhưng khởi đầu Mùa Sám Hối, Giáo Hội nhắc chúng ta hai mệnh lệnh của Thiên Chúa, tuy ngắn gọn nhưng quan trọng, một là mệnh-lệnh-cách-xác-định: “Hãy Xé Lòng!”, và một là mệnh-lệnh-cách-phủ-định: “Chớ Giả Hình!”.

Mệnh lệnh là điều PHẢI làm, nhưng “phải”không có nghĩa là miễn cưỡng mà là tự nguyện. Tại sao vậy chứ? Bởi vì tự cảm thấy mình quá yếu đuối, khốn nạn, cứ cố gắng mãi mà vẫn không thoát khỏi vũng-lầy-tội-lỗi.

Con người được sung sướng mà không thèm tận hưởng, được hạnh phúc mà không biết tạ ơn, được tự do mà không sử dụng đúng, đi nghe lời dụ dỗ của ma quỷ rồi “chảnh”, lên mặt kiêu căng, thế nên đau khổ xuất hiện và con người phải chịu hậu quả nhãn tiền: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất”(St 3:19). Và đó cũng là định luật muôn thuở: “Đức Chúa lấy đất mà tạo ra con người, rồi lại đưa con người trở về đất. Người đã ban cho nó một số ngày và một khoảng thời gian”(Hc 17:1-2a). Sinh hữu hạn, tử bất kỳ.

Lòng người thật nham hiểm, thâm độc, như tục ngữ Việt Nam ví von: “Dò sông, dò biển, dễ dò; Nào ai lấy thước mà đo lòng người”. Văn hào Victor Hugo (1802-1885, Pháp quốc) phân tích theo kiểu quan ngại: “Trên thế giới, thứ rộng lớn nhất là ĐẠI DƯƠNG, nhưng thứ rộng lớn hơn lại là BẦU TRỜI, mà thứ còn rộng hơn cả bầu trời lại chính là LÒNG NGƯỜI”.

1/ MỆNH LỆNH XÁC ĐỊNH

Mệnh lệnh thứ nhất là mệnh lệnh xác định: “Hãy xé lòng!”. Xé lòng mình chứ KHÔNG xé áo hoặc xé bất cứ thứ gì khác. Xé lòng không phải để hủy hoại mà để tu sửa, đổi mới. Có những chất cay khiến chúng ta cảm thấy như xé miệng, xé lưỡi, xé họng. Có những nỗi đau khiến chúng ta như xé nát tâm can.

Từ ngữ “xé”là một tha động từ, cần có một túc từ, nghĩa là “làm rách”cái gì đó cụ thể. Có thể “xé”là hành vi chủ động hoặc thụ động, miễn cưỡng. Thiên Chúa bảo chúng ta không nên “xé áo”, vì đó là hành động của kẻ điên, vả lại như vậy là làm hư hại phương tiện vật chất cần thiết cho cuộc sống. Nhưng về tâm linh, Ngài lại muốn chúng ta “điên”thật, vì Ngài bảo chúng ta phải thực sự chủ động mà tự xé lòng mình, xé nát tâm hồn vì cảm thấy mình khốn nạn và bất xứng với Ngài. Phải “tự xé lòng”bất cứ lúc nào trong cuộc sống, nhưng đặc biệt là trong khoảng thời gian Mùa Chay, vì “đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ”(2 Cr 6:2).

Từ xa xưa tới tận thế, Thiên Chúa là Cha nhân từ vẫn dang tay chờ đợi tội nhân trở về càng sớm càng có lợi. Tội nhân đó là chính mỗi chúng ta. Sấm ngôn của Đức Chúa vẫn không ngừng mời gọi, nhất là trong Mùa Chay này: “Lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van”(Ge 2:12). Một loạt các động từ quan trọng mà Thiên Chúa muốn chúng ta làm với cả tấm lòng chứ không giả bộ hoặc giả hình, cũng không được làm sơ sài, làm chiếu lệ hoặc làm cho xong lần.

Một cách mạnh mẽ và dứt khoát, chính Thiên Chúa đã cảnh báo: “Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ”(Ge 2:13). Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót, tội lỗi chúng ta có thế nào thì cũng chẳng là gì, vì “dù tội đỏ như son cũng ra trắng như tuyết, có thẫm tựa vải điều cũng hoá trắng như bông”(Is 1:18), tội của cả thế gian này cũng không thể so sánh với lòng thương xót của Chúa, chỉ cần chúng ta chân thành sám hối thì Ngài sẵn sàng thứ tha ngay, và Ngài chỉ muốn thứ tha mà thôi: “Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được?”(Tv 130:3). Nhưng chớ lấy cớ đó mà “được đằng chân lân đằng đầu”!

Vâng lệnh Thiên Chúa, ngôn sứ Giô-en nói rằng nếu chúng ta thành tâm sám hối, vì “biết đâu Người chẳng nghĩ lại và hối tiếc mà để lại phúc lành, hầu anh em có lễ phẩm và lễ tưới rượu dâng lên Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em”(Ge 2:114), nói là “biết đâu”chứ Thiên Chúa thực sự muốn tha thứ, nhưng Ngài không thể tha thứ cho người cố chấp. Ngôn sứ Giô-en kêu gọi: “Hãy rúc tù và tại Sion, ra lệnh giữ chay thánh, công bố mở cuộc họp long trọng; hãy tụ tập chúng dân, mời dự đại hội thánh, triệu tập các cụ già, tụ họp đám thiếu nhi cũng như trẻ thơ còn đang bú. Tân lang hãy ra khỏi loan phòng, tân nương hãy rời bỏ phòng khuê!”(Ge 2:15-16).

Lời mời gọi này nhắc nhớ tới việc ăn chay nghiêm ngặt của cả thành Ni-ni-vê, từ vua tới dân, từ người tới súc vật, khi được ngôn sứ Giô-na kêu gọi, và Thiên Chúa đã tha tội chết cho cả thành (x. Gn 3:4-10). Điều đó cho thấy rằng cầu nguyện và ăn chay có thể thay đổi số phận của mỗi chúng ta và người khác.

Không thể im lặng, ngôn sứ Giô-en tiếp tục kêu gọi: “Giữa tiền đình và tế đàn, các tư tế phụng sự Đức Chúa hãy than khóc và nói rằng: “Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài! Xin đừng để gia nghiệp của Ngài phải nhục nhã và nên trò cười cho dân ngoại! Chẳng lẽ các dân lại được cớ mà nói: Thiên Chúa của chúng ở đâu rồi?”(Ge 2:17). Quả thật, “Đức Chúa đã nồng nhiệt yêu thương đất của Người, đã tỏ lòng khoan dung đối với dân Người, tai ương chấm dứt và dân được giải thoát”(Ge 2:18). Chứng cớ rành rành, không thể chối cãi!

Bất cứ ai trong chúng ta cũng đều là phàm nhân, đồng nghĩa với tội nhân. Thật vậy, tác giả Thánh Vịnh đã xác nhận: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai”(Tv 51:7). Và vì thế, chúng ta rất cần cầu xin ơn thứ tha từ lòng thương xót của Thiên Chúa, nghĩa là chúng ta phải van xin không ngừng: “Lạy Thiên Chúa, xin lấy lòng nhân hậu xót thương con, mở lượng hải hà xoá tội con đã phạm. Xin rửa con sạch hết lỗi lầm tội lỗi con, xin Ngài thanh tẩy”(Tv 51:3-4).

Được thứ tha là nhờ biết thú nhận. Vấn đề quan trọng là không được vòng vo, tránh né, hoặc đổ lỗi cho người khác – dù chỉ một phần nhỏ, mà phải thành tâm và khiêm nhường một thực-tế-thật: “Vâng, con biết tội mình đã phạm, lỗi lầm cứ ám ảnh ngày đêm. Con đắc tội với Chúa, với một mình Chúa, dám làm điều dữ trái mắt Ngài. Như vậy, Ngài thật công bình khi tuyên án, liêm chính khi xét xử”(Tv 51:5-6).

Hằng ngày, chúng ta vẫn cùng nhau thú tội: “Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa toàn năng và anh chị em, tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói, việc làm, và những điều thiếu sót”. Đủ kiểu phạm tội, ngũ quan là các “tòng phạm”. Thú nhận với Thiên Chúa là điều hiển nhiên, nhưng có lẽ chúng ta “ngại”thú tội với tha nhân, có thể chỉ mới làm theo “nghi thức”. Thật vậy, ngay khi chúc bình an cho nhau mà nhiều người vẫn có vẻ miễn cưỡng, làm một cách máy móc hoặc làm cho xong lần, thậm chí là “đứng bất động”.

Sự thật thì thường mất lòng. Nhưng thà mất lòng trước, được lòng sau. Một thực tế rất thật: “Chiên hiền”ở trong nhà thờ bỗng hóa “cọp dữ”khi ra khỏi nhà thờ! Ảo thuật, xảo thuật, hay là “sự lạ”? Mọi kiểu phạm tội không phải là lỗi của ai khác mà của chính mình, chúng ta cùng xác nhận ba lần: “Lỗi tại tôi mọi đàng”. Và cầu xin Thiên Chúa thương xót mà tha thứ. Nhưng Ngài chỉ tha cho chúng ta nếu chúng ta tha cho tha nhân. Đó là điều kiện ắt có và đủ để “nên hoàn thiện”, để làm thánh, nhất là trong Mùa Chay Thánh này.

Chắc chắn rằng không có ơn Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được (x. Ga 15:5). Đã biết bao lần chúng ta ăn năn sám hối, tỏ vẻ rất chân thành, nhưng rồi chúng ta lại như “ngựa quen đường cũ”, bằng chứng minh nhiên là chúng ta vẫn dễ dàng tái phạm, để rồi phải liên tục lãnh nhận Bí tích Hòa Giải. Càng nhiều tuổi càng xưng tội nhiều lần. Thế thì có gì mà vỗ ngực khoe mẽ?

Hãy không ngừng cố gắng tu thân, tha thiết van xin ơn phù trợ và khao khát được tái tạo: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ. Xin đừng nỡ đuổi con không cho gần Nhan Thánh, đừng cất khỏi lòng con thần khí thánh của Ngài. Xin ban lại cho con niềm vui vì được Ngài cứu độ, và lấy tinh thần quảng đại đỡ nâng con”(Tv 51:12-14).

Bổn phận của chúng ta là cầu xin, nhưng xin để được điều này hay điều nọ chỉ là dạng “hạ cấp”, dạng “cao cấp”là không xin gì cả, mà chỉ muốn tán dương và tôn vinh Thiên Chúa: “Lạy Chúa Trời, xin mở miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài”(Tv 51:17). Biết cầu nguyện như vậy là “nên thánh”rồi. Càng sống lâu càng được nhiều ơn, dù có những ơn chúng ta không hề xin mà vẫn được Chúa thương ban – đơn giản nhất mà cần thiết nhất là không khí để sống, thế mà chúng ta vẫn không biết tạ ơn, coi đó là mặc định.

Ăn năn là động thái cần thiết, mọi nơi và mọi lúc. Thánh Phaolô kêu gọi: “Chúng tôi là sứ giả thay mặt Đức Kitô, như thể chính Thiên Chúa dùng chúng tôi mà khuyên dạy. Vậy, nhân danh Đức Kitô, chúng tôi nài xin anh em hãy làm hoà với Thiên Chúa. Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người”(2 Cr 5:20-21). Kỳ diệu quá, chúng ta không thể nào hiểu thấu. Ngày nay vẫn có những người không tin hoặc không muốn tin điều đó, nhưng sự thật vẫn mãi là sự thật!

Rút kinh nghiệm thực tế của bản thân, Thánh Phaolô chân thành khuyên nhủ: “Anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa thì đừng để trở nên vô hiệu”(2 Cr 6:1). Vâng, không thể lãng phí ơn Chúa. Quả thật, chính Thiên Chúa đã xác định: “Ta đã nhận lời ngươi vào thời Ta thi ân, phù trợ ngươi trong ngày Ta cứu độ. Vậy, đây là thời Thiên Chúa thi ân, đây là ngày Thiên Chúa cứu độ”(2 Cr 6:2).

2/ MỆNH LỆNH PHỦ ĐỊNH

Mệnh lệnh thứ nhì là mệnh lệnh phủ định: “Chớ giả hình!”. Mệnh lệnh cách phủ định là dạng nhấn mạnh của thể xác định. Giả hình là làm cho cái ảo giống như có thật, bề ngoài thấy rõ ràng y như thật mà lại không phải là thật – tương tự ảo thuật hoặc xảo thuật.

Về phương diện tâm linh, giả hình là thói đạo đức giả. Giả hình còn là thái độ lững lờ nước đôi, sống “hai lòng”hoặc “hai mặt”. Người đời còn không thể chấp nhận lối sống đó, huống chi Thiên Chúa là Đấng chí thánh (Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:26; Lv 21:8; Tv 89:36; Tv 99:5 & 9; Is 6:3; Br 4:22; Hs 11:9; Am 4:2; 1 Pr 1:16; Ga 6:69), là Đấng công minh và chính trực (Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 9:9; Tv 7:18; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 35:28; Tv 67:5; Tv 146:7; Ga 17:25).

Muốn tránh giả hình thì phải can đảm dứt khoát. Dứt khoát là kết thúc sự giằng co, là “tự xé”chính lòng mình chứ không nhờ ai xé dùm!

Thiên Chúa là Đấng duy nhất (Đnl 6:4; Nkm 9:6; Es 4:17; Xh 20:3; Đnl 5:7; Đnl 32:39; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10; Is 45:6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4), chỉ có Ngài là tuyệt đối, Ngài rất ghét thái độ đạo đức giả, do đó Ngài đã gay gắt lên án và cảnh cáo: “Ngươi chẳng lạnh mà cũng chẳng nóng. Phải chi ngươi lạnh hẳn hay nóng hẳn đi! Nhưng vì ngươi hâm hẩm chẳng nóng chẳng lạnh, nên Ta sắp mửa ngươi ra khỏi miệng Ta”(Kh 3:16). Rất khó nghe. Ai thấy “sốc”là tốt!

Chắc chắn như vậy, vì Chúa Giêsu đã từng cảnh báo: “Các con hãy coi chừng men Pha-ri-sêu, tức là thói đạo đức giả”(Lc 12:1). Một lần khác, Ngài gay gắt lên án thói đạo đức giả ấy bằng cách ví von với những hình ảnh rất thực tế: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế. Các người cũng vậy, bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!”(Mt 23:27-28; Lc 11:42-44). Thói “đạo đức giả”hoặc “ra vẻ đạo đức” không chỉ phổ biến ở thời xưa, mà ngày nay cũng còn phổ biến lắm. Ngày xưa dễ nhận biết vì người thời đó có “tua áo dài”, nhưng ngày nay rất khó nhận biết vì quá đỗi tinh vi!

Trước mặt người đời, người ta có thể “lấy vải che mắt”, nhưng không thể “qua mặt”Thiên Chúa, vì Ngài thấu suốt mọi sự (Sbn 28:9; Gđt 8:14; Et 5:1; 2 Mcb 7:35; 2 Mcb 9:5; 2 Mcb 12:22; 2 Mcb 15:2; G 28:27; Tv 139:2; Cn 16:2; Cn 21:2; Cn 24:12; Kn 1:6; Kn 7:23; Hc 23:19; Hc 42:20; Gr 11:20; Gr 20:12; 1 Cr 12:4-6). Chẳng chóng thì chày, rồi người ta cũng sẽ phải chân nhận điều này: “Không có gì che giấu mà sẽ không bị lộ ra, không có gì bí mật mà người ta sẽ không biết”(Lc 12:2). Người Việt chúng ta cũng nói: “Cái kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra”. Cái gì thật thì vẫn thật, cái gì giả thì không thể là thật, chắc chắn mọi bí mật sẽ được/bị “bật mí”.

Đối với việc sống Mùa Chay, người ta thường thích “biểu diễn đạo đức”, thế nên Chúa Giêsu khuyến cáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, CHỚ có phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, ĐỪNG cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”(Mt 6:1-4).

Đó là sự thật minh nhiên. Chúa Giêsu muốn người ta bố thí nhưng phải bí mật. Chúa có “chơi ép”chúng ta? KHÔNG phải vậy. Vì làm bí mật mới đáng công trạng. Thế nhưng ngày nay, chúng ta vẫn thường “đánh trống, khua chiêng”bằng nhiều kiểu mỗi khi đi xa với danh nghĩa “làm từ thiện”trong khi lại “làm ngơ”trước nỗi khổ của những người ngay bên cạnh mình. Liệu có phải là “máu Pha-ri-sêu”, là giả hình hoặc thói đạo đức giả? Và Chúa có vui chút nào không?

Về việc cầu nguyện, Chúa Giêsu bảo: “Khi cầu nguyện, anh em ĐỪNG làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. Thầy bảo thật anh em: chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”(Mt 6:5-6). Với “tình huống”này, chúng ta lại nhớ tới hai người lên Đền Thờ để cầu nguyện (Lc 18:9-14). Người Pha-ri-sêu (biệt phái) rất “chảnh”, vênh váo vỗ ngực tự tôn, còn người thu thuế thì vô cùng xấu hổ và đấm ngực ăn năn, xin Chúa tha thứ.

Chúa Giêsu cho chúng ta biết “bí quyết”ăn chay hiệu quả: “CHỚ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh”(Mt 6:17-18). Có lẽ chúng ta không khoái cái kiểu ăn chay “ngầm”như vậy, bởi vì bản chất con người thích khoe khoang, muốn được “nổi trội”, chứ không ai biết thì… chán lắm. Cái tôi thật tồi tệ!

Nhưng Chúa lại muốn chúng ta phải có “phong cách”ăn chay như vậy, nếu không thì chúng ta “đã được phần thưởng rồi”. Rất lô-gích, rất hợp lý, rất công bằng, và cũng rất… thú vị. Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, câu “đã được phần thưởng rồi”được Chúa Giêsu nhắc tới BA LẦN đấy, nghĩa là chúng ta phải rất thận trọng và tỉnh táo! Chúa Giêsu còn nói thẳng luôn: “Khi cầu nguyện, anh em đừng lải nhải như dân ngoại; họ nghĩ rằng: cứ nói nhiều là được nhận lời. Đừng bắt chước họ, vì Cha anh em đã biết rõ anh em cần gì, trước khi anh em cầu xin”(Mt 6:7-8). Chua choa! Xem chừng “nhức óc”dữ dằn, vì Ngài dùng chữ “lải nhải”. Phải thế thôi, không nói mạnh thì không được, vì chúng ta “lì lợm”lắm!

Mùa đi, mùa tới. Thời gian luân chuyển. Một Mùa Chay nữa lại về, có lẽ không ai lại không nhớ rõ dụ ngôn “Người Cha Nhân Hậu”(Lc 15:11-32), dụ ngôn điển hình về lòng thương xót của Thiên Chúa. Ước gì mỗi người đều đủ can đảm để trở về ngay lập tức. Hãy quyết tâm sống đúng điều mình thầm nhủ:

Xé tâm hồn, xé tâm can

Ăn chay, sám hối, để san bằng đời

Đừng chần chừ nữa, tôi ơi!

Dứt khoát cuộc đời Chúa sẽ xót thương

Cái giá của Nước Trời rất mắc (đắt, đắt đỏ, tốn phí) vì phải thực hành đức tin và sám hối cả đời, lơ đãng một chút là “rớt giá”ngay. Nhưng giá vé vào Thiên Đàng cũng rất rẻ, đó là chỉ cần chân thành sám hối, chứng cớ “điển hình”là Thánh Tướng Cướp “tốt lành”Dimas (Dismas – x. Lc 23:43) đã là người đầu tiên nhận vé vào Nước Trời, và được “hộ tống”Chúa Giêsu vào Thiên Đàng ngay sau khi Ngài trút hơi thở cuối cùng. Thế thì chúng ta có “cơ may”hơn Thánh Dimas rất nhiều. Hãy cố gắng không ngừng tín thác vào lòng thương xót của Chúa, đừng bao giờ tuyệt vọng dù có thể có lúc chúng ta cảm thấy thất vọng (x. 2 Cr 4:8).

Thiên Chúa đã truyền lệnh: “Các ngươi PHẢI NÊN THÁNH và PHẢI THÁNH THIỆN”(Lv 11:44-45; Lv 19:2; Lv 20:7). Ngài cũng đã gọi chúng ta là “những bậc thần thánh”(x. Ga 10:34). Thế thì chúng ta phải nên thánh, và chúng ta chắc chắn là thánh nếu chân thành thân thưa: “Miserere Mei, Deus, Domine et Pater – Xin thương xót con, lạy Thiên Chúa, Đức Chúa và Thánh Phụ của con”.

Lạy Thiên Chúa chí thánh và nhân hậu, xin dạy con biết đường lối của Ngài để con cố gắng bước theo Chân lý (Tv 86:11). Xin ban Thần Khí biến đổi con ngay từ đầu Mùa Chay này để con dứt khoát với quá khứ và bắt đầu trang đời mới. Xin Đức Thánh Maria và Đức Thánh Giuse, các thiên thần, các thánh và các linh hồn cùng nguyện giúp cầu thay để con sống trọn Mùa Chay đúng Ý Chúa. Con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ của nhân loại. Amen.

 

45.Tin vào tình yêu sự tha thứ--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Cách đây hơn một năm, cộng đồng mạng hết sức cảm thông và chia sẻ với một người cha đi tìm con, đó là trường hợp của anh Lương Thế Huynh. Hai vợ chồng anh có một đứa con ba tuổi, bỗng nhiên bị mất tích. Anh chị nghi đưa bé đã bị bắt cóc. Người cha tội nghiệp này đã rong ruổi khắp các tỉnh thành trên toàn quốc để tìm đứa con. Trên chiếc xe honda cũ kỹ, anh để hình con trai và những lời kêu cứu: Xin mọi người thương giúp tôi tìm lại con tôi. Anh chỉ cầu mong có ai đó có thể chỉ cho anh đứa con trai bé nhỏ. Sau gần một năm trời, gặp lại anh, người ta chỉ còn thấy một thân hình tiều tụy, phờ phạc vì mệt mỏi, thiếu ăn thiếu ngủ. Tuy nhiên, trong ánh mắt và trong lời nói, anh vẫn hy vọng một ngày nào đó, anh có thể tìm lại đứa con bé bỏng của mình.

Thiên Chúa cũng đang miệt mài đi tìm chúng ta như thế. Ngài không đành lòng ngồi đó để nhìn chúng ta là những đứa con đi lạc, bị ma quỷ, tội lỗi bắt cóc, nhưng tìm kiến và đưa chúng ta trở về với tình yêu của Ngài. Mùa Chay chính là cơ hội chúng ta có thể đụng chạm đến lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa, là cơ hội Thiên Chúa ban để mời gọi chúng ta trở về và cũng là thời gian Thiên Chúa tìm kiếm mỗi chúng ta.

Việc trở về cùng Thiên Chúa là cha yêu thương, không chỉ dành cho người tội lỗi, mà cho hết mọi người kể cả những người công chính tốt lành. Trở về không chỉ để nói lời xin lỗi với Thiên Chúa, nhưng trước hết là để cảm nhận được tình yêu thương của một người cha, để được sà vào vòng tay ấm áp của Cha. Vì thế, mùa Chay này là cơ hội dành cho mỗi người, để làm mới lại tương quan của mình đối với Thiên Chúa. Điều Thiên Chúa chờ đợi nơi mỗi người là thái độ thành tâm thật lòng: Hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, khóc lóc và than van. Hãy xé lòng chứ đừng xé áo.

Động lực và sức mạnh giúp chúng ta quay lại với Chúa, không phải vì sợ hãi, sợ bị phạt, nhưng là tin vào tình yêu, sự nhân hậu của Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một vị thần khắc nghiệt, cũng không là một quan tòa vô cảm, nhưng trước hết Ngài là một người cha chạnh lòng thương. Lời tiên tri Gioen diễn tả: Ngài từ bi nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Ngài hối tiếc khi giáng họa, và tìm cách để ban ơn lành. Chính tình thương này đã thúc đẩy Thiên Chúa tìm kiếm con người để tha thứ, yêu thương và chữa lành.

Một khi thật lòng trở về với Thiên Chúa, chúng ta sẽ cảm nhận được tình thương từ nơi Ngài. Thiên Chúa sẽ không bao giờ nhớ lại quá khứ của ta, nhưng Ngài như cha hân hoan vui mừng ôm ta vào lòng, như người mục tử tìm được con chiên lạc. Thiên Chúa không chê chúng ta bẩn thỉu hôi hám vì tội lỗi, nhưng Ngài đưa chúng ta vào nhà của Ngài, cho ta chung hưởng niềm vui và hạnh phúc của Ngài. Thiên Chúa sẽ đổi mới cuộc đời chúng ta, trả lại cho chúng ta niềm vui, hân hoan và hạnh phúc trong tư cách những người con của Chúa.

Việc trở về với Thiên Chúa được thể hiện qua việc điều chỉnh lại các mối tương quan: với người khác, với Thiên Chúa và với chính mình. Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta ba mối tương quan cụ thể phải điều chỉnh và thực hành với một thái độ thành tâm thiện chí, đó là: làm việc bác ái, cầu nguyện và chay tịnh.

Chúa Giêsu cảnh báo về thái độ làm việc bác ái. Từ xưa đến nay, nhiều tôn giáo dạy làm việc bác ái, tuy nhiên người ta làm việc bác ái với nhiều mục đích khác nhau. Có người làm việc bác ái chỉ để cho lòng thanh thản sau một quãng đời có nhiều sai lỗi, gian dối; có người muốn bù lại quá khứ mình đã gây ra đau khổ, thiệt hại cho người khác; có người làm việc bác ái chỉ đơn thuần là công tác xã hội, làm bác ái để đánh bóng tên tuổi mình. Người Công giáo được mời gọi làm việc từ thiện bác ái với một mục đích và ý nghĩa riêng. Việc bác ái chia sẻ của người Công giáo phải phát xuất từ tình yêu của Thiên Chúa ngang qua trái tim và đôi tay. Vì thế, việc bác ái Công giáo không thể nhắm đến sự phô trương, danh tiếng hay thành tích dưới bất cứ hình thức nào. Việc bác ái phải xuất phát từ chỗ nhận ra anh em là hình ảnh, là hiện thân của Thiên Chúa để mình chia sẻ, giúp đỡ anh em với lòng kính trọng. Do đó, khi làm việc bác ái, đừng khua chiêng đánh trống, huênh hoang khoe mẽ, cũng đừng ghi tên, xướng danh, hay đòi hỏi bất cứ sự đáp đền nào, nhưng khi bố thì, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm. Thiên Chúa là Cha, Đấng thấu suốt mọi sự sẽ trả lại cho ta.

Trong tương quan với Thiên Chúa: Chúa chờ đợi mỗi người sự thành tâm thiện chí, tin tưởng và yêu mến. Khi cầu nguyện, anh em đừng giả hình như các biệt phái, đừng đứng ở ngã ba ngã tư, nhưng vào phòng đóng cửa lại và gặp gỡ cầu nguyện riêng tư thân mật với Thiên Chúa. Thiên Chúa không chấp nhận việc đến với Ngài chỉ có cái xác mà không có hồn, Ngài cũng không muốn nghe những lời cầu nguyện giả dối hình thức, nhưng Ngài muốn một sự gặp gỡ thân tình cá nhân giữa mỗi tâm hồn với Chúa. Thiên Chúa muốn chúng ta sống tương quan thân mật như cha với con, như bạn hữu với Chúa. Vào phòng đóng cửa lại, không có nghĩa là trốn tránh cuộc sống hiện tại, xa rời thực tế, nhưng là, cho dù giữa những bộn bề lo toan của cuộc sống, vẫn có những thời giờ tĩnh lặng, có một chỗ cho Thiên Chúa hiên diện trong tâm hồn, là nơi ta có thể gặp Chúa bất cứ lúc nào.

Trong tương quan với chính mình: Thiên Chúa muốn mỗi người biết làm chủ bản thân cùng với những ham muốn. Con người chúng ta bị chi phối, lôi kéo bởi ma quỷ, dục vọng xác thịt và thế gian, nó kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa và tôn mình làm chúa. Chúa Giêsu dạy việc giữ chay trước hết không phải là việc hành xác, không phải là việc phô trương đạo đức bên ngoài, nhưng biết làm chủ con người và những ham muốn của thể xác. Ăn chơi, hưởng thụ, sống dễ dãi buông thả là khuynh hướng tự nhiên của con người. Mùa chay là mùa Chúa muốn chúng ta, trước hết hãy giữ chay lòng, kiềm chế, làm chủ mình khỏi những ham muốn, đòi hỏi dễ dãi của bản thân. Đừng làm cho vẻ mặt rầu rĩ ủ dột bên ngoài, nhưng chỉ tỏ ra cho Thiên Chúa biết mà thôi. Thiên Chúa sẽ thấu hiểu lòng của anh em, Ngài sẽ đón nhận sự thiện chí để nâng đỡ làm cho con người chúng ta được trưởng thành, vững mạnh trong lý trí và quyết tâm.

Qua Lời Chúa hôm nay, chúng ta càng nhận ra gương mặt và trái tim yêu thương nhân hậu của Thiên Chúa là Cha. Thiên Chúa luôn cho chúng ta có cơ hội để điều chính lại bản thân và Ngài không bao giờ thất vọng về tình trạng của mỗi chúng ta. Vì thế, tin vào tình yêu Thiên Chúa, chúng ta không được phép thất vọng về chính mình và cũng đừng bao giờ thất vọng về anh chị em. Đừng bao giờ nghĩ rằng tội tôi quá nhiều, chắc Thiên Chúa không thể tha thứ cho tôi. Nói như thế là chưa đủ lòng tin vào sự nhân từ của Chúa.

Việc lãnh nhận nhúm tro rắc trên đầu hôm nay, nhắc cho mỗi người nhớ đến thân phận cát bụi mỏng manh của mình. Chúng ta sẽ không mãi ở thế gian này, tất cả sẽ phải trở về với cát bụi; cuộc sống này sẽ qua đi, mọi sự sẽ chấm dứt, chỉ có Thiên Chúa là tồn tại mà thôi. Vì thế, đừng bám víu và đừng đặt cược cuộc đời mình ở thế gian này, nhưng hãy đặt nơi Thiên Chúa. Việc nhận nhúm tro trên đầu cũng nhắc cho ta nhớ, con người chúng ta mỏng manh yếu đuối bất toàn bất túc. Vì thế, đừng chấp nhất nhau, đừng giận hờn nhau, nhưng hãy biết thông cảm và tha thứ cho nhau, cùng giúp nhau sống tốt, sống hạnh phúc ở đời này và mai sau đạt được hạnh phúc Nước Trời.

Xin Chúa cho chúng ta biết tận dụng cơ hội mùa Chay này để làm mới lại tương quan của mình đối với Thiên Chúa, với chính mình và với anh chị em. Amen.

 

46.Mùa chay: thời gian để được xót thương--Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

“Lạy Đức Chúa, xin dủ lòng thương xót dân Ngài!”(Ge 2:17)

Vào thời tiên tri Giô-en, trong lúc dân đang gặp thảm họa với nạn châu chấu tàn phá, thì lời kêu gọi của vị ngôn sứ “Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giầu tình thương”là khơi dậy cả một niềm hy vọng! Thế nhưng ngay cả vị ngôn sứ cũng chỉ mới dám hy vọng, chứ chưa nắm chắc được điều gì khi ông lên tiếng: “Biết đâu Người chẳng nghĩ lại”(Ge 2:13-14). Rõ ràng ông đã ngập ngừng! Hình phạt thì chắc rồi vì đang xảy ra, và vì vậy lời kêu gọi sám hối và chay tịnh phải khẩn thiết: “hãy rúc tù và, hãy ra lệnh giữ chay thánh…”Tóm lại, cần phải xức tro và chay tịnh để mong đượcThiên Chúa  quyền năng công thẳng thương xót thứ tha khỏi hình phạt sắp giáng xuống. Trong cùng một truyền thống ngôn sứ, lời kêu gọi và phép rửa của Gio-an tiền hô sau này cũng mang nội dung tương tự: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây!”(Mt 3:10).

Thế còn Hội Thánh Chúa Ki-tô, Hội Thánh của Tin Mừng cứu độ, muốn nói với tôi điều gì khi thiết lập Mùa Chay thánh? Phải chăng cũng cùng một nội dung tương tự như các ngôn sứ đã kêu gọi dân Do Thái xưa? Nếu là như thế thì tôi thiết nghĩ: thời gian và sứ điệp này chỉ nặng ký đối với những ai hiện còn đang sống trong tội lỗi, còn thì thật nhẹ nhõm, thậm chí không cần thiết, đối với một số khác, những người đã hoặc đang sống đạo đức tốt lành. Có lẽ vì vậy mà nhiều tín hữu ‘lành thánh’, trong đó tất nhiên có nhiều linh mục và tu sĩ, có thái độ coi nhẹ thời gian này. Họ nghĩ là cứ cặn kẽ tuân giữ các qui định về ăn chay kiêng thịt, hoặc làm một số việc hy sinh (cá nhân hoặc tập thể), và thế là mùa chay tốt đẹp rồi.

Đức Giê-su thẳng thừng tuyên bố rằng: ăn chay kiểu đó không còn cần thiết nữa (xem Mt 9:14-17); ngay cả cái cách biểu lộ việc giữ chay tịnh như thời Cựu Ước của ngôn sứ Giô-en cũng không nên tồn tại. Lý do sâu xa là vì, tình thế đã thay đổi tận gốc rễ: Chàng Rể của tình yêu đã tới và vì thế than khóc, chay tịnh không còn ý nghĩa; trừ phi tình thế bị đảo ngược. Nếu thế thì các Ki-tô hữu phải tìm ra nơi Mùa Chay một nét nào đó hết sức độc đáo của Tân Ước: Chàng Rể của lòng từ nhân đã tới, và vì thế đây phải là thời gian của vui mừng và hy vọng, thời gian tập trung mọi cặp mắt hướng về Chàng; vì thế Mùa Chay trở thành quan trọng; chính vì Ki-tô hữu chúng ta không còn mong đợi trong hy vọng nữa, mà đã thật sự đón nhận và tận hưởng; ai càng đón nhận bao nhiêu thì lại càng có khả năng tận hưởng ơn cứu độ và lòng thương xót bấy nhiêu. Nếu xưa kia Giô-en kêu gọi dân chúng giữ chay là để hy vọng được Thiên Chúa xót thương, thì ngày nay Hội Thánh của Đức Ki-tô kêu gọi giữ chay là để các tín hữu có dịp vào sâu hơn trong lòng xót thương cứu độ, nói cách khác: để khám phá rõ hơn khuông mặt nhân ái của Thiên Chúa. Đối với Ki-tô hữu “Thiên Chúa thương xót”không còn là chuyện “biết đâu”; Thập Giá Đức Giê-su đã là bảo chứng vững chắc: “Con Thiên Chúa, đấng yêu thương tôi và phó mộp mình vì tôi”(Gl 2:20). Vì thế họ nắm rất vững: sám hối, chay tịnh, kể cả làm việc lành phước đức… không phải là điều kiện để được Chúa xót thương. Thiên Chúa xót thương và yêu mến họ trước cả khi họ làm các điều ấy, vì Người yêu họ vô điều kiện, yêu hoàn toàn nhưng không, yêu tới mức độ chết cho họ ngay cả khi họ còn là những tội nhân phản nghịch. Mỗi khi mở miệng thốt lên: “Xin Chúa thương xót chúng con”,Ki-tô hữu tuyên xưng cách vững chắc niềm tin của mình vào một Thiên Chúa từ nhận và hay thương xót, hơn là cầu khẩn để mong nhận được lòng thương xót như dân Do thái trong thời Cựu Ước xưa.

Mùa chay mà Hội Thánh công bố cho tất cả mọi tín hữu qua việc xức tro hôm nay phải mang nội dung nói trên. Đối với các dự tòng và người tội lỗi, có thể còn mang dáng dấp của tinh thần Cựu Ước và các ngôn sứ, nhưng với các Ki-tô hữu trưởng thành thì Mùa Chay phải mang ý nghĩa tích cực hơn nhiều. Và đừng có lo lắng nghĩ rằng: đi sâu hơn vào lòng thương xót Chúa sẽ làm chùng đi mất sự căng thẳng của dây đàn thống hối đang réo rắt. Ngược lại là đàng khác, chính vì tâm hồn biết ca tụng lòng thương xót vô biên của Chúa mà ta sẽ càng thấy cấp bách cần phải thanh luyện mình hơn nữa, càng thấy có nhu cầu phải chay tịnh và chân thành thống hối nhiều hơn nữa, để được xứng đáng với tình yêu xót thương; đúng như câu nói của Mẹ Tê-rê-xa Kơn-ka-ta: “Chúa yêu thương tôi không phải vì tôi lành thánh, nhưng tôi nỗ lực trở nên lành thánh vì biết rằng Chúa đã yêu thương tôi”.

Lạy Chúa, xin cho con biết đón nhận sứ điệp Mùa Chay mà Hội Thánh loan truyền: “Này là mùa hồng ân, này là ngày cứu độ!”Xin cho con biết dùng thời gian 40 ngày này để đào sâu hơn nữa vào lòng Chúa xót thương và tha thứ. Và nếu trong Mùa Chay này con có thi hành được việc lành hay chay tịnh nào, thì cũng xin cho con nhờ đó mà cảm nghiệm được, và sống sâu xa hơn tình Chúa bao la. A-men.

 

47.Hãy trở về--JM. Lam Thy

Đặc tính của Mùa Chay là mùa trở về, sám hối, tha thứ, cầu nguyện và làm phúc bố thí. Là con người mang thân phận mỏng giòn, yếu đuối và tội lỗi, vì thế sự trở về với Thiên Chúa – là nguồn Yêu Thương, nguồn Sức Mạnh và nguồn Ánh Sáng – thật là cần thiết. Trở về để được Chúa yêu thương; trở về để được Người tha thứ; trở về để được Người đổi mới và chữa lành. Trở về để thấy rằng mình luôn yếu đuối và nhận ra mình luôn cần đến Chúa. Thiên Chúa luôn nhìn những gì bên trong con người; ngược lại con người thì thường nhìn những gì ở bên ngoài. Hãy trao chiếc áo tâm hồn rách nát, sầu khổ, tội lỗi cho Chúa để Người thanh tẩy, chữa lành, và ban tràn đầy ơn cứu độ. Chính Đức Chúa đã kêu gọi người tín hữu hãy ăn chay, khóc lóc và thống thiết than van (“Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng ĐỨC CHÚA là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương, Người hối tiếc vì đã giáng hoạ.”– Bài đọc 1 Thứ Tư Lễ Tro: Ge 2, 12-13)

Nói về đặc tính Mùa Chay, Hiến chế về Phụng Vụ Thánh “Sacrosanctum Concilium”(số 109) đã viết: “Hai đặc tính của Mùa Chay là việc sám hối và nhất là việc nhớ lại hoặc dọn mình chịu phép Rửa Tội, chuẩn bị các tín hữu cử hành mầu nhiệm phục sinh, bằng sự nhiệt thành nghe lời Chúa và chuyên chăm cầu nguyện hơn. Hai đặc tính trên phải được trình bày rõ ràng hơn cả trong Phụng vụ lẫn giáo lý Phụng vụ.”Trên cơ sở đó, Những Quy luật tổng quát về Năm Phụng vụ và Niên lịch “Normae de Anno liturgico et Calendario”(số 27) đã đưa ra những lời chỉ dẫn cho biết ý nghĩa quan trọng của ngày Thứ Tư Lễ Tro trong năm Phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh: “Phụng Vụ Mùa Chay nhằm giúp các dự tòng và các tín hữu chuẩn bị cử hành Lễ Vượt Qua. Các dự tòng được chuẩn bị qua những giai đoạn khác nhau của việc nhập đạo, còn các tín hữu thì qua vịêc tưởng niệm bí tích Thánh Tẩy và việc sám hối… Mùa Chay bắt đầu từ Thứ Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay.”

Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo Hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro. Việc xức tro nhắc nhở người Ki-tô hữu: “Ngươi là bụi đất, và sẽ trở về với bụi đất.”(St 3, 19). Đó chính là sự chết mà Nguyên tổ loài người đã tự gánh chịu khi nghe lời cám dỗ của ma quỷ chối bỏ hồng ân, xa lìa Thiên Chúa. Vì lỗi phạm nghiêm trọng đó của Nguyên tổ, loài người bị tội lỗi thống trị, phải sống trong đêm đen của sự chết. Chỉ đến khi Ngôi Lời nhập thể cứu độ, đem lại sự sống vĩnh cửu cho loài người, thì “ánh sáng mới bừng lên”(Is 9, 1). Vì thế, có thể nói Mùa Chay chính là dịp giúp các Ki-tô hữu – thông qua việc tưởng niệm cuộc Thương Khó của Chúa Ki-tô – mà nhìn rõ được thế lực ghê gớm của ma quỷ, đồng thời “nhìn lại mình”mà nhận ra được những yếu đuối mỏng giòn của bản thân trước những cám dỗ hấp dẫn cùa ba thù (1- Dục vọng của bản thân; 2- Hấp lực của thế gian; 3- Cạm bẫy của Satan); để từ đó, biết ăn năn sám hối về những sai sót, lỗi lầm đã mắc phạm. Cuối cùng, đổi mới con người của mình như một cuộc vượt qua sự chết (chết đi cùng với Chúa Ki-tô) để được sống lại thật (cùng sống lại với Người).

Như vậy thì có thể hiểu Mùa Chay là mùa toàn Giáo Hội thực hiện đời sống chay tịnh (thanh tẩy + sám hối), chuẩn bị tâm hồn đón mừng Chúa Phục Sinh. Sống chay tịnh không chỉ giới hạn trong việc “ăn chay”(theo từ nguyên thì “ăn chay”chỉ có nghĩa: “ăn không dùng thịt, cá và các chế phẩm từ thịt, cá”), mà còn bao gồm sống ngay thẳng, thật thà (nên tục ngữ VN mói có câu: “Ăn mặn nói ngay hơn ăn chay nói dối”) và nhất là sống tinh thần bác ái Ki-tô giáo. Tuy nhiên, theo thói quen, người ta thường dùng tiếng ăn chay để chỉ việc hãm mình ép xác, tu thân tích đức. Vì thế, cứ tới Mùa Chay là ai cũng nghĩ tới việc ăn chay. Vấn đề đặt ra là phải suy nghĩ xem nên ăn chay như thế nào cho đúng tinh thần Ki-tô giáo, đúng tinh thần Phúc Âm.

Tìm hiểu ý nghĩa và mục đích việc ăn chay trong Thánh Kinh thấy rất đa dạng: Các tín hữu ăn chay là để thờ phượng Thiên Chúa, làm đẹp lòng Thiên Chúa như một nghi thức tôn giáo, một việc đạo đức; để được Thiên Chúa nhậm lời khi cầu nguyện, đi kèm với cầu nguyện để khu trừ ma quỉ; để tỏ lòng ăn năn, sám hối và đi kèm với than khóc để bày tỏ sự buồn bã, hối hận, thương tiếc, lo sợ; đồng thời để đền vì tội lỗi đã phạm, cầu xin Thiên Chúa tha tội. Trong Cựu Ước thì: “Đây là sấm ngôn của ĐỨC CHÚA: “Nhưng ngay cả lúc này, các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van.”(Ge 2, 12); và khi ăn chay thì: “mặc áo vải thô và rắc tro lên đầu rồi ngẩng mặt lên Chúa Thượng là Thiên Chúa, để dâng lời khẩn nguyện nài van.”(Đn 9, 3). Sang đến Tân Ước, Thánh Gio-an Tẩy Giả đã sống trong sa mạc khoảng 30 năm, mặc áo lông cừu, ăn châu chấu và mật ong rừng, để tự nguyện làm “Tiếng hô trong hoang địa”kêu gọi người ta sám hối để được ơn tha tội, đón nhận Tin Mừng Cứu Độ. Đức Giê-su Thiên Chúa cũng ăn chay 40 đêm ngày trong sa mạc, chịu để Xa-tan cám dỗ, hầu chuẩn bị sứ mạng Chúa Cha đã trao phó: rao giảng và thực hiện Tin Mừng Cứu Độ.

Thật không thể ngờ cách đây hơn 2.500 năm, ngôn sứ I-sai-a đã có một quan niệm hoàn toàn mới về ăn chay: Ăn chay với mục đích đầy tính nhân đạo là thực hiện công bằng và bác ái (“Cách ăn chay mà Ta ưa thích chẳng phải là thế này sao: mở xiềng xích bạo tàn, tháo gông cùm trói buộc, trả tự do cho người bị áp bức, đập tan mọi gông cùm? Chẳng phải là chia cơm cho người đói, rước vào nhà những người nghèo không nơi trú ngụ; thấy ai mình trần thì cho áo che thân, không ngoảnh mặt làm ngơ trước người anh em cốt nhục.”– Is 58, 6-7). Ăn chay đúng nghĩa – theo ngôn sứ I-sai-a – chính là thực hiện công bằng xã hội, là tỏ tình yêu thương với người chung quanh bằng những hành động cụ thể.

Với mục đích ấy, ngôn sứ I-sai-a lên án cách ăn chay chuộng hình thức bề ngoài mà thực chất bên trong chỉ lo kiếm lợi cho mình, áp bức kẻ khác, ăn chay để “mồm loa mép giải”cãi vã, hoặc “thượng cẳng chân hạ cẳng tay”đánh lộn tàn bạo (“Này, ngày ăn chay, các ngươi vẫn lo kiếm lợi, vẫn áp bức mọi kẻ làm công cho mình. Này, các ngươi ăn chay để mà đôi co cãi vã, để nắm tay đánh đấm thật bạo tàn. Chính ngày các ngươi muốn ăn chay để tiếng các ngươi kêu thấu trời cao thẳm, thì các ngươi lại ăn chay không đúng cách. Phải chăng đó là cách ăn chay mà Ta ưa chuộng trong ngày con người phải thực hành khổ chế? Cúi rạp đầu như cây sậy cây lau, nằm trên vải thô và tro bụi, phải chăng như thế mà gọi là ăn chay trong ngày các ngươi muốn đẹp lòng ĐỨC CHÚA?”– Is 58, 3-5).

Không cần nói thời đại cổ xưa ấy, mà ngay trong thế giới hiện đại cũng vẫn còn không ít cảnh ăn chay trên môi miệng, ăn chay bằng hình thức phô trương màu mè (“rửa sạch bên ngoài chén đĩa, nhưng bên trong thì đầy những chuyện cướp bóc và ăn chơi vô độ… giống như mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế… bên ngoài thì có vẻ công chính trước mặt thiên hạ, nhưng bên trong toàn là giả hình và gian ác!”– Mt 23, 25-28). Hoặc giả nếu có ăn chay thực sự thì cũng chỉ giữ vì Luật buộc, mà Giáo Luật chỉ buộc ăn chay mỗi năm có 2 ngày (Thứ Tư Lễ Tro + Thứ Sáu Tuần Thánh) – 2 ngày trong khoảng thời gian 365 ngày – thì có đáng là bao, chuyện nhỏ! Quả nhiên là thế, vấn đề ăn chay nếu được thực hiện chỉ vì luật buộc, chỉ vì bổn phận, chỉ câu nệ ở hình thức, trong khi từ trong sâu thẳm của tâm hồn thì vẫn muốn tránh né, vẫn muốn làm ngược lại hoặc làm chiếu lệ, thì cũng chẳng ích gì.

Thánh Phao-lô đã vạch trần thói đời: “Tôi biết rằng sự thiện không ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi. Thật vậy, muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không. Sự thiện tôi muốn thì tôi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm. Nếu tôi cứ làm điều tôi không muốn, thì không còn phải là chính tôi làm điều đó, nhưng là tội vẫn ở trong tôi.”(Rm 7, 18-20). Nhân tình thế thái là như vậy đó. Nên chi vấn đề ăn chay người ta chỉ thích “xé áo”(để thay vào bộ cánh hợp mốt, bảnh bao) hơn là “xé lòng”. Nếu có ngoẹo đầu, méo miệng, sùi sụt than khóc thì cũng chỉ là “nước mắt cá sấu”mà thôi! Ôi chao! Cái cảnh “thích ngồi trên tòa ông Mô-sê, đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài, ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là “ráp-bi”, rồi “bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính mình thì lại không buồn động ngón tay vào…”(Mt 23, 1-7), vẫn xảy ra nhan nhản trên thế giới ở thế kỷ XXI này!

Vì thế, cần phải có một suy nghĩ sâu sắc hơn về vấn đề ăn chay: Thứ nhất, ăn chay là nhằm mục đích hãm mình ép xác để đền vì những tội lỗi xúc phạm đến Thiên Chúa và tha nhân (sám hối). Thứ hai, về mặt vật chất, nếu cố gắng giảm bớt chi tiêu phung phí, rồi đem khoản cắt giảm được ấy làm công việc bác ái, từ thiện, thì việc ăn chay mới thực sự có ích. Thứ ba, không giới hạn việc ăn chay trong 2 ngày luật buộc, mà nên thực hiện bất cứ khi nào có dịp, thậm chí trong suốt cả Mùa Chay, suốt cả cuộc đời trần thế. Tóm lại, việc ăn chay cốt ở cái TRÍ (hiểu rõ việc mình làm nhằm mục đích gì) và cái TÂM (đức bác ái), không cần câu nệ ở hình thức (“Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà không có tình yêu, thì cũng chẳng ích gì cho tôi.”– 1Cr 13, 3).

Dù công việc ăn chay hoàn toàn do chủ thể con người tự quyết định, nhưng muốn đạt hiệu quả tốt thì đừng quên cầu nguyện, bởi đó là dịp người tín hữu chính thức “trở về với Thiên Chúa”(“cầu nguyện là nâng tâm hồn và trí khôn lên với Thiên Chúa”). Ăn chay phải đi liền với cầu nguyện như Đức Giê-su đã ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày ròng rã trong hoang địa trước khi bước vào cuộc khổ nạn vì tội lỗi loài người; bởi chính Người đã truyền dạy: “Còn khi ăn chay, anh em chớ làm bộ rầu rĩ như bọn đạo đức giả: chúng làm cho ra vẻ thiểu não, để thiên hạ thấy là chúng ăn chay…Còn anh, khi ăn chay, nên rửa mặt cho sạch, chải đầu cho thơm, để không ai thấy là anh ăn chay ngoại trừ Cha của anh, Đấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Đấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh.”(Mt 6, 16-18).

“Đấng thấu suốt những gì kín đáo” đã có lời khuyên: “Hãy hết lòng trở về với Ta, hãy ăn chay, khóc lóc, và thống thiết than van. Đừng xé áo, nhưng hãy xé lòng. Hãy trở về cùng Đức Chúa là Thiên Chúa của anh em, bởi vì Người từ bi và nhân hậu, chậm giận và giàu tình thương”(Ge 2, 12-13). Vâng, Mùa Chay chính là mùa trở về với chính mình để có thể trở về với Thiên Chúa. Trở về với chính mình, nhìn lại mình để hiểu rằng mình được dựng nên từ tro bụi đất cát, thì một mai cũng sẽ trở về với đất cát tro bụi mà thôi. Hiểu được như thế, hiểu được “Vua Ngô ba mươi sáu cái tàn vàng, chết xuống âm phủ cũng chẳng mang được gì”, thì đừng lo tích trữ của cải vật chất mà hãy lo đầu tư vào ngân hàng Nước Trời. Một cách cụ thể là phải biết từ bỏ tất cả thế gian, từ bỏ chính mình để trở về với Thiên Chúa. Cách tốt nhất để trở về với Đấng Từ Bi Nhân Hậu chỉ có thể là “Đừng xé áo (ăn chay hình thức), nhưng hãy xé lòng (thực tâm ăn năn sám hối)”.

Nói tóm lại, “Mùa Chay là mùa thuận lợi cho việc đổi mới cuộc gặp gỡ của chúng ta với Chúa Kitô, cho việc sống trong lời Ngài, trong các phép bí tích và nơi những người láng giềng của chúng ta. Chúa, là Đấng đã chiến thắng sự lừa dối của tên cám dỗ trong bốn mươi ngày trong sa mạc, chỉ cho chúng ta thấy con đường chúng ta phải đi. Nguyện xin Chúa Thánh Thần dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình thực sự của hoán cải, qua đó chúng ta có thể tìm lại hồng ân Lời Chúa, được thanh tẩy khỏi những tội lỗi làm mờ mắt chúng ta, và phục vụ Chúa Ki-tô hiện diện nơi những anh chị em cùng quẫn của chúng ta… Chúng ta hãy cầu nguyện cho nhau để khi chia sẻ trong chiến thắng của Chúa Ki-tô, chúng ta có thể mở cửa lòng chúng ta đối với người yếu thế và người nghèo. Khi đó chúng ta sẽ có thể trải nghiệm và chia sẻ đầy đủ niềm vui Phục Sinh.”(Sứ điệp Mùa Chay 2017, số 3).

Trong tâm tình đó, xin cùng dâng lời cầu nguyện: “Lạy Chúa, ngày hôm nay, tất cả chúng con ăn chay hãm mình, để bước vào mùa tập luyện chiến đấu thiêng liêng. Xin giúp chúng con hằng biết sống khắc khổ, để ngày thêm vững mạnh mà chiến thắng ác thần. Chúng con cầu xin nhờ Đức Ki-tô, Chúa chúng con. Amen.”(Lời nguyện nhập lễ Thứ Tư Lễ Tro). Ôi! “Bao năm trôi qua hồn con lạc bước đi xa. Quên bao ơn Cha, trầm kha bể đắm bao la. Nay con ăn năn. Hồi tâm thống hối bao lỗi lầm Đền bù bất xứng bao năm. Quyết tâm trở về Cha lành. ĐK: Hãy trở về, trở về với Cha nhân lành. Hãy trở về, trở về để sớm hồi sinh. Hãy trở về, trở về sống trong an bình. Trở về, trở về để mãi sống trong ân tình.”(TCCĐ “Hãy Trở Vè”– Lm Nguyễn Sang)

 

48.Biết phận mình--Lm. Giuse DĐH

Tro bụi, cát bụi, có làm chúng ta xao xuyến gì không? Mầu tím, mầu đen, hay vành khăn trắng trên đầu có đúng là dấu hiệu của đau thương mất mát không? Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn, chỉ “vu vơ”hay cố tình, khi ông sử dụng ca từ “cát bụi”diễn tả phận người như một quy luật: hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi, để một mai tôi về làm cát bụi…! Cuộc sống có sinh có tử, trở về bụi tro hay đối diện với mầu tím, tuy không phải là những trở ngại, làm thay đổi phong cách an vui thụ hưởng của kiếp người, nhưng ít nhiều cũng đang thức tỉnh ta biết đến phận người đầy giới hạn.

Chẳng ai dám công bố “đóa hồng”từ nay sẽ ngát hương, hoặc có thể ra lệnh cho hoa “ngọc lan”hãy mau giảm bớt mùi thơm lại. Cũng không viện thẩm mỹ nào có thể làm cho cụ già 90 tuổi trở về nét xuân rực rỡ mười tám đôi mươi. Căn bản mà người đời áp dụng tốt khoe, xấu che, mấy ai làm điều ngược lại như vạch áo cho người xem lưng, vì thế mà xu hướng chung, người ta thường hay động viên nhau: hãy vui với phận mình. Bước vào mùa chay, mùa tập luyện, mỗi người trước hết phải biết mình bất toàn, rồi nhờ quyền năng cùng ơn Chúa, Ngài sẽ làm cho “ngọc lan”trong ta bớt thơm, “đóa hồng”tỏa ngát và tâm hồn sẽ tươi trẻ lại thuở ban đầu.

Tự nguyện xức tro lên đầu, nhắc nhớ nhau ăn chay hãm mình, hoặc suy xét về lời Chúa phán: “hãy thật lòng trở về với Ta trong chay tịnh, nước mắt và than van ; xé lòng đừng xé áo”, ít ra cũng là lưu ý cho những ai muốn trở nên con cái sự sáng. Dù biết phận người rồi sẽ trở về cát bụi, biết mầu tím là mầu tang chế hay mầu tím là mầu thống hối ăn năn, tất cả chỉ có ý nghĩa khi chúng ta đặt đặt niềm tín thác vào tình yêu Chúa. Tâm hồn xinh đẹp hoặc nhơ bẩn, chúng ta không nhìn thấy, nhưng Kitô giáo chúng ta tin rằng con người tài giỏi khéo léo nhất cũng không thể giấu giếm che đậy được tội tỗi của mình.

Con người tự nhiên là thích phô trương, thích được trọng vọng, thích được hơn người, thích nổ, thích khoác lác…, dù cha mẹ và các vị làm công tác giáo dục thường nhắc bảo chớ sống hình thức, đừng giả dối, đóng kịch. Giới trẻ thích áo quần, đầu tóc giống thần tượng của mình, bậc cao niên thích kể lể về thành tích thuở xa xưa cho con cháu, trong khi ai cũng biết rõ mọi người đều lên án bệnh phô trương thành tích. Chúa Giêsu hôm nay tiếp nối tinh thần của ngôn sứ Gio-el là hãy xa tránh những gì hời hợt bên ngoài: “khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, khi ăn chay, đừng làm bộ thiểu não…, khi cầu nguyện, đừng giả hình,.. Cha ngươi….sẽ trả công cho ngươi”.

Tại sao Chúa Giêsu lại muốn chúng ta đi sâu vào tâm tình bên trong chứ không phải phô diễn bên ngoài? Ngài chỉ rõ là Đấng thấu suốt mọi bí ẩn sẽ ghi nhận việc làm của ta, thứ đến Ngài nhắc nhớ việc cầu nguyện phải khởi đi từ lòng mến, không phải chỉ là hành động vu vơ. Sống tinh thần mùa chay mà chỉ xức tro lên đầu thì không khó, già trẻ lớn bé, người thánh thiện tội lỗi đều dễ dàng thực hiện. Nếu đợi đến khi yếu đau, không ăn không uống, không chơi bời trác táng được, rồi mới kiêng khem, cầu nguyện, mới chịu cho đi tiền bạc, thì nào ý nghĩa gì nữa!

Theo ơn khôn ngoan nhận biết Chúa yêu thương, biết mình giới hạn, chúng ta hãy phơi bày tâm tư tội lỗi của mình, hãy để Chúa làm mới lại cuộc sống, thật lòng làm hòa với Chúa làm hòa với anh chị em của ta. Sám hối chính là nhận ra con người thật của mình, nhận ra Thiên Chúa bao dung tha thứ, để hôm nay, để ngày mai chúng ta không phải hối tiếc vì chúng ta đã đặt niềm tín thác vào Đấng ta tin thờ. 40 ngày chay tịnh ở phía trước, sẽ còn là phương thế hữu hiệu để chúng ta thực thi việc mến Chúa yêu người, để được thay đổi nếp sống cũ, được nên giống Chúa Kitô hơn. Xin Chúa Giêsu tiếp tục hiện diện, đỡ nâng và tháo gỡ những vướng bận, giúp mỗi người biết sống những ngày mùa chay cho xứng hợp với tinh thần của Chúa. Amen.

 

49.Bố Thí, Cầu Nguyện, Ăn Chay--P. Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn, bước vào Mùa Chay là bước vào Lễ Tro, hay nói cách khác Lễ Tro là nghi thức dẫn vào Mùa Chay. Giáo Hội dạy cho chúng ta biết ý nghĩa Mùa Chay là: Mùa chuẩn bị tâm hồn cử hành Lễ Vượt Qua. Gọi là Mùa vì kéo dài 40 ngày.

Mùa Chay cho chúng ta thời giờ “sám hối”, sám hối cho chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa, gọi tắt là “xin lỗi” Chúa.

Vậy, “xin lỗi” Chúa bằng cách nào? Thưa, Tin Mừng hôm nay (Mt 6, 1-6. 16 -18) cho chúng ta ba cách để sám hối: BỐ THÍ – CẦU NGUYỆN – ĂN CHAY, gọi tắt là ba trong một.

Bố Thí: ĐỀN TỘI.

Cầu Nguyện: XIN LỖI CHÚA, xin ơn tha thứ

Ăn chay: Nhìn nhận thân phận tội lỗi của mình.

Như vậy, ba hình thức trong môt vấn đề là SÁM HỐI.

Vâng, tai sao phải sám hối? Trước hết khởi đi từ bài đọc I hôm nay. ( Ge, 2, 12 -18), Thiên Chúa phán cùng Tiên Tri Giô-el: “Các ngươi hãy ăn chay, khóc lóc và than van, và thành tâm trở về với Ta. Phải xé lòng mình ra, chớ đừng xé áo, phải quy thuận Thiên Chúa là Chúa ngươi “( Ge 2, 12 -13)

Như vậy, Sám Hối chính là trở về với tâm tình khiêm nhường, mọi thứ tội lỗi đều xuất phát từ sự “kiêu ngạo”. Một người không thể sám hối, nếu họ không biết khiêm nhường, ngược lại, nếu không có tâm tình khiêm nhường, thì không biết “SÁM HỐI “chân thành.

Hình thức sám hối chính là: BỐ THÍ – CẦU NGUYỆN – ĂN CHAY, ba hình thức trên phải thực hiện trong nơi”KÍN ĐÁO”. Vì, bất cứ việc gì làm một cách kín đáo, tránh phô trương, khoe khoang thì lợi ích sẽ tăng them, huống chi là việc đạo đức. Vì, sám hối là việc giữa tội nhân với Thiên Chúa, có nghĩa là mình Chúa, mình ta. Sám hối là nhìn nhận thân phận “TỘI NHÂN “chứ không phải là việc “đạo đức “để khoe. Đây là cốt lõi của vấn đề. Vì, “Đây là ngày Ta thi ân, là thời giờ Ta giáng phúc “.

Rõ ràng, cách “SÁM HỐI “của Cựu Ứơc không giống Tân Ứơc, người ta thích phô trương, thích cho mọi người biết, từ đó là”biến dạng”tính chất quan trọng của việc “SÁM HỐI”. Sám hối là biểu lộ sự chân thành, sự ăn năn, gọi là “THỐNG HỐI”, là ăn năn đau đớn. Nhận ra mình là kẻ có tội, chứ không phải người khác có tội. Vì, nếu mọi người đều biết ăn năn, thì xã hội sẽ lành mạnh, đất nước sẽ bình an, thế giới sẽ hòa bình.

Hôm nay đây, Chúa Giêsu dạy chúng ta cách “sám hối”chân thành, có nghĩa  là “sám hối”cách kín đáo. Như vậy, Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật là như vậy, Người dạy chúng ta cách bố thí, cầu nguyện, ăn chay một cách “KÍN ĐÁO “hầu để được chính Thiên Chúa ban ơn cho chúng ta.

Sám hối cho chúng ta một tâm tình “biết ơn “và phó thác vào Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ba cách thế đưa chúng ta đến một sự sám hối chân thành, hầu kết hiệp được với Thiên Chúa.

Ngày nay, hình thức bố thí “khó “làm nơi kín đáo. Không những, người ta”phô trương” một nơi, mà còn đưa lên các trang mạng, hầu khắp mọi nơi đều biết việc làm “từ thiện” của họ. Điều nầy, họ cũng lý giải rằng: “đèn thắp lên, phải được đặt trên giá …”. Tuy nhiên, họ cho rằng, nếu không làm vậy, lấy tiền đâu mà làm từ thiện. Điều nầy đúng khi và chỉ khi, tách rời việc “bố thí “của cá nhân, từng người, với “làm từ thiện “tập thể. (mong dành cho sự suy tư của từng người)

Bài đọc II hôm nay (2 Cr 5, 20 – 6, 2) thánh Phaolô nói: “… anh em đã lãnh nhận ân huệ của Thiên Chúa, thì đừng để trở nên vô hiệu”. (2Cr 6, 1b). Theo đó, chúng ta hãy làm theo Đức Kitô., Đấng không hề biết tội là gì?

Bố thí, không phải chỉ nghĩ về phương diện vật chất, mà còn là phương diện tâm linh. Bố thí về tình thần là làm tốt, nghĩ tốt, nói tốt cho người khác.

Cầu nguyện, không phải đọc kinh suốt ngày, mà phải biết nhớ đến Chúa từng giây, từng phút. Vì cầu nguyện là biểu lộ một đức tin, một sự cậy trông, một lòng yêu mến tha thiết.

Ăn chay, không phải nhịn ăn để dành, mà là thể hiện sự hãm mình, sự hy sinh, sự liên kết với cuộc khổ nạn của Đức Kitô- Giêsu. Vì, ăn chay là một trong ba cách sám hối, sám hối là tỏ lòng khiêm tốn.

Sứ Điệp Mùa Chay 2017 của Đức thánh cha Phanxico nhắc nhở cho chúng ta:

NGHĨ ĐẾN THA NHÂN: Chia sẻ tình thương là LÒNG THUONG XÓT của Thiên Chúa, không phải bằng cơm bánh, mà bằng tinh thần trong Đức Kitô- Giêsu.

NHÌN LẠI TỘI LỖI CỦA MÌNH: có nghĩa là khiêm tốn nhìn nhận mình là kẻ tội lỗi, là “đấm ngực “mình, chứ đừng “đấm mặt “tha nhân.

CHÚ Ý ĐẾN LỜI CHÚA: Vì Lời Chúa là một đặc ân vô giá, một ân huệ vô song, một tình thương cao cả.

Vậy, hình thức xức tro là hình thức bằng lòng, tự nguyện sám hối chân thành để được ơn tha thứ của Thiên Chúa qua giáo hôi.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con biết sám hối chân thành để được giao hòa với Thiên Chúa, được trở về với Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là Cha. Xin Chúa thương ban cho chúng con được yêu mến và lắng nghe, hầu thực thi Lời Chúa, hầu đem lại mưu ích cho chúng con. Amen.

 

50.Một chương trình mùa chay

Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ phô trương cho thiên hạ thấy. Bằng không, anh em sẽ chẳng được Cha của anh em, Đấng ngự trên trời, ban thưởng. (Mt. 6, 1)

Mùa chay là thời kỳ ăn năn trở lại và chuẩn bị mừng lễ Phục sinh. Thời kỳ ăn năn nghĩa là thời gian chúng ta cần phải đổi mới con tim và sửa đổi những thói hư tật xấu không phù hợp với yêu cầu của Tin mừng. Đó không phải là điều dễ dàng!

Chúng ta đã sống qua nhiều mùa chay với lòng chân thành mà vẫn không có kết quả, không làm cho chúng ta hoàn toàn đổi mới. Nếu chúng ta bắt đầu vào mùa chay với cảm nghĩ sẽ biến đổi hoàn toàn từ đầu tới đến ngày Phục sinh, chúng ta sẽ bị thất vọng. Ăn năn sám hối, thay đổi con tim của mình là công việc suốt đời. Cần phải cố gắng từng bước từng bước, không nóng vội. Phải tiến bước thế nào?

Tin mừng lưu ý chúng ta chú trọng về ba việc phải làm này: bố thí, ăn chay, cầu nguyện. Không có gì mới, không có gì cách mạng. Đó là lời khuyên có trong hầu hết các tôn giáo trước khi Đức Giê-su đến trần gian. Đức Giê-su không bãi bỏ các việc thực hành đó, mà còn khuyên làm.

Làm việc bố thí là chia sẻ cái gì mình có, chia sẻ tiền của, cơm áo dĩ nhiên nhưng còn chia sẻ thời giờ, trí thức, trái tim. Dùng thời giờ để đem yêu thương đến cho mọi người, nhất là người xấu số, dùng thời giờ làm việc giúp đỡ người khác.

Cầu nguyện: cầu nguyện ở nhà thờ, ở nhà mình. Hiến dâng thời giờ cho Chúa, tiêu hao thời giờ vì Chúa. Chúng ta không siêng năng cầu nguyện, thế là mất nhiều mối lợi to lớn rồi. Đức Giê-su thấy đó là mối lợi to lớn đối với Người, khi Người luôn luôn cầu nguyện với Đức Chúa Cha. Sao chúng ta không cậy trông Người để cầu nguyện.

Ăn chay: Không phải chỉ tinh luyện đời sống mình, mà còn tác tạo, bồi đắp cho ta lòng khao khát mến Chúa vô bờ. Ăn chay để khám phá, phát triển lòng ham thích cầu nguyện. Ăn chay để giúp cho những người khác những gì họ đang thiếu.

Đó là chương trình mùa chay xin đề nghị với chúng ta. Nó đã được ứng nghiệm bằng nhiều chứng nhân. Nó giản dị và vừa tầm tay mọi người. Không còn phương thế nào tốt hơn nữa. Thật vô ích khi tìm việc nào khác.

 

51.Đừng phô trương

Thánh lễ hôm nay đưa chúng ta vào Mùa Chay Thánh, là mùa ăn năn sám hối và đền tội. Muốn ăn năn sám hối thì ta phải quay về với chính mình, để thấy mình cần phải sám hối những gì, quay về với cuộc sống nội tâm kín đáo thầm lặng, mặc dầu phải sống với bao nhiêu ồn ào náo nhiệt của cuộc sống hôm nay.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ: bố thí kín đáo, cầu nguyện kín đáo và ăn chay kín đáo. Đời sống đạo đức phải kín đáo. Rõ ràng là Chúa chống lại thói phô trương của người Biệt phái và Pharisiêu, cũng như của chúng ta hôm nay.

Gặp Thiên Chúa nơi kín đáo.

Trong Cựu ước, thường Thiên Chúa hiện ra với con người cách kín đáo: Chúa hiện ra với Abraham và Samuel ban đêm, hiện với một mình Môsê trên núi Sinai hay trong Nhà Tạm.

Trong Tân ước, Chúa Giêsu thường cũng tỏ ra kín đáo: sinh ra trong hang đá Bêlem giữa cánh đồng vắng, sống âm thầm ở Galilê, rút lui ban đêm vào nơi thanh vắng để cầu nguyện, vào sa mạc ăn chay cầu nguyện 40 đêm ngày. Là Con Thiên Chúa, nhưng Chúa tỏ ra kín đáo đến nỗi người ta chỉ tưởng Ngài là con bác thợ mộc, một người tầm thường như trăm ngàn người khác.

Vì thế hôm nay chúng ta mới hiểu được tại sao ChúaGiêsu dạy các môn đệ sống kín đáo nếu muốn gặp Cha, “Đấng hiện diện nơi kín đáo”. Các thánh tu rừng ngày xưa và sau này, từ thế kỷ thứ IV, các đan sĩ rút lui vào nơi thanh vắng, sống im lặng trong cầu nguyện để gặp Chúa. Đời sống tu trì, cầu nguyện trong thanh vắng, đem lại cho Giáo Hội sự cân bằng trong đời sống tông đồ. Đối với người tu sĩ linh mục, cũng như người kitô hữu hôm nay, sống kín đáo để gặp Chúa trong các giờ cầu nguyện, suy gẫm và chiêm niệm, là một nhu cầu sinh tử cho đời sống thiêng liêng và tông đồ.

Môi trường hướng ngoại.

Sống kín đáo với Chúa cần thiết như thế đó, thế nhưng chúng ta đang sống trong một môi trường không thuận lợi chút nào. Con người hôm nay thích phô trương, chạy theo một cuộc sống hướng ngoại, nhiều khi đánh mất cả chính mình. Đến khi phải trở về với chính mình trong yên lặng thì cảm thấy trống rỗng, khó chịu. Sống trong hoàn cảnh đó, người kitô hữu, nếu không cảnh giác thì sẽ bị lây nhiễm dễ dàng, giờ cầu nguyện sẽ trở nên trống rỗng, dễ chia trí, quì trước mặt Chúa, nhưng tâm bất tại …Vì thế nhiều tu sĩ cũng như kitô hữu, thường phàn nàn: đọc kinh cầu nguyện hay chia trí, ngủ gật ngủ gà, có thể đó là dấu chỉ đã bị bầu khí hướng ngoại của thời đại đầu độc khá đậm và đang làm băng hoại đời sống thiêng liêng và tu trì. Đó cũng là lý do khiến nhiều người đã bỏ cuộc.

Tập sống kín đáo với Chúa là một nhu cầu bức thiết của đời sống với Chúa hôm nay. Trong việc huấn luyện, đặc biệt cho giới trẻ được sinh ra và lớn lên trong môi trường hướng ngoại, người có trách nhiệm huấn luyện phải để ý đến điểm này, nếu không thì đời sống với Chúa sẽ trở thành trống rỗng. Thiếu đời sống nội tâm, sống kín đáo và thân mật với Chúa, không chóng thì chày, đờisống ki tô hữu sẽ gặp khủng hoảng.

Ngày nay, dịp nghỉ cuối tuần, người dân thành phố đổ xô về miền núi hay bờ biển, tránh xa bầu khí ồn ào của thành phố, hưởng bầu khí trong lành và sự thinh lặng giữa thiên nhiên. Có nhiều kitô hữu, mỗi năm xin đến sống trong một tu viện một vài tuần lễ để cầu nguyện và sống kín đáo với Chúa trong yên lặng. Điều đó trở thành một nhu cầu cho những ai ý thức về chính mình, để lấy lại thế quân bình. Những ngày tĩnh tâm cũng nằm trong mục đích đó, chứ không phải là một khóa bồi dưỡng kiến thức, cho dù là kiến thức đạo đức. Những bài chia sẻ là để giúp ta đi vào cuộc sống nội tâm, nên phải dành thì giờ sống thinh lặng suy gẫm và cầu nguyện nhiều hơn.

Đừng phô trương, tập rút lui vào thinh lặng của tâm hồn, hãy sống kín đáo với Chúa trong tâm hồn mình. Đó là mục đích của những cuộc tĩnh tâm Mùa Chay, cũng như là đòi hỏi của bài Tin Mừng hôm nay.

Có một người lâu năm không xưng tội, bỗng một ngày kia anh cho vợ con đi về nhà ngoại chơi một tuần; một mình anh ở nhà, xét mình để chuẩn bị xưng tội. Anh đến tòa giải tội với một cuốn tập một trăm trang, viết đầy từ đầu chí cuối. Chỉ trong thinh lặng, người ta mới thấy mình được rõ hơn.

 

52.Lịch sử và ý nghĩa THỨ TƯ LỄ TRO

LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA THẦN HỌC PHỤNG VỤ

Ngày Thứ Tư Lễ Tro, chúng ta nghe văng vẳng lời thánh ca từ Sách Sáng thế: Hỡi người hãy nhớ mình là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Lời Kinh thánh này nhắc nhở chúng ta ý thức về thân phận con người qua biểu hiệu "bụi tro”được dùng trong Kinh thánh và trong nghi lễ ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay. Trong bài viết này tôi sẽ nói qua về lịch sử và ý nghĩa thần học phụng vụ của Ngày Thứ Tư Lễ Tro.

1. Lịch sử Thứ Tư Lễ Tro

Những Quy luật tổng quát của Năm phụng vụ nói về ngày Thứ Tư Lễ Tro như sau: "Mùa Chay bắt đầu từ Thư Tư Lễ Tro và kết thúc ngay trước Thánh lễ Tiệc Ly. Ngày Thứ Tư đầu Mùa Chay có xức tro; ngày đó khắp nơi ăn chay”(số 28 và 29). Lời chỉ dẫn này cho chúng ta biết ý nghĩa của Ngày Thứ Tư Lễ Tro trong Năm phụng vụ, cũng như trong suốt Mùa Chay thánh. Với Thứ Tư Lễ Tro, Giáo hội bắt đầu Mùa Chay. Ngoài ra trong cơ cấu phụng vụ của ngày này, Giáo hội cử hành lễ nghi làm phép tro và xức tro.

Trong truyền thống phụng vụ từ thế kỷ thứ 7, Ngày Thứ Tư Lễ Tro là một ngày quan trọng, và không một lễ nào có thề vượt lên trên. Người ta cũng gọi ngày này là "Đầu Mùa Chay”(Caput ieiunii), hay “Đầu Mùa ăn chay 40 ngày”(Caput Quadragesimalis). Việc ăn chay trong Mùa này đã có từ thời Đức Giáo Hoàng Gregoriô Cả (590-604).

Về nghi thức làm phép tro và xức tro, qua thời gian lễ nghi này đã có sự biến đổi từ một nghi thức nghi thức thống hối trong định chế về tập tục thống hối công cộng thời xưa. Lịch sử phụng vụ về việc thành hình Nghi thức cử hành bí tích thống hối và hoà giải, cũng như định chế Giáo hội về một số sinh hoạt đặc biệt, đã có tục lệ bỏ tro cho hối nhân công cộng đã phạm một số tội nặng cách công khai, mà mọi người đều biết, như chối bỏ đức tin, giết người, ngoại tình... Những người này bị loại ra khỏi cộng đoàn tín hữu. Để được nhận lại trong cộng đoàn, họ phải làm việc thống hối công cộng theo định chế Giáo hội đưa ra. Vào ngày thứ tư trước Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay, những hối nhân công cộng này sẽ tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, và sau khi xưng thú tội của mình, họ sẽ được Đức Giám mục trao cho chiếc áo nhặm mang trên mình, rồi lãnh nhận tro trên đầu và trên mình. Sau đó họ bị đưởi ra khỏi nhà thờ và được chỉ định đi tới một tu viện để ở đó và thi hành một số việc thống hối đã ra cho họ. Vào sáng thứ năm Tuần thánh, các hối nhân này tụ tập lại tại nhà thờ chính toà, được Đức Giám mục xem xét việc thực hành thống hối của họ trong Mùa Chay, sau đó ngài đọc lời xá giải tội lỗi của họ để giao hoà với cộng đoàn. Từ đây họ được quyền tham dự các buổi cử hành bí tích. Tại Rôma, vào thế kỷ thứ 7, các hối nhân công cộng tập họp tại một số nhà thờ tước hiệu (tituli) của thành phố, cũng như tại 4 Đại Vương cung thánh đường thánh Phêrô, thánh Phaolô ngoại thành, thánh Gioan Lateranô và Đức Bà Cả, để cử hành nghi lễ như vừa nói trên đây.

Về sau định chế thống hối công cộng không còn nữa, tuy nhiên lễ nghi bỏ tro vẫn còn giữ lại trong ngày Thứ Tư Lễ Tro. Đầu tiên chỉ có các tín hữu lãnh nhận tro trên mình. Về sau các Đức Giáo hoàng và tín hữu đều lãnh tro, để tỏ lòng thống hối. Sang thế kỷ thứ 10, thì có việc làm phép tro và một lời nguyện kèm theo bắt chước cơ cấu thánh lễ, nghĩa là có lời nguyện giống như Kinh nguyện thánh thể, và việc lãnh nhận tro như khi cử hành việc rước lễ.

Vào thế kỷ thứ 11, cũng tại Rôma, Đức Giáo hoàng tập họp các giáo sĩ, giáo dân tại nhà thờ thánh Anastasia. Ngài làm phép tro, bỏ tro cho mọi người, sau đó tất cả đi kiệu về nhà thờ thánh nữ Sabina ở đồi Aventino. Trong khi đ kiệu, Đức Giáo hoàng và cộng đoàn hát kinh cầu các thánh. Tất cả đều mặc áo nhặm, đi chân không, để tỏ lòng thống hối ăn năn. Khi đoàn kiệu đến nhà thờ thánh Sabina, Đức Giáo hoàng đọc lời xá giải và cộng đoàn cùng hát bài "Chúng ta hãy thay đổi đời sống, Xức tro và ăn chay hãm mình, khóc than vì lỗi lầm đã phạm. Hãy khẩn cầu Thiên Chúa chúng ta. Vì Người rất từ bi nhân hậu sẵn sàng tha thứ mọi tội khiên”(Immutemur, xc. Ge 2, 13). Sau đó ngài cử hành thánh lễ. Đó là trạm đầu tiên (statio) của Mùa Chay. Ngày nay vào Thứ Tư Lễ Tro, Đức Giáo hoàng cũng đến làm phép tro và bỏ tro tại nhà thờ thánh nữ Sabina theo truyền thống xưa. Trước đó có cuộc rước kiệu từ nhà thờ thánh Anselmô cũng trên dồi Aventino. Tại nhà thờ thánh nữ Sabina, ngài công bố sứ điệp Mùa Chay cho toàn thể Giáo hội (Sứ điệp Mùa Chay năm 2002 mang tựa đề: Anh em đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không [Mt 10, 8]).

Vào năm 1091, Công đồng Benevento (Nam Italia) đã truyền cử hành nghi lễ bỏ tro cho tất cả các nơi trong Giáo hội. Trong khi bỏ tro, vị linh mục đọc lời: "Ta là thân cát bụi sẽ trở về cát bụi”(St 3, 19). Tro này lấy từ những cành lá đã được làm phép trong ngày Chúa nhật Lễ Lá năm trước để lại. Trước công cuộc canh tân phụng vụ của Công đồng chung Vaticanô II, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro được cử hành trước thánh lễ. Vào năm 1970, khi công bố Sách Lễ Rôma được tu chính, thì lễ nghi này được cử hành sau phần phụng vụ lời Chúa. Ngoài câu trích từ Sách Sáng thế, còn có thêm một công thức dùng khi bỏ tro, lấy từ Phúc âm: "Hãy ăn năn sám hối và đón nhận Tin Mừng”(Mc 1, 15). Với công thức mới này được thêm vào, thì biểu hiệu "tro”đã mang thêm một ý nghĩa mới nữa đó là việc canh tân đời sống trong suốt Mùa Chay thánh. Sau đây là một trong hai lời nguyện làm phép tro: "Lạy Chúa, Chúa nhân từ đối với ai khiêm tốn, và tha thứ cho kẻ biết ăn năn. Xin nghe lời chúng con khẩn nguyện và rộng tay giáng phúc cho hết thảy chúng con sắp nhận lấy tro này, để chúng con kiên trì giữ bốn mươi ngày chay thánh, và nhờ đó được nên tinh tuyền, xứng đáng cử hành mầu nhiệm Vượt qua của Đức Kitô, Con Một Chúa, Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời”(còn có một lời kinh khác trong Sách Lễ Rôma).

2. Ý nghĩa việc bỏ tro và ngày Thứ Tư Lễ Tro

Trong Cựu Ước, việc xức tro và mặc áo nhặm được dùng để thực hành và biểu lộ lòng thống hối cá nhân hay toàn thể cộng đoàn dân Israel. Tro chỉ thân xác chúng ta là bụi tro, sẽ phải chết (xc. St 3, 18.27; Giob 34, 17; Gr 6, 26; 25, 34; Est 4, 13; Is 58, 5; Dn 9, 3; Giona 3, 6; Giudith 4, 16; 9, 1).

Trong truyền thống các đan sĩ và tụ viện, tro được dùng để nói lên mối liên hệ với sự chết và sự khiêm nhường thống hối trước mặt Chúa. Vì thế, các tu sĩ, các đan sĩ có tục lệ tại một số nơi, muốn nằm trên đống tro với chiếc áo nhặm để chết. Thánh Martino thành Tours bên Pháp đã nói: "Không gì xứng hợp hơn cho một tu sĩ là việc nằm chết trên đống tro bụi". Các vị này lấy tro đã được làm phép trong ngày Thứ Tư Lễ Tro, rồi vẽ hình thánh giá trên đất, trên đó còn trải thêm áo nhặm và rồi các vị nằm trên đó khi hấp hối và khi chết. Các tu sĩ cũng có thói quen trộn tro vào bánh như của ăn. Đó là một hình thức hãm mình nhiệm nhặt mà các tu sĩ phải giữ.

Từ đây chúng ta nhận ra, trước tiên Giáo hội đã đặt nền tảng cho việc thống hối, đó là nhìn nhận lại tình trạng nguyên tuyền của ơn thánh đã bị mất do tội nguyên tổ, và hậu quả là con người xa Thiên Chúa, trốn tránh Thiên Chúa. Con người sẽ phải chết như là một hậu quả của tội lỗi. Vì thế cần phải "quay trở lại”một cách tận căn, như ý nghĩa diễn tả qua từ "canh tân”trong ngôn ngữ Do thái, là quay ngược lại với 360 độ. Đàng khác suy tư về bụi tro, để cho thấy sự yếu hèn của mình và tính cách tuỳ thuộc vào Thiên Chúa vì con người được Ngài tạo dựng. Nhưng Thiên Chúa đoái thương và ban ơn cứu rỗi. Phụng vụ đã diễn tả nền tảng này qua các biểu hiệu và các lời kinh của ngày Thứ tư Lễ Tro.

Cùng với một số biểu hiệu khác được Giáo hội dùng trong Mùa Chay, như mầu áo lễ tím, không đọc Kinh Vinh Danh, không trưng bông hoa trên bàn thờ, không dùng đàn trong thánh lễ, bụi tro cũng được dùng để cho thấy tính cách thống hối của Mùa Chay và thân phận của con người hay chết.

Nói tóm lại, lễ nghi làm phép tro và bỏ tro trong ngày Thứ Tư Lễ Tro gợi ra cho tín hữu về một thời điểm quan trọng đang bắt đầu liên hệ tới ơn cứu rỗi của họ, đó là Mùa Chay. Đồng thời, lễ nghi khởi đầu này cũng đề ra cho tín hữu một hành trình phải đi theo trong thời gian suốt Mùa Chay.

Hành trình đó là thực hành các việc làm biểu lộ sự thống hối, sống bác ái; đàng khác, tín hữu cũng phải đi sâu vào tâm tình thống hối, khi suy tư về thân phận con người, về lỗi lầm của mình và nhu cầu khẩn thiết phải trở về, phải canh tân cuộc sống. Tuy nhiên, tín hữu không làm những việc này trong ý thức khổ hạnh cá nhân, nhưng là để hướng về ơn cứu rỗi Chúa Kitô đã thực hiện và Giáo hội đang chuẩn bị mừng trong đại lễ Phục sinh. Ngày nay các biểu hiệu bên ngoài, như thống hối công cộng, như mặc áo nhặm, như đi chân không trong cuộc hành hương, vv. không còn được thực hiện như xưa, vì hoàn cảnh xã hội đổi thay, nhưng thái độ và ý chí thống hối, canh tân trở về vẫn phải in khắc sâu đậm trong thâm tâm mỗi người. Mỗi người sẽ tự đưa ra cho mình một số những thực hành thống hối trong cuộc sống cụ thể để biểu lộ ý nghĩa và tinh thần của lễ nghi xức tro.

 

53.Bụi tro

Hôm nay, khi bỏ tro trên đầu chúng ta, vị linh mục chủ sự đọc:

- Hỡi người, hãy nhớ mình là bụi tro, một mai người sẽ trở về bụi tro.

Cũng một lời ấy được lặp lại cho mọi người, không phân biệt nam nữ, tuổi tác và địa vị.

Trong ngày đăng quang, trước đông đảo quần chúng từ khắp nơi kéo về công trường thánh Phêrô, vị Hồng Y niên trưởng tiến tới trước mặt Đức Tân Giáo Hoàng, tay cằm một miếng vải mỏng, vừa đốt vừa nói:

- Thưa Đức Thánh Cha, mọi chức sang quyền trọng cũng sẽ qua đi như thế.

Đó là một sự thật, mà không ai có quyền chối cãi.

Ngoài nghĩa địa có biết bao nhiêu ngôi mộ, cái thì to, cái thì nhỏ, cái thì đơn sơ một nắm đất, cái thì được xây cất lộng lẫy như một biệt thự, nhưng bên trong cũng chỉ là xương khô và tro bụi. Người đi trước thế nào, thì chúng ta những kẻ đi sau cũng thế, một ngày kia chúng ta sẽ phải cúi đầu vâng theo định luật chung ấy mà thôi:

- Danh vọng là mây khói và con người là bụi tro.

Bởi đó chúng ta phải nhìn rõ con người bởi đâu mà đến và rồi sẽ đi về đâu? Mục đích của cuộc đời chúng ta là gì?

Đức tin trả lời cho chúng ta rằng: cuộc đời là một chuyến đi tìm về cùng Thiên Chúa, mục đích cuối cùng của chúng ta phải là chính Thiên Chúa. Và để chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ định mệnh này, Giáo Hội trong mùa chay luôn kêu gọi chúng ta hãy hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, đó là những cái chúng ta có thể đem theo trong cuộc hành trình cô đơn là cái chết.

Tuy nhiên, trong khi chấp nhận hy sinh hãm mình và làm việc lành phúc đức, chúng ta cần phải tránh đi thói kiêu căng và háo danh. Có nghĩa là chúng ta phải âm thầm và kín đáo, để chỉ mình Chúa biết và Ngài sẽ ân thưởng bội hậu cho chúng ta mà thôi.

Jacopone là một luật sư nổi tiếng, trong cuộc chạy đua vào thượng viện, ông trúng ghế nghị sĩ. Vào ngày ăn khao, đang lúc xem trình diễn văn nghệ thì rạp hát bị sụp đổ, khiến bà Jacopone bị vùi dưới đống gạch vụn. Người ta phải đào bới mãi mới kéo được bà lên. Khi ấy bà đã bị thương nặng và đang thoi thóp gần chết. Lúc bấy giờ người ta mới khám phá ra, bên trong chiếc áo dạ hội, bà mặc một chiếc áo nhặm, kết bằng lông ngựa cứng.

Ông Jacopone phàn nàn trách bà là đã đày đoạ thân xác, nhưng bà trả lời:

- Tôi khuyên răn mà ông không nghe. Ông vẫn cứ sống bê tha. Vì thế, tôi mặc áo này, để hy sinh và cầu nguyện cho ông.

Bà đã hy sinh hãm mình một cách âm thầm lặng lẽ để cầu nguyện cho ông và chỉ có một mình Chúa hay biết mà thôi.

Việc bỏ tro trên đầu nhắc cho chúng ta nhớ rằng mình chỉ là tro bụi, nhưng đừng trở về bụi tro với hai bàn tay trắng.

Bởi đó, ngay từ giây phút này chúng ta hãy lo thực thi tình bác ai yêu thương, nhờ đó chúng ta sẽ được Chúa đón nhận vào quê hương nước trời. Bởi vì, đứng trước cái chết thì: Những gì chúng ta ta có hôm nay, ngày mai sẽ thuộc về người khác. Những gì chúng ta mua sắm hôm nay, ngày mai người khác sẽ hưởng dùng. Chỉ những gì chúng ta cho đi mới mãi mãi thuộc về chúng ta mà thôi.

 

Bài cùng chuyên mục:

Thứ Sáu 03/05/2024 – Thứ Sáu đầu tháng, tuần 5 Phục Sinh. – THÁNH PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ, Tông Đồ. Lễ Kính. – Ðến với Chúa. (02/05/2024 10:00:00 - Xem: 385)

THÁNH PHILIPPHÊ VÀ THÁNH GIACÔBÊ, Tông Đồ. Lễ Kính.

Thứ Năm 02/05/2024 – Thứ Năm đầu tháng, tuần 5 Phục Sinh. – Thánh Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. – Niềm vui được trọn vẹn. (01/05/2024 10:00:00 - Xem: 2,989)

Thánh Athanasiô, giám mục, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.

Thứ Tư 01/05/2024 – Thứ Tư tuần 5 Phục Sinh. – Thánh Giuse thợ. – Người thợ vô danh: Thinh lặng, cầu nguyện và xin vâng. (30/04/2024 10:00:00 - Xem: 4,536)

Thánh Giuse thợ.

Thứ Ba 30/04/2024 – Thứ Ba tuần 5 Phục Sinh. – Hiệp nhất và bình an. (29/04/2024 10:00:00 - Xem: 3,648)

Thứ Ba tuần 5 Phục Sinh.

Thứ Hai 29/04/2024 – Thứ Hai tuần 5 Phục Sinh. – Thánh Catarina Siêna, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ. – Những giới hạn. (28/04/2024 10:00:00 - Xem: 4,007)

Thánh Catarina Siêna, trinh nữ, tiến sĩ Hội Thánh. Lễ nhớ.

+ Chúa Nhật 28/04/2024 – CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH năm B. – Cây nho nối kết cành nho. (27/04/2024 10:00:00 - Xem: 4,192)

CHÚA NHẬT 5 PHỤC SINH năm B.

Thứ Bảy 27/04/2024 – Thứ Bảy tuần 4 Phục Sinh. – Cầu nguyện nhân danh Chúa. (26/04/2024 10:00:00 - Xem: 3,178)

Thứ Bảy tuần 4 Phục Sinh.

Thứ Sáu 26/04/2024 – Thứ Sáu tuần 4 Phục Sinh. – Ðường về quê trời. (25/04/2024 10:00:00 - Xem: 3,871)

Thứ Sáu tuần 4 Phục Sinh.

Thứ Năm 25/04/2024 – Thứ Năm tuần 4 Phục Sinh – THÁNH MÁCCÔ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. Lễ kính. – Sư Tử Có Ðôi Cánh.  (24/04/2024 10:00:00 - Xem: 4,683)

THÁNH MÁCCÔ, TÁC GIẢ SÁCH TIN MỪNG. Lễ kính.

Thứ Tư 24/04/2024 – Thứ Tư tuần 4 Phục Sinh. – Ðức tin là ánh sáng. (23/04/2024 10:00:00 - Xem: 3,986)

Thứ Tư tuần 4 Phục Sinh.

Bài viết mới
Câu chuyện chiều thứ 7